Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Một số yếu tố ảnh hưởng đến ý định nhận bảo hiểm xã hội một lần của người lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.09 KB, 12 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH NHẬN  
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
NCS.ThS. Lê Thị Xuân Hương TS. Hoàng Bích Hồng ‐  ThS. Phạm Minh Tú
Trường Đại học Lao động - Xã hội
Tóm tắt: Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) hiện hành ở Việt Nam cho phép
NLĐ rút BHXH một lần trước khi đến tuổi nghỉ hưu là một trong những nguyên nhân
dẫn đến thực trạng gia tăng số người hưởng BHXH một lần, không những ảnh hưởng
đến an sinh xã hội trong dài hạn đối với NLĐ mà còn ảnh hưởng đến mục tiêu mở
rộng diện bao phủ của chính sách bảo hiểm xã hội, làm gia tăng gánh nặng Ngân sách
Nhà nước trong tương lai. Bài viết tổng hợp và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến
ý định nhận BHXH một lần của NLĐ dựa trên phương pháp nghiên cứu tổng quan các
tài liệu trước có liên quan đến chủ đề nghiên cứu kết hợp phương pháp phỏng vấn sâu
và thảo luận nhóm. Đồng thời, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện chính
sách BHXH, hạn chế gia tăng hưởng BHXH một lần, đảm bảo an sinh xã hội dài hạn
cho NLĐ.
Từ khóa: các yếu tố ảnh hưởng, ý định, bảo hiểm xã hội một lần
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, với hầu hết các quốc gia thì chính sách bảo hiểm xã hội
(BHXH) đều được coi là trụ cột của hệ thống An sinh xã hội (ASXH). Ở Việt Nam,
hệ thống pháp luật, chính sách bảo hiểm xã hội đã từng bước được hồn thiện, phát
huy vai trị là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Số người tham gia và
số người được hưởng bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng và không ngừng
tăng lên. Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách BHXH của Ban chấp hành Trung
ương ban hành ngày 23 tháng 5 năm 2018 đã đề ra mục tiêu phấn đấu đạt khoảng 35%
(năm 2021), 45% (năm 2025), 60% (năm 2030) lực lượng lao động trong độ tuổi tham
gia bảo hiểm xã hội; số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm
319



KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

xã hội hàng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội là khoảng 45% (năm 2021), khoảng
55% (năm 2025), khoảng 60% (năm 2030).
Tính đến hết năm 2018, theo số liệu thống kê của Bảo hiểm xã hội (BHXH)
Việt Nam, số người tham gia BHXH là 14,724 triệu người (chiếm khoảng 30,4%
lực lượng lao động trong độ tuổi), số người hưởng hưu trí là 2,505 triệu người
(chiếm khoảng hơn 20% số người sau độ tuổi nghỉ hưu). Tuy nhiên, cùng với đó là
sự gia tăng mạnh số lượng NLĐ nhận BHXH một lần và rời bỏ sớm khỏi hệ thống
BHXH. Bình qn hàng năm có hơn 600 nghìn người hưởng BHXH một lần, tổng
số người xin ra khỏi hệ thống an sinh xã hội gần xấp xỉ số người mới vào hệ thống
BHXH bắt buộc. Đây là một thực tế rất đáng lo ngại, ảnh hưởng đến việc thực hiện
mục tiêu mở rộng độ bao phủ của BHXH, cũng như vấn đề bảo đảm an sinh xã hội
lâu dài cho NLĐ.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng việc nghiên cứu để lý giải, phân tích, đánh
giá các yếu tố ảnh hưởng đến ý định hưởng BHXH một lần của NLĐ; từ đó có thể
có những điều chỉnh/tác động về mặt chính sách và các yếu tố nhằm hạn chế tình
trạng nhận BHXH một lần, đảm bảo an sinh xã hội lâu dài cho NLĐ là một chủ đề
có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Trên cơ sở đó, có những gợi ý/hàm ý giúp cho các
nhà quản lý và hoạch định chính sách để tác động tới ý định hưởng BHXH của
NLĐ, góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết của người tham gia về BHXH,
hạn chế tình trạng nhận BHXH một lần trước tuổi nghỉ hưu, phát triển đối tượng
tham gia BHXH, đảm bảo an sinh xã hội dài hạn cho NLĐ và tính bền vững cho
cả hệ thống BHXH.
2. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH HÀNH VI NHẬN
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trước về chủ đề liên quan kết hợp sử dụng
phương pháp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm (đối tượng nghiên cứu tham gia là lãnh

đạo BHXH các tỉnh/thành phố, lãnh đạo một số viện nghiên cứu, trường đại học có
chuyên ngành về BHXH, cán bộ làm công tác tuyên truyền, cán bộ làm cơng tác giải
quyết chính sách và chi trả chế độ BHXH, NLĐ tham gia BHXH có ý định nhận
BHXH một lần); kết quả nghiên cứu khái quát một số yếu tố ảnh hưởng đến ý định
nhận bảo hiểm xã hội một lần của NLĐ như sau:
320


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

Hiểu biết về bảo hiểm hưu trí
Hiểu biết về bảo hiểm là những hiểu biết của bản thân về các loại hình bảo hiểm
và cách sử dụng bảo hiểm để giải quyết khi có tổn thất (H. Hayakawa, 2000). Một số
các nghiên cứu trước của các tác giả trong và ngoài nước trong lĩnh vực bảo hiểm y tế
(BHYT) cho thấy rằng yếu tố nhận thức, hiểu biết về bảo hiểm là một trong những yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia hay không tham gia bảo hiểm y tế của người
dân. Chẳng hạn như, theo nhóm nghiên cứu Mathauer, I., Schmidt, J. O., & Wenyaa,
M. (2008) thì một trong những rào cản quan trọng nhất đối với việc tham gia BHYT
xã hội của NLĐ khu vực phi chính thức ở Kenya là sự thiếu hiểu biết của NLĐ khu
vực phi chính thức về BHYT xã hội. NLĐ trong khu vực phi chính thức thường thiếu
kiến thức và khơng có thơng tin về chính sách, chế độ, khơng có tổ chức đảm bảo cho
việc tham gia BHYT, khơng muốn tham gia vì chưa tin tưởng vào hoạt động BHYT
hoặc việc thanh toán chế độ phức tạp. Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Dror, D.
M., Hossain, S. S., Majumdar, A., Pérez Koehlmoos, T. L., John, D., & Panda, P. K.
(2016) về các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia tự nguyện ban đầu của chương trình
bảo hiểm y tế dựa vào cộng đồng (CBHI) ở các nước thu nhập thấp và trung bình
(LMIC) và các quyết định gia hạn cũng cho thấy rằng kiến thức, hiểu biết về bảo hiểm
và CBHI là một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng. Khi các cá nhân hiểu CBHI
hoạt động như thế nào, họ có nhiều khả năng đăng ký hơn và khi mọi người có trải

nghiệm tích cực, họ có nhiều khả năng tiếp tục duy trì sự tham gia. Nhóm nghiên cứu
Nguyen, T. D., & Wilson, A. (2017) trong bài viết về tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cho
người cận nghèo ở nông thôn Việt Nam và các yếu tố liên quan cũng đã xác định việc
tham gia chương trình bảo hiểm y tế có liên quan đáng kể đến kiến thức về BHYT.
Đồng quan điểm này, nhóm tác giả Nga, N. T. T., Xiem, C. H., & Anh, B. T. M.
(2020) trong nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT gia đình đã
cho thấy kiến thức về bảo hiểm y tế có ảnh hưởng đáng kể đến việc tham gia/không
tham gia BHYT.
Những kết quả nghiên cứu trên đã gợi mở cho tác giả ý tưởng về nghiên cứu có
hay khơng sự ảnh hưởng của yếu tố hiểu biết về chính sách bảo hiểm hưu trí và BHXH
một lần đến ý định nhận BHXH một lần. Thơng qua phương pháp phỏng vấn sâu và
thảo luận nhóm đối với các đối tượng nghiên cứu, tác giả nhận định rằng sự hiểu biết
của NLĐ về bảo hiểm hưu trí là một trong những yếu tố có tác động đến ý định hành
321


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

vi nhận BHXH một lần của họ. Trong xã hội ngày càng phát triển, người dân đã ý thức
được sự cần thiết của các loại hình bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro khi gặp phải những
biến cố bất ngờ trong cuộc sống. Tuy nhiên, hiểu biết về bảo hiểm nói chung và bảo
hiểm hưu trí nói riêng vẫn cịn nhiều hạn chế. Điều này khiến người dân ngần ngại
trước khi quyết định tham gia. Nhiều NLĐ chưa hiểu biết rõ về mức đóng, thời gian
đóng, quyền lợi hưởng…, cảm thấy do dự vì thời gian tham gia quá dài, không hiểu rõ
quy định về sự liên thơng giữa hai hình thức BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
Điều đó dẫn tới hành vi xin nhận BHXH một lần và khơng có ý định tham gia tiếp khi
rời khỏi khu vực tham gia bắt buộc.
Nhận thức về tính an sinh xã hội dài hạn của bảo hiểm hưu trí
Trong chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia thì chính sách hưu trí đóng vai

trị quan trọng bởi nó đảm bảo ổn định đời sống cho bộ phận dân cư đã hết tuổi lao
động, vừa góp phần đảm bảo cơng bằng, ổn định xã hội, vừa giảm gánh nặng từ ngân
sách Nhà nước. Bằng việc nhận thức về tính an sinh xã hội dài hạn của bảo hiểm hưu
trí, NLĐ sẽ thể hiện việc mong muốn hay khơng mong muốn nhận BHXH một lần, từ
đó hình thành ý định nhận hay khơng nhận BHXH một lần.
Nhóm nghiên cứu Hazel Bateman và cộng sự (2020) đã thực hiện một cuộc khảo
sát với hơn 3.000 thành viên của Cbus (một quỹ hưu bổng lớn của Úc chủ yếu dành
cho lĩnh vực xây dựng), những người rút một phần hoặc toàn bộ số tiền tiết kiệm từ
quỹ hưu bổng của họ trong giai đoạn đầu của Covid-19. Kết quả khảo sát cho thấy
rằng có khoảng 30% người nộp đơn xin rút khoản trợ cấp hưu trí một lần từ quỹ hưu
trí của họ khơng chắc chắn hoặc khơng quan tâm đến hậu quả lâu dài của việc rút tiền
trước từ quỹ bảo hiểm hưu trí của họ, có khoảng 50% số người tham gia khảo sát đánh
giá thấp hoặc khơng ước tính được các tác động của việc rút tiền trước khi nghỉ hưu từ
quỹ bảo hiểm hưu trí.
Một nghiên cứu khác trong lĩnh vực bảo hiểm y tế của các tác giả Kansra, P., &
Gill, H. S. (2017) cũng đã xác định vai trò của nhận thức trong việc tham gia bảo
hiểm y tế ở khu vực phi chính thức ở Punjab, Ấn Độ. Nhận thức đóng một vai trò
quan trọng đồng thời là một rào cản tiềm ẩn trong quyết định tham gia BHYT hộ gia
đình. Yếu tố này cũng được nhóm tác giả Kituku, A. M., & Amata, E. (2016) đề cập
đến trong kết quả nghiên cứu về các yếu tố quyết định việc NLĐ khu vực phi chính
322


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

thức sử dụng bảo hiểm y tế NHIF (Quỹ bảo hiểm Y tế Quốc gia) của Kenya. Kết quả
cho thấy nhận thức về lợi ích của NHIF là một trong những yếu tố quyết định chính
đến mức độ tiếp nhận chi trả y tế tại Quỹ bảo hiểm y tế quốc gia Kenya của lao động
khu vực phi chính thức.

Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, thông qua phương pháp phỏng
vấn sâu và thảo luận nhóm đối với các đối tượng nghiên cứu, tác giả cũng thu được
kết quả tương tự và đưa ra nhận định nhận thức về tính an sinh xã hội dài hạn của
bảo hiểm hưu trí là một yếu tố đáng kể có tác động đến ý định nhận BHXH một lần
của NLĐ.
Thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm xã hội
Tuyên truyền là việc đưa ra các thông tin (vấn đề) với mục đích đẩy thái độ, suy
nghĩ, tâm lý và ý kiến của quần chúng theo chiều hướng nào đấy mà người nêu thơng
tin mong muốn (Bách khoa tồn thư mở Wikipedia). Với bất kỳ chính sách nào, thơng
tin tun truyền cũng ln đóng vai trị định hướng, giúp cho người dân từ biết đến
hiểu, từ hiểu đến thực hiện và tham gia phát triển thêm chính sách ấy. Chính sách bảo
hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hưu trí cũng khơng là ngoại lệ. Bởi lẽ, một trong
những nguyên nhân dẫn đến người dân không quan tâm, không muốn tham gia hoặc
không tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội là họ thiếu hiểu biết, chưa thấy lợi ích của
việc tham gia hoặc thiếu tin tưởng vào hệ thống tổ chức thực hiện. Do đó, vấn đề đặt
ra là phải tuyên truyền để người dân hiểu rõ về chính sách, chế độ, vai trị, ý nghĩa, tác
dụng cũng như những lợi ích của bảo hiểm hưu trí để họ biết, tin tưởng và nhiệt tình
tham gia. Thơng tin tun truyền chính sách bảo hiểm hưu trí khơng chỉ đơn thuần là
việc của cơ quan tổ chức thực hiện mà đó cịn là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các
tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Trong nghiên cứu của Kansra, P., & Gill, H. S. (2017), yếu tố thiếu thông tin là
một trong những rào cản tham gia bảo hiểm y tế của NLĐ làm việc trong khu vực phi
chính thức ở Ấn Độ. Các chiến dịch tuyên truyền, giáo dục và truyền thông là các giải
pháp quan trọng được đề cập đến trong nghiên cứu của Nguyen, T. D., & Wilson, A.
(2017) để thúc đẩy sự tham gia bảo hiểm y tế, nâng cao tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế
cho người cận nghèo ở nông thôn Việt Nam. Trong lĩnh vực BHXH, yếu tố truyền
thông cũng được nhiều nghiên cứu của nhiều tác giả cho rằng có ảnh hưởng đến ý
định/ý định hành vi của người tham gia. Mặt khác, qua phỏng vấn các chuyên gia, thảo
323



KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

luận nhóm với một số NLĐ thì họ đều cho rằng yếu tố truyền thơng là cần thiết. Vì
theo họ thì truyền thơng sẽ giúp mang thông tin đến với đại đa số người dân để từ đó
họ nâng cao nhận thức, hiểu được tính ưu việt của chính sách BHXH nói riêng và
những chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung.
Tình trạng việc làm, mức thu nhập của NLĐ
Mức thu nhập có ảnh hưởng tích cực đến nhu cầu bảo hiểm, khi thu nhập cao hơn
họ càng muốn tham gia bảo hiểm (Horng và Chang, 2007). Đặc biệt, mức thu nhập
được đo lường bằng khả năng tiếp cận việc làm hoặc thu nhập thường xuyên làm tăng
xu hướng tiếp tục được bảo hiểm. Tình hình như vậy là bởi vì thu nhập hạn chế cho
việc chi tiêu để tiếp tục duy trì bảo hiểm có khả năng làm chuyển hướng nguồn lực
khỏi việc tiêu thụ các mặt hàng cấp bách khác (Gertler & Gruber, 2002; Chetty &
Looney, 2006). Wagstaff (2000) quan sát thấy rằng các cá nhân khơng có khả năng
đảm bảo tiếp tục gia hạn bảo hiểm khi họ tiến gần hơn đến nghèo đói bởi vì bất kỳ sự
giảm thu nhập nào cũng có thể đẩy họ tiến xa hơn tới mục tiêu tồn tại đơn thuần.
Các nghiên cứu trong lĩnh vực bảo hiểm y tế đã cho thấy, người có thu nhập thấp
có thể gặp khó khăn trong việc tham gia bảo hiểm y tế (Carrin và cộng sự, 2005;
Mathauer và cộng sự, 2008; Meng và cộng sự, 2011), bởi lẽ chuyện chi trả mức thu
nhập hạn chế cho việc tham gia bảo hiểm có thể ảnh hưởng đến việc đáp ứng các nhu
cầu cấp thiết khác. Vì vậy, thay vì đầu tư cho các lợi ích sức khỏe trong tương lai có
vẻ khơng chắc chắn, những người có thu nhập thấp có thể từ chối bảo hiểm để khơng
bị trở nên khó khăn hơn khi tham gia bảo hiểm. Thu nhập cũng là một trong những lý
do được viện dẫn ảnh hưởng đến quyết định tham gia/không tham gia và tiếp
tục/không tiếp tục tham gia BHYT trong nghiên cứu được thực hiện ở vùng Volta của
Ghana của các tác giả Boateng, D., & Awunyor-Vitor, D. (2013). Kết quả điều tra về
lý do người dân không tham gia BHYT tự nguyện tại thành phố Hà Tĩnh của các tác
giả Chu Kim Loan và Nguyễn Hồng Ban (2013) cho thấy lý do chủ yếu là “không đủ

tiền mua”.
Đối với bảo hiểm hưu trí, cũng trong nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Hazel
Bateman và cộng sự (2020) đã đề cập ở nội dung trước, cho thấy rằng, phần lớn những
người xin rút một phần tiền trợ cấp BHXH một lần từ quỹ bảo hiểm hưu trí của họ
nhằm mục đích giải quyết các nhu cầu trước mắt khi họ rơi vào tình trạng thất nghiệp
hoặc đang có việc làm nhưng số giờ làm giảm. Điều này giúp củng cố nhận định rằng,
324


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

mức thu nhập/tình trạng việc làm cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến ý
định/hành vi nhận BHXH một lần của người tham gia. Ở Việt Nam, điều này cũng
được ghi nhận qua kết quả nghiên cứu của Nguyen, T. P. (2020). Kết quả nghiên cứu
cho thấy NLĐ trong điều kiện có việc làm và thu nhập bấp bênh đều coi số tiền đóng
bảo hiểm xã hội của họ là một loại tiết kiệm, bởi một phần trong đó là khoản khấu trừ
hàng tháng của thu nhập họ kiếm được. Theo quan điểm của họ, nếu nó khơng dành
cho chương trình BHXH bắt buộc thì NLĐ sẽ có thể giữ tất cả tiền mà họ kiếm được
mỗi tháng. Do đó, NLĐ có xu hướng rút quỹ/xin nhận BHXH một lần khi cuộc sống
của họ gặp khó khăn, chẳng hạn như khi họ gặp khó khăn về tài chính hoặc cần một
khoản tiền lớn để chi tiêu trong gia đình (ở đây có nghĩa là một số tiền bằng khoảng
40-50 triệu đồng).
Một số yếu tố khác
Kết quả thảo luận cũng cho thấy rằng, ngoài các yếu tố đã đề cập ở trên thì ý
định hành vi nhận BHXH một lần của NLĐ còn chịu ảnh hưởng bởi một số các yếu
tố khác như:
Ảnh hưởng xã hội, trong lĩnh vực BHXH, những cá nhân quan trọng có ảnh
hưởng đến việc hình thành ý định nhận BHXH một lần có thể là các nhóm bạn, nhóm
người quen biết, các đồng nghiệp, những người thân trong gia đình,… Thái độ và sự

quan tâm của họ đối với việc nhận BHXH một lần cũng góp phần ảnh hưởng đến ý
định nhận BHXH một lần của NLĐ với mức độ mạnh yếu khác nhau tùy thuộc vào
mối quan hệ và sự quý trọng của NLĐ đối với nhóm người này.
Ngoài ra, chất lượng dịch vụ BHXH cũng là một yếu tố có ảnh hưởng đến ý định
nhận BHXH một lần của người tham gia. Trong lĩnh vực BHXH, chất lượng dịch vụ
thể hiện qua các khía cạnh cụ thể như: thủ tục đăng ký tham gia và hưởng chế độ
BHXH; trình độ chun mơn, đạo đức nghề nghiệp, thái độ phục vụ của cán bộ
BHXH; trình độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý (hướng dẫn thủ tục, trả
lời thắc mắc…). Mặt khác, chất lượng dịch vụ còn là sự đảm bảo quyền lợi cho NLĐ
tham gia BHXH thể hiện qua các khía cạnh như: mức trợ cấp BHXH phải đáp ứng
được nhu cầu cần thiết, ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống,…
Giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn,... cũng có những ảnh hưởng khác nhau đến ý
định nhận BHXH một lần của NLĐ trong các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
325


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN VÀ NÂNG CAO CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH NHẬN BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN CỦA NLĐ
Thứ nhất, giải pháp về tăng cường hoạt động truyền thông nhằm nâng cao
nhận thức, hiểu biết của NLĐ; đồng thời nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội
của đơn vị sử dụng lao động, đặc biệt là khối doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm
xã hội.
Nội dung công tác tuyên truyền cần tập trung đẩy mạnh tuyên truyền về những
lợi ích của việc tích lũy thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu khi về già
cũng như sự thiệt thòi khi nhận BHXH một lần trước khi đến tuổi nghỉ hưu thay vì lựa
chọn bảo lưu thời gian đóng BHXH để sau này có cơ hội được hưởng chế độ hưu trí
hàng tháng thơng qua các ví dụ minh họa cụ thể về quyền lợi, mức hưởng mà NLĐ sẽ

nhận được trong hai trường hợp. Hơn nữa, muốn thay đổi thái độ và hành vi của NLĐ
trong việc tham gia BHXH thay vì lựa chọn các hình thức tích lũy khác thì trong cơng
tác thơng tin, tuyên truyền cần tập trung làm rõ cho NLĐ nhận thấy được sự khác biệt
giữa các hình thức tích lũy này, nhấn mạnh về tính ưu việt của việc tham gia BHXH so
với các hình thức tích lũy khác.
Sử dụng kết hợp các hình thức tuyên truyền đa dạng, linh hoạt, như: tổ chức hội
nghị, hội thảo, tập huấn, tọa đàm, đối thoại trực tiếp, tổ chức các đội tuyên truyền lưu
động, hội thi tuyên truyền viên, phát hành ấn phẩm; thực hiện các chuyên trang,
chuyên mục, chuyên đề và các bài viết, phóng sự, tin tức, tổ chức các buổi tọa đàm,
game show truyền hình… Ngồi ra, cần tổ chức tuyên truyền trực quan thông qua các
ấn phẩm tuyên truyền: pano, khẩu hiệu, áp phích, tranh cổ động, tờ rơi, tờ gấp, sách
cẩm nang... với nội dung phong phú theo đặc thù kinh tế - xã hội, văn hóa của từng
vùng miền.
Bên cạnh việc tăng cường tuyên truyền để nâng cao nhận thức đối với NLĐ,
giúp họ có kiến thức và hiểu biết về pháp luật, hiểu rõ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, các chính sách pháp luật của Nhà nước, trong đó bao gồm các nghĩa vụ
và quyền lợi về BHXH; cần chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền về nghĩa vụ
và những lợi ích mà doanh nghiệp được hưởng khi thực hiện đầy đủ trách nhiệm
đóng BHXH. Kết quả nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO cho thấy
những doanh nghiệp tăng diện bao phủ BHXH lên thêm 10% sẽ có doanh thu tăng
326


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

thêm từ 1,2% đến 1,5% và lợi nhuận tăng thêm tới 0,7%. Các số liệu dự tính cho
giai đoạn 2006-2011 là tăng doanh thu 1,4-2,0% và tăng lợi nhuận 1,8% (Lee và
Torm, 2018). Như vậy, cả NLĐ và doanh nghiệp đều có lợi từ gia tăng cung cấp
bảo hiểm xã hội.

Thứ hai, giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật để mở rộng cơ hội cho
NLĐ tham gia hệ thống chính sách BHXH.
Chính sách BHXH cần sửa đổi theo hướng hấp dẫn hơn, tạo nhiều quyền lợi
hơn cho NLĐ, đặc biệt là chế độ hưu trí. Ví dụ như: Rút ngắn điều kiện về thời gian
đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu, tăng mức hỗ trợ của Nhà nước cho
người tham gia BHXH tự nguyện… để NLĐ thấy được lợi ích thiết thực khi tích
lũy thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu, chấp nhận một mức lương hưu
khiêm tốn cịn hơn khơng có; Áp dụng tỷ lệ tích lũy cố định trong tồn bộ thời gian
đóng bảo hiểm xã hội (tỷ lệ tích lũy cố định ở mức 1,5% sẽ sát với thực tiễn quốc tế
hơn, đồng thời cũng phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế về tỷ
lệ hưởng tối thiểu tại thời điểm nghỉ hưu trong Công ước 102 về Quy phạm Tối
thiểu về An sinh Xã hội, cụ thể là 40% cho 30 năm đóng BHXH); Cần điều chỉnh
cơng thức tính lương hưu, từ căn cứ trên tỷ lệ tăng lương bình quân mà hiện đang
áp dụng sang tính dựa trên mức tăng chỉ số giá tiêu dùng, hoặc căn cứ trên trên bình
quân mức tăng chỉ số giá tiêu dùng và mức tăng lương, hoặc căn cứ trên các hình
thức kết hợp khác giữa hai thông số này, nhằm đưa đến một kết quả thỏa mãn đồng
thời hai mục tiêu là bảo tồn sức mua cho người hưởng lương hưu và cải thiện tính
bền vững tài chính trong dài hạn.
Quy định lại điều kiện được thanh toán BHXH một lần cho NLĐ, như: kéo dài
thời gian được nhận BHXH một lần sau khi nghỉ việc; Khi NLĐ nhận trợ cấp BHXH
một lần thì chỉ cho phép nhận phần NLĐ đã đóng góp vào quỹ BHXH, cịn phần đóng
góp của Nhà nước hoặc người sử dụng lao động đóng thì khơng được nhận. Trong một
số trường hợp, có thể cho phép NLĐ đang tham gia BHXH mà trước đó đã được
hưởng BHXH một lần được trả lại tiền đã nhận để bảo lưu thời gian đóng BHXH. Đây
cũng sẽ là một hướng có thể tham khảo khi xem xét điều chỉnh quy định về BHXH
một lần.
Nhằm mục đích mở rộng bao phủ và đảm bảo các chế độ dài hạn thống nhất với
các nguyên tắc của Công ước 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế về Quy phạm Tối
327



KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

thiểu về An sinh Xã hội, cần tiến tới xóa bỏ các quy định cho phép hưởng BHXH
một lần trong trường hợp NLĐ ngừng đóng BHXH trước khi đến tuổi nghỉ hưu,
trong đó quy định việc chi trả lương hưu định kỳ như một hình thức đảm bảo thu
nhập cho NLĐ khi về già. Trong một số trường hợp, có thể áp dụng phương án mức
hưởng lương hưu thấp hơn cho NLĐ có thời gian đóng BHXH chưa đủ so với thời
gian quy định.
Thứ ba, giải pháp về nâng cao chất lượng dịch vụ BHXH và chỉ số mức độ hài
lòng của NLĐ và đơn vị sử dụng lao động khi sử dụng các dịch vụ hành chính cơng
về BHXH.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi nhất trong
quá trình tham gia và giải quyết hưởng các chế độ BHXH cho NLĐ và đơn vị sử dụng
lao động. Chú trọng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức và lao
động. Đội ngũ cán bộ BHXH phải có đủ trình độ chun mơn, đạo đức nghề nghiệp,
trách nhiệm và sự nhiệt tình; phải coi người tham gia BHXH thật sự là “khách hàng”
để có được sự phục vụ họ một cách tận tâm, chu đáo. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động BHXH, từng bước hiện đại hóa hệ thống
quản lý bảo hiểm xã hội; hoàn thiện hệ thống dịch vụ công trực tuyến trên mạng
Internet. Sử dụng đa dạng các kênh thông tin như điện thoại, email, mạng xã hội… để
có thể giúp NLĐ dễ dàng tiếp cận, thuận lợi hơn trong việc tìm hiểu các thủ tục tham
gia, giải đáp thắc mắc… Tiếp tục nâng cấp trang thông tin điện tử của ngành theo
hướng hiện đại và đa dạng, tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức dễ dàng tiếp cận thông
tin về BHXH và các thơng tin có liên quan.
Mặt khác, nâng cao chất lượng dịch vụ còn là sự đảm bảo quyền lợi cho NLĐ
tham gia BHXH thể hiện qua các khía cạnh như: mức trợ cấp BHXH phải đáp ứng
được nhu cầu cần thiết, ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống. Để có thể thực hiện
được điều này, địi hỏi cần có hệ thống các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển quỹ

BHXH bền vững. Đó chính là những u cầu cần thiết phải đáp ứng để thật sự nâng
cao được chất lượng dịch vụ BHXH, góp phần hạn chế tình trạng NLĐ rời bỏ hệ thống
BHXH, đồng thời thúc đẩy NLĐ tham gia BHXH lâu dài.

328


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương (2018), Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ
bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình quản lý và sử dụng quỹ
BHXH.
3. Dror, D. M., Hossain, S. S., Majumdar, A., Pérez Koehlmoos, T. L., John, D., &
Panda, P. K. (2016), What factors affect voluntary uptake of community-based
health insurance schemes in low-and middle-income countries? A systematic
review and meta-analysis. PLoS One, 11(8), e0160479.
4. Ippei Tsuruga (2018), An sinh xã hội và nền kinh tế phi chính thức: Mở rộng diện
bao phủ BHXH tới doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hội thảo Mối liên hệ giữa tuân thủ
bảo hiểm xã hội và Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp tại Việt Nam, Hà Nội, Việt
Nam.
5. Kansra, P., & Gill, H. S. (2017), Role of perceptions in health insurance buying
behaviour of workers employed in informal sector of India, Global Business
Review, 18(1), 250-266.
6. Kituku, A. M., & Amata, E. (2016), Determinants of the uptake of NHIF medical
cover by informal sector workers: a case of Unaitassacco members in Murang’a
County, Journal of Public Policy and Administration, 1(1), 17-31.
7. Loan, C. T. K., & Ban, N. H. (2013), Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện

ở thành phố Hà Tĩnh, Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, 115-124.
8. Mathauer, I., Schmidt, J. O., & Wenyaa, M. (2008), Extending social health
insurance to the informal sector in Kenya. An assessment of factors affecting
demand, The International journal of health planning and management, 23(1), 5168.
9. Nga, N. T. T., Xiem, C. H., & Anh, B. T. M. (2020), Universal coverage
challenges: Determinants of enrolment in family-based social health
insurance, International Journal of Healthcare Management, 1-7.
10. Nguyen, T. D., & Wilson, A. (2017), Coverage of health insurance among the
near-poor in rural Vietnam and associated factors, International journal of public
health, 62(1), 63-73.
329


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

11. Nguyen, T. P. (2020), Coping with Precariousness: How Social Insurance Law
Shapes Workers' Survival Strategies in Vietnam, Law & Society Review, 54(3),
544-570.
12. Nina Torm (2018), An sinh xã hội và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: Phân
tích các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam giai đoạn 2012 đến 2016, Hội thảo
Mối liên hệ giữa tuân thủ bảo hiểm xã hội và Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp tại
Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam.
13. Ogundeji, Y. K., Akomolafe, B., Ohiri, K., & Butawa, N. N. (2019), Factors
influencing willingness and ability to pay for social health insurance in Nigeria,
PloS one, 14(8), e0220558.
14. Phạm Đỗ Nhật Tân (2015), Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực hiện tốt Luật
BHXH sửa đổi, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, ISSN:1859-2562, 275, 18-20
15. Thủ tướng Chính phủ (2013), Chiến lược phát triển ngành Bảo hiểm xã hội Việt
Nam đến năm 2020.


330



×