Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bình luận quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.4 KB, 12 trang )

Mục lục
Trang
1.

Cơ sở ……….………………………………………………………

2.

2
Nội dung ………………………………………………………...…5
Ý nghĩa …………..……………………………………………..….9

3.

Chú thích………………………………………….………………12

1


1. Cơ sở của luận điểm.
1.1. Cơ sở lý luận:


Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản:
Chỉ ra sự tất yếu của cách mạng vơ sản
o Nó là phương thức duy nhất để giai cấp vô sản và nhân dân lao động lật đổ
“thế lực của phương thức sản xuất và của sự giao tiếp trước đó và cả của cơ
cấu xã hội cũ..., phát triển tính phổ biến của giai cấp vô sản và nghị lực mà
giai cấp vơ sản cần có...” (1)
o “cuộc cách mạng này sẽ làm cho giai cấp vô sản trút bỏ được mọi cái rơi rớt
lại từ địa vị xã hội cũ của mình” (1) và chỉ có trong cuộc cách mạng đó, giai cấp


vơ sản “mới có thể qt sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt lấy
mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội”.(2)



Quan điểm của Lenin
Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đã bắt gặp tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin được đăng trên Báo
Nhân đạo. Trong đây, V.I.Lênin đã đề cập những vấn đề về chủ quyền quốc gia
dân tộc, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa, phụ thuộc. V.I.Lênin khẳng định:
o Cách mạng thuộc địa khơng chỉ có nhiệm vụ giải phóng nước mình khỏi ách
đơ hộ của nước ngồi mà cần phải đấu tranh chống lại bọn phản động trong
nước vì chúng là đồng minh của chủ nghĩa đế quốc; phải chú ý đến lực lượng
nông dân đông đảo, xây dựng khối liên minh công - nông; phát triển cuộc đấu
tranh chống đế quốc đi đơi với chống phong kiến, hình thành phong trào dân
tộc dân chủ rộng rãi.
o

“Điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất
cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự
gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu khơng có
chiến thắng đó thì khơng thể thủ tiêu được ách áp bức dân tộc và tình trạng
bất bình đẳng”(3)

o

“Khơng có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của

giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các
nước và các dân tộc trên tồn thế giới, thì khơng thể chiến thắng hoàn toàn
chủ nghĩa tư bản được”(4)

2


1.2. Cơ sở từ thực tiễn


Các phong trào yêu nước tại Việt Nam:
Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào năm 1858, cịn triều đình nhà
Nguyễn thì từng bước khuất phục, lần lượt ký các hiệp ước đem lại cho Pháp
nhiều quyền lợi và dần thừa nhận quyền bảo hộ của chúng trên tồn Việt
Nam. Trước tình hình đó, các phong trào yêu nước nổ ra ở nhiều tỉnh thành
trên cả nước.
Bắt đầu là các phong trào đi theo con đường phong kiến, tiêu biểu là phong
trào Cần Vương (1885 – 1896) của các sĩ phu, văn thân dưới sự lãnh đạo của
Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi, hay là khởi nghĩa nông dân Yên Thế
(1883 – 1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Tuy nhiên với hệ tư tưởng
phong kiến lỗi thời, các phong trào lần lượt đi đến thất bại.
Khi các cuộc khai thác thuộc địa của Pháp được tiến hành dẫn đến sự thay đổi
trong xã hội, các giai cấp như công nhân, tiểu tư sản, tư sản bắt đầu xuất hiện,
cùng với sự ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc, các
phong trào yêu nước chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu là
phong trào Đông Du của Phan Bội Châu hay phong trào Duy Tân của Phan
Chu Trinh. Hồ Chí Minh nhận thấy, Phan Bội Châu đi theo chủ trương cầu
ngoại viện, dùng bạo động, chẳng khác gì “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”, thì Phan Chu Trinh lại có chủ trương “Ỷ Pháp cầu tiến bộ”, nâng cao
dân trí rồi mới tính chuyện giải phóng, cũng chẳng khác gì “Xin giặc rủ lịng

thương”. Cuối cùng, các phong trào trên đều đi đến thất bại.
Có thể thấy, sự thất bại của rất nhiều phong trào yêu nước đã đẩy cách mạng
Việt Nam lúc bấy giờ rơi vào khủng hoảng về tìm ra đường lối cứu nước
đúng đắn.



Các cuộc cách mạng trên thế giới.
o Cách mạng tư sản, tiêu biểu như ở Pháp và Bắc Mỹ, là cuộc cách mạng
do giai cấp tư sản lãnh đạo, với mục đích lật đổ chế độ phong kiến thiết
lập nền thống trị của giai cấp tư sản, mở đường cho sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này vẫn chưa triệt để vì nó chỉ
mang lại lợi ích cho thiểu số, cịn đa số là giai cấp vơ sản vẫn bị bóc lột
với chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Trong những năm đầu hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc, Bác đã
đặt chân đến các nước tư bản đế quốc, Người đã dành nhiều thời gian, tâm
sức dể nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình kinh tế- xã hội ba nước tư bản là
Pháp, Mỹ, Anh, Người đã nhận thấy rõ sự trái ngược giữa thực tiễn đời
sống khổ cực của nhân dân lao động với lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái
được nêu trong các cuộc cách mạng tư sản.
3


Từ đó, Người đã rút ra những nhận xét sâu sắc hơn về tính chất khơng
triệt để của các cuộc cách mạng tư sản, Người cho rằng: “ Mỹ tuy rằng
cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng cơng nơng vẫn cứ cực
khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách
mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh”(5)
Còn: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư
bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực

trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách
mệnh đã 4 lần rồi, mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn phải mưu cách
mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức. Cách mệnh An Nam nên
nhớ những điều ấy”(6)
o

Cách mạng vô sản, tiêu biểu nhất là Cách mạng Tháng Mười (1917) ở
Nga. Cuộc cách mạng đã đi đến thắng lợi với sự ra đời của nhà nước
chun chính vơ sản đầu tiên trên thế giới, Tuyên ngôn về quyền của các
dân tộc nước Nga ra đời với những nguyên tắc căn bản đối với các vấn đề
dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc và cho phép các dân tộc có quyền tự
quyết.
Hồ Chí Minh đã nhận xét Cách mạng Tháng Mười Nga như sau: “Trong
thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp
khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa
chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc
địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế
giới”.(7)
Người cịn khẳng định:
“Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp
năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên
trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý
nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(8)
“Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dạy cho giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều
bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của
giai cấp cơng nhân và của cả lồi người”(9)


4


2. Phân tích nội dung của luận điểm
Phân tích nội dung luận điểm tức là phân tích xem cách mạng giải phóng dân
tộc của ta đã đi theo con đường cách mạng vô sản như thế nào trên các vấn đề:
xác định mâu thuẫn, tính chất, mục đích, nhiệm vụ của cách mạng, giai cấp lãnh
đạo, lực lượng cách mạng cũng như mối quan hệ với phong trào đấu tranh của
các nước trên thế giới.

2.1. Xác định mâu thuẫn cơ bản của Việt Nam.
Xã hội Việt Nam thời điểm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, xuất hiện 2 mâu thuẫn chính. Đầu tiên là mâu thuẫn giai cấp
giữa nông dân Việt Nam và địa chủ phong kiến, thứ hai là mâu thuẫn dân tộc
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp đang xâm lược nước ta. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh nhận thấy, mâu thuẫn cơ bản của nước ta lúc bấy giờ
chính là vấn đề dân tộc và cần được giải quyết trước hết.
Ở các nước thuộc địa, nông dân là lực lượng đông đảo nhất. Thực dân Pháp
thống trị và bóc lột nhân dân Việt Nam thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nơng
dân. Nơng dân là nạn nhân chính của các chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột
tơ thuế và cướp đoạt ruộng đất. Vì thế, kẻ thù số một của nơng dân là bọn đế
quốc thực dân. Nơng dân có hai u cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất nhưng họ
luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất. Không
những vậy, địa chủ phong kiến dù có mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai nhưng
cũng chịu sự kìm kẹp của thực dân Pháp. Có thể thấy họ đều là những người
dân mất nước, đều phải chịu số phận bị áp bức bóc lột của bọn thực dân Pháp.
Do vậy, nếu như mâu thuẫn dân tộc được giải quyết sẽ là điều kiện thuận lợi cho
việc giải quyết mâu thuẫn giai cấp.
Từ việc xác định đúng mâu thuẫn cần giải quyết trước, cách mạng nước ta sẽ
xác định đúng tính chất, nhiệm vụ,… để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng

dân tộc. Từ các cơ sở được nêu ra từ phần I, Hồ Chí Minh nhận thấy cách
mạng giải phóng dân tộc của ta phải đi theo, học hỏi từ cách mạng vơ sản,
mang tính chất của cuộc cách mạng vô sản và được áp dụng để phù hợp để
tình hình của Việt Nam.

5


2.2. Đối tượng của cách mạng
Trong cách mạng vô sản, giải quyết mâu thuẫn giai cấp là trên hết thì đối tượng của
cuộc cách mạng được xác định là giai cấp tư sản.
Còn giai cấp tư sản Việt Nam khác với giai cấp tư sản phương Tây, mặc dù vẫn là
giai cấp bóc lột nhưng khơng phải là giai cấp thống trị. Họ không phải là đối tượng
cách mạng, mà trái lại, có thể trở thành lực lượng của cách mạng giải phóng dân
tộc. Trong tình hình cách mạng của ta, vấn đề giải quyết mâu thuẫn dân tộc được ưu
tiên trước hết, cho nên đối tượng của cách mạng được xác định là bọn chủ nghĩa
thực dân đế quốc và tay sai, trong đó có cả đại địa chủ và tư sản mại bản. Bởi bọn
chúng vì lợi ích của mình mà đưa ra các chính sách cai trị hà khắc, các chính sách
khai thác kinh tế, bóc lột tô thuế, chiếm đoạt ruộng đất, khiến cho những giai cấp
như trung, tiểu địa chủ hay tư sản dân tộc thì bị kìm nén, hạn chế; những giai cấp
như nơng dân, cơng nhân thì bị bóc lột, áp bức nặng nề, rơi vào tình cảnh ngày càng
khổ cực, những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc,… cũng không được đáp ứng.

2.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng
Chính mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa người dân và bọn chủ nghĩa thực dân đế
quốc cùng bọn tay sai của chúng nên yêu cầu cho cách mạng là phải xác định đúng
mục tiêu.
Mục tiêu cuối cùng của cách mạng vô sản là giải phóng xã hội, giải phóng con
người, trong đó mục tiêu giai đoạn thứ nhất là giai cấp công nhân phải đoàn kết với
những người lao động khác thực hiện lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, áp

bức, bóc lột và mục tiêu giai đoạn thứ hai là giai cấp công nhân phải tập hợp các
tầng lớp nhân dân lao động vào công cuộc tổ chức một xã hội mới về mọi mặt, thực
hiện xố bỏ tình trạng người bóc lột người để khơng cịn tình trạng dân tộc này áp
bức, bóc lột dân tộc khác.
Và đó cũng là mục tiêu cuối cùng mà cách mạng nước ta hướng đến, cụ thể với tình
hình cách mạng của ta thì mục tiêu được xác định là đấu tranh giải phóng dân
tộc, lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết
lập chính quyền về tay nhân dân.
Từ mục tiêu trên, cách mạng cần làm rõ nhiệm vụ cho việc giải quyết từng mâu
thuẫn.
Thứ nhất là phải giải quyết được mâu thuẫn dân tộc tức phải đánh đuổi đế quốc để
giành được độc lập.
Thứ hai là giải quyết mâu thuẫn giai cấp tức đánh đổ phong kiến giành ruộng đất
về cho dân cày.

6


2.4. Giai cấp lãnh đạo và lực lượng của cách mạng
Đề cập đến giai cấp lãnh đạo và lực lượng của cách mạng càng thấy rõ con đường
cách mạng của ta gắn liền với cách mạng vô sản. Giai cấp lãnh đạo cách mạng
của ta là giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng Sản.
Mặc dù giai cấp nông dân chiếm một số lượng lớn dân số và họ là giai cấp bị áp
bức, bóc lột nặng nề nhất nhưng họ không phải là giai cấp lãnh đạo của cách mạng.
Trong khi đó giai cấp cơng nhân chỉ chiếm khoảng 2% dân số nhưng họ có chủ
nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng. Đảng ra đời, các chủ trương, đường lối, khẩu hiệu
cách mạng được đề ra một cách cụ thể, phù hợp nhất với từng giai đoạn cách mạng,
là cơ sở để giác ngộ, tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân (nông dân, tiểu tư sản –
trí thức,…), đồng thời giúp liên lạc, đồn kết với giai cấp vô sản, với các dân tộc bị
áp bức trên tồn thế giới.

Năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Thường thức Chính trị”, trong đó
có nói về lý do giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng:
“Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ
chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách
nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp
cơng nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là Chủ nghĩa MácLênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp cơng nhân
đều giữ vai trị lãnh đạo.
Có người nói: Giai cấp cơng nhân Việt Nam số người cịn ít, khơng lãnh đạo được
cách mạng.
Nói vậy khơng đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ
khơng phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp cơng nhân có Chủ nghĩa
Mác-Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo Chủ nghĩa MácLênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu
cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ
thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng
và vơ sản hóa. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát
triển. Mai sau, cơng nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng
tăng thêm.
Tuy hiện nay ở nước ta giai cấp cơng nhân cịn nhỏ, song ở thế giới thì giai cấp
cơng nhân rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do giai cấp công
nhân nắm”.

7


Nếu như chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng lực lượng của cách mạng vô sản là liên
minh công – nơng thì áp dụng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của Việt
Nam, Hồ Chí Minh khẳng định “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc một hai người”(10), tức là lực lượng cách mạng được xác định là khối đại
đồn kết tồn dân, trong đó nịng cốt là liên minh cơng – nơng – trí.

Hồ Chí Minh chia địa chủ làm đại địa chủ, trung địa chủ và tiểu địa chủ. Trong đó,
chánh cương vắn tắt của Đảng đã chỉ ra “chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và
đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa” , và sách lược vắn tắt xác định “Đảng phải thu
phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ
địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”, “Cịn đối với bọn phú
nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Về giai cấp tư sản, Người chia làm tư sản dân tộc và tư sản mại bản, trong đó phải
lơi kéo tư bản dân tộc về phía cách mạng bởi họ vẫn cịn tinh thần u nước, bị đế
quốc chèn ép và có tinh thần phản đế trong một chừng mực nhất định, lại có tiềm
lực về kinh tế, còn tư bản mại bản phải bị tiêu diệt do chúng có thể bỏ qua lợi ích
của dân tộc để đạt được thủ lợi riêng cho mình.
Các tầng lớp cịn lại gồm nơng dân, cơng nhân, tiểu tư sản và trí thức, là những
người hồn tồn chịu sự áp bức bóc lột bởi các chính sách cai trị của bọn thực dân
phong kiến, do vậy họ được coi là lực lượng nòng cốt nhất của cách mạng.
Nếu như cơng nhân là lực lượng có vai trị quan trọng trong lãnh đạo cách mạng,
thì nơng dân lại là lực lượng đơng đảo nhất, được Hồ Chí Minh xác định là “đồng
minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân” và là “quân chủ lực của cách mạng”.
Nói về 2 giai cấp này, trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, Người cho rằng: “lịng
cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết... công nông là tay không chân rồi,
nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ
gan góc”. Từ đó Người khẳng định: cơng nơng “là gốc cách mệnh”.
Cịn tầng lớp trí thức thì được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta thì khác, dù là trí
thức một số khá đông thuộc thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản
nhưng cũng đều bị đế quốc áp bức. Vì vậy, trí thức Việt Nam có tinh thần dân tộc và
cách mạng, có học thức nên xem được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử
cách mạng, nhất là lịch sử cách mạng Pháp, nên dễ hấp thụ được tinh thần cách
mạng. Lúc đã hiểu biết, trí thức ta dễ theo cách mạng.” Người cho rằng trí thức là
một bộ phận trong lực lượng cách mạng và là đồng minh ngày càng quan trọng của
giai cấp công nhân.


8


2.5. Cách mạng Việt Nam là 1 bộ phận của cách mạng thế giới.
Điều này được tiếp thu từ cách mạng vơ sản, đó là sự đồn kết, gần gũi của giai
cấp vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc.
Cách mạng Việt Nam, cũng như phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa khác cần quan hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vơ
sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Các dân tộc ở đó khơng bao giờ có thể
ngẩng đầu lên được nếu khơng gắn bó với giai cấp vô sản thế giới” và “Vận
mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở
các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các thuộc địa”
Trong nội dung cuối cùng của Sách lược vắn tắt năm 1930, Đảng ta đã khẳng
định: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu Nước An Nam độc lập, phải đồng
tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản thế giới, nhất
là giai cấp vô sản Pháp”.
Điều này cịn thể hiện trong chủ trương đồn kết quốc tế của Mặt trận Việt
Minh: “Việt Minh sẵn sàng bắt tay các dân tộc bị áp bức châu Á, nhất là các
dân tộc Tàu, Triều Tiên, Miến Điện, Ấn Độ, đặng cùng các dân tộc ấy thành lập
mặt trận liên minh chống đế quốc phát xít.” Việt Minh cũng khơng quên kêu gọi
quần chúng cần lao Nhật Bản và những người Pháp dân chủ hãy cùng dân tộc
Việt Nam thống nhất hành động đánh đổ kẻ thù chung là phát xít Nhật và bọn
Pháp gian.

3. Ý nghĩa
3.1. Ý nghĩa lý luận
Quan điểm của Người đã làm phong phú học thuyết Mác – Lênin về cách
mạng thuộc địa.

Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc:


Hồ Chí Minh đã xác định đúng mâu thuẫn, vấn đề cần giải quyết, không
rập khuôn máy móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở các
nước thuộc địa, mà có sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn
đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Sự kết hợp này dẫn đến quan điểm ở các
nước thuộc địa, cho hầu hết các giai cấp đều chịu sự áp bức, bóc lột của
bọn thực dân thì vấn đề dân tộc là vấn đề cấp bách, cần được giải quyết
trước.
9




Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng nước ta là cách mạng giải phóng
dân tộc, được Người học hỏi, sáng tạo, vận dụng linh hoạt từ chủ nghĩa
Mác – Lênin với con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô
sản.

Về phương pháp tiến hành cách mạng: Từ sự vận dụng sáng tạo và phát triển
từ học thuyết Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã xây dựng các phương pháp tiến
hành cách mạng, góp phần quyết định trong xác lập con đường cứu nước, làm
cho phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang con đường cứu nước vô
sản. Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp giải phóng và
phát triển dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này được thể
hiện qua:






Bắt nguồn từ lực lượng quá chênh lệch về kinh tế, quân sự giữa các nước
thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh khẳng định sự quan trọng
của sức mạnh toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạng.
Xây dựng hệ thống luận điểm mới, bao gồm đường lối chiến lược, sách
lược và phương pháp tiến hành giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Truyền bá tư tưởng đó vào phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước
ở Việt Nam, từ đó tập hợp, dẫn dắt những người dân yêu nước đi theo chủ
nghĩa Mác – Lênin, để họ trở thành lực lượng lãnh đạo của cách mạng.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Quan điểm của Hồ Chí Minh là tiền đề quan trọng trong việc dẫn đến thắng
lợi của cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam, cũng như trong công
cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Thứ nhất là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945
Chiến lược giải phóng dân tộc tuy từng bị phủ nhận trong thời gian dài nhưng
đã được khẳng định trở lại vào những năm quan trọng nhất của cách mạng nước
ta (1939 – 1945).
Dựa trên quan điểm của Hồ Chí Minh, nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc và giành
độc lập dân tộc được đưa lên hàng đầu, Mặt trận Việt Minh được thành lập đề ra
chủ trương, đường lối khởi nghĩa vũ trang, xây dựng lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang dựa trên sức mạnh toàn dân, sử dụng bạo lực cách mạng, đi từ
khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ, đến giành chính quyền bộ
phận ở nhiều vùng nông thôn, tiến lên chớp đúng thời cơ, tổng khởi nghĩa ở cả
nơng thơn và thành thị, giành chính quyền trong cả nước.

10



Thứ hai là thắng lợi của 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 – 1975)
1945 – 1954 là khoảng thời gian cả dân tộc đứng lên kháng chiến chống thực
dân Pháp, thực hiện mỗi người dân là một người lính, mỗi làng xã là một pháo
đài, mỗi khu phố là một trận địa, đánh giặc toàn diện và bằng mọi vũ khí có
trong tay, vừa chiến đấu vừa xây dựng hậu phương vững chãi, đồng thời vận
động sự ủng hộ của quốc tế, kết hợp nhiều cách đánh từ đánh du kích đến chiến
tranh chính quy, từng bước làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Không những vậy, việc quyết định thực hiện các chiến lược như chiến dịch Việt
Bắc Thu – Đông, chiến dịch Biên Giới, chiến lược Đông Xuân và cuối cùng là
chiến dịch Điện Biên Phủ, tất cả đều đi đến thắng lợi, làm xoay chuyển hoàn
toàn cục diện của cuộc chiến, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội
nghị Giơnevơ, kết thúc cuộc chiến.
Sau đó, dân tộc ta tiếp tục đương đầu với đế quốc Mỹ xâm lược với mục tiêu
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, đi đến thắng lợi, thống nhất nước nhà.
Trong cuộc chiến, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nêu cao tinh
thần “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, xây dựng hậu phương miền Bắc
vững chãi, thực hiện cuộc cách mạng ở miền Nam bằng sự kết hợp đấu tranh
trên cả 3 mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, thực hiên cành đánh càng
mạnh, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Và cuối cùng, cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, giải phóng hồn tồn miền Nam đã đi đến
thắng lợi vào ngày 30/04/1975, kết thúc chiến tranh Việt Nam.
Thứ ba, trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Phải biết khơi dậy sức mạng của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nêu
cao sức mạnh toàn dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, lấy đó làm nguồn
động lực, sức mạnh to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời cần
nhận thức, giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân và
giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em cũng như trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam.


11


Chú thích
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr. 98.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr. 100 – 101.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr 199.
(4) V.I.Lênin. Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Moskva, 1977, tr.206.
(5) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t2, tr.270.
(6) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t2, tr.274.
(7) Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t2, tr. 304.
(8), (9) Hồ Chí Minh (1967), “Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại mở ra con đường
giải phóng cho các dân tộc”, Hồ Chí Minh tồn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, tr.390, tr.397.
(10) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H 2000, t2; tr.262.

12



×