Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Vận dụng quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.67 KB, 38 trang )

: Vn dng quan đim sng to ca H Ch Minh v cch
mn gii ph!ng dân t#c theo con đư&ng cch mng vô sn trong
công cu#c đ)i m*i đ+t nư*c hi,n nay


Chủ tịch Hồ Chí Minh - bậc vĩ nhân của dân tộc Việt Nam, là người học trò
xuất sắc của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin. Người đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử, văn hoá và con người
Việt Nam, giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn, đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc là một trong những chuỗi luận về sự vận dụng và phát
triển sáng tạo đó.
Trong thực tế, qua một số bài báo, công trình khoa học của các tác giả trong
và ngoài nước đã đề cập đến những giá trị lý luận của Người. Tuy nhiên, sự đề
cập này mang tính khái quát cao hoặc được diễn đạt trong cả hệ thống lý luận
khoa học của Người, hoặc chỉ đề cập dưới dạng ý nghĩa rút ra so với yêu cầu của
thực tiễn. Điều này thật sự làm cho người học, người nghiên cứu thực sự khó
khăn trong việc phát hiện, khái quát, lôgic những tư tưởng, luận điểm cũng như
những nội dung vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin. Điều này
làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của việc học tập, nghiên cứu, giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ trang bị cho chúng ta hệ thống những
quan điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc. Từ đó, nâng cao hơn nữa cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng như toàn bộ tư tưởng
của Người.
1
Khai thác, học tập, nghiên cứu, hệ thống hoá tri thức và vận dụng di sản
tinh thần phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước
ta hiện nay là nhiệm vụ hàng đầu của những người làm công tác nghiên cứu lý
luận. Xuất phát những lý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quan điểm


sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc” làm đề tài nghiên
cứu khoa học của mình.

Nghiên cứu đề tài này nhằm phân tích cơ sở khoa học của sự vận dụng và
phát triển học thuyết Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, chỉ ra được
những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này và vận dụng vào
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đồng thời, hệ thống hóa những giá trị lý
luận và thực tiễn, những quan điểm sáng tạo của Người về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc.
 
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở khoa học của việc vận dụng và phát triển học thuyết Mác-
Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Nêu được những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc.
- Làm rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc đối với công cuộc đổi mới hiện nay.
 !"#$%&'()(*#+(",-
Những nội dung, luận điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được
nhiều tác giả nghiên cứu trình bày trong hệ thống tư tưởng của Người. Đó là
những công trình nghiên cứu lớn có tính khái quát hoá cao, lôgic, biện chứng
với nhau và được luận giải ở nhiều góc độ khác nhau, được diễn đạt trong cả hệ
2
thống lý luận hay chỉ đề cập dưới dạng ý nghĩa rút ra so với yêu cầu của thực
tiễn… Những luận điểm sáng tạo đó có thể được tìm thấy ở một số tài liệu sau:
- PGS. TS Nguyễn Khánh Bật (chủ biên), Những bài giảng về môn học Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 2003.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2003.
- TS. Đinh Xuân Lý (chủ biên), Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí

Minh, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- GS. Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính
trị, 2005.
- Danh nhân Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000
- Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn
khoa học Mác-Lênin, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2008.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh (Tài liệu phục vụ dạy và học Chương trình các
môn Lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng), Nxb Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội 208.

Nhìn chung, có thể tìm thấy ở những tài liệu này một số điểm mới, tư
tưởng, luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, với đề tài nghiên cứu này, tác giả cố gắng chắt
lọc, hệ thống hoá những quan điểm, luận điểm, nội dung sáng tạo của Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Trên cơ sở đó nêu rõ sự vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong công cuộc đổi mới
đất nước hiện nay.
3
. 
Đề tài chọn lựa nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc để tiến hành nghiên cứu.
/01
Nghiên cứu đề tài này trên cơ sở phương pháp luận chung: thế giới quan,
phương pháp luận khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đồng thời cần áp dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp lôgic

- Phương pháp so sánh, đối chiếu
4
23
4561.78 1.
9:;3
1. <$=>#?@#A""B@&C"&D(EF(*&G#HIJ(#A"#-KLH"
+((&"H"#MN(**OG#P(*EQ(R"
SS<$=TUT-D(
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về việc vận dụng và phát triển học
thuyết đó vào thực tiễn
Chủ nghĩa duy vật mác-xít là đỉnh cao của thế giới quan duy vật, là chủ
nghĩa duy vật khoa học triệt để nhất với sự cống hiến vĩ đại của Mác là sự sáng
tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải đơn
thuần là sự vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Để có
chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác đã phải tiến hành tổng kết lịch sử, kế thừa có phê
phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới. Lênin viết: “Tất
cả những cái gì mà tư tưởng loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại,
đã phê phán, và đã thông qua phong trào công nhân mà kiểm tra lại” [21, 20].
Triết học mác-xít là thế giới quan của giai cấp công nhân - giai cấp tiến bộ
và cách mạng của thời đại. Triết học Mác ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân
dân lao động có thế giới quan khoa học và cách mạng, là vũ khí tư tưởng trong
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể
nhân loại khỏi mọi áp bức và bóc lột. Lênin viết: “Triết học Mác là một chủ
nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp
công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”.
Cống hiến vĩ đại thứ hai của Mác là đã tạo ra là phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp.
Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới
quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong việc
5

nhận thức và cải tạo thể giới, trở thành phương pháp luận chung nhất của nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Phép biện chứng duy vật là cơ sở
phương pháp luận, chỉ đạo chủ thể xác định phương pháp cách mạng khoa học
và đúng đắn. Bất cứ hành động cách mạng nào, nếu xa rời những quan điểm và
nguyên tắc của phép biện chứng duy vật, thì sớm muộn gì cũng sẽ phải trả giá
cho điều đó. Như vậy, Mác đã dạy cho những người cách mạng biết rằng phép
biện chứng duy vật trở thành công cụ quan trọng bậc nhất không thể thiếu được
của nhận thức và hành động để cải tạo hoàn cảnh và cải tạo bản thân.
Bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng loài người là sự ra đời của
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - “cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng
nhiều bộ sách” (Lênin). Tuyên ngôn không chỉ khái quát những thành tựu to lớn
cuộc cách mạng tư tưởng của loài người mà còn quán triệt sâu sắc quan điểm
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trong suốt toàn bộ tác phẩm. Mặc dù có tính
cách mạng, triệt để tuy nhiên Mác và Ăngghen nhiều lần nhắc nhở rằng học
thuyết khoa học của hai ông không bao giờ hoàn bị, không bao giờ là chân lý
muôn thủa. Trong lời tựa năm 1872 cho bản tiếng Đức, hai ông viết: “Mặc dù
hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, những cho đến nay,
xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn
còn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay
“Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ ràng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp
dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và
do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ở cuối
chương II ” [5, 15].
Tiếp bước Mác-Ăngghen, Lênin đã nêu lên tấm gương sáng về việc nắm
vững và vận dụng tài tình phép biện chứng duy vật trong việc nhận định khả
năng về phương pháp tiến hành cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa, cũng như sự vận dụng tài tình phép biện chứng duy vật để vạch raChính
6
sách kinh tế mới - cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một
nước kém phát triển.

Đối với Hồ Chí Minh, khi xem xét sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin ở
phương Tây và phương Đông và trả lời cho câu hỏi: “khi chủ nghĩa tư bản
phương Tây làm thay đổi phương Đông thì đấu tranh giai cấp có trở nên quyết
liệt không?” trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người viết: “ Dù sao
thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách
đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời điểm mình không thể có được
Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể
nhân loại” [14, 465]. Người còn cho rằng: “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở
lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ
mà các nhà Xôviết đảm nhiệm” [14, 465].
Như vậy, với hai phát kiến vĩ đại của Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử cùng với sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã làm
cho tư tưởng của Mác có tính cách mạng triệt để và vô cùng sâu sắc. Sự chỉ dẫn
của Mác trong việc vận dụng học thuyết Mác-Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện
thực tiễn cách mạng của các nước đã được Lênin và Hồ Chí Minh vận dụng một
cách xuất sắc. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và cách mạng tháng
Tám đã minh chứng cho sức sống của học thuyết Mác và sự vận dụng sáng tạo
của Lênin và Hồ Chí Minh.
1.1.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc
Vấn đề dân tộc trong triết học Mác-Lênin là những vấn đề rộng lớn. C.
Mác, Ph. Ăngghen đã nêu lên những quan điểm cơ bản có tính phương pháp
luận để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc như nguồn gốc, bản chất của dân
7
tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và đảng
của nó đối với vấn đề dân tộc cũng như mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã đề cập đến vấn
đề dân tộc, đặc biệt, các ông đã làm rõ mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc.
Hai ông viết: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của

giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc, vì “Phong trào
vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số”
[6, 611]. Vì vậy, “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản,
dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại
mang hình thức đấu tranh dân tộc” [6, 611] . Từ đó, Mác kêu gọi: “giai cấp vô
sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái
nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” [6, 623-624].
Theo Mác-Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của
giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Có triệt để
xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp mới có thể có điều kiện xoá bỏ ách
áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho các dân tộc
khác. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới
thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người.
Tuy nhiên, ở thời đại Mác-Ăngghen, hai ông không đi sâu giải quyết vấn
đề dân tộc vì vấn đề này ở Tây Âu đã cơ bản được giải quyết trong cách mạng
tư sản; nhất là các ông chưa có điều kiện để luận bàn nhiều vấn đề dân tộc thuộc
địa. Đúng như Lênin từng nhận định, đối với Mác, so với vấn đề giai cấp vô sản
thì vấn đề dân tộc chỉ là một vấn đề thứ yếu thôi.
Kế thừa quan điểm của Mác-Ăngghen, Lênin đã phát triển thành hệ thống lý
luận toàn diện và sâu sắc về vấn đề dân tộc. Theo Lênin, dân tộc là sản phẩm của
quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là các hình thức cộng đồng
8
tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư
bản dẫn đến sự ra đời của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa
tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
các nước đế quốc thi hành chính sách xâm lược thuộc địa, vấn đề dân tộc trở nên
gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa.
Ở thời đại của Lênin, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống trên

toàn thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã thực sự trở thành một nhân tố
quan trọng của các dân tộc thuộc địa, là một bộ phận của cách mạng vô sản. Với
thực tiễn đó, Lênin có điều kiện để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa và kế
thừa những quan điểm trước đó của Mác-Ăngghen để phát triển thành học
thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Từ đó, Lênin bổ sung
khẩu hiệu của Mác thành: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức , đoàn
kết lại!”
Như vậy, C. Mác, Ph. Ăngghen và Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ
bản về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, đề cập đến mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu,
thực tiễn và mục tiêu của cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông tập trung nhiều
vào vấn đề giai cấp, coi đó là chìa khoá giải quyết vấn đề cách mạng, đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ bảo vệ lợi ích chung cho toàn thể giai cấp vô sản. Điều này
hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu đang đặt
ra lúc bấy giờ. Cũng như Lênin, Hồ Chí Minh đã bổ khuyết những gì Mác và
Ăng ghen chưa thực hiện được ở thời đại của các ông. Hồ Chí Minh - chiến sĩ
cộng sản đầu tiên đã mở đường cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
theo khuynh hướng dân chủ vô sản.
9
SV<$=#W"X(
1.2.1. Thực tiễn cách mạng châu Âu và nước Nga
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) bùng nổ, nhiều dân tộc đã bị
đẩy vào những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Cuối năm 1914 trên toàn châu Âu
làn sóng bạo lực, phi dân chủ bao trùm, mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp
xã hội trở nên gay gắt, tư tưởng sôvanh nước lớn được truyền bá khắp nơi, mối
quan hệ thù địch giữa các dân tộc tăng cao, chế độ chính trị cảnh sát hà khắc
được thiết lập ở nhiều quốc gia, nhân loại đứng trước thảm hoạ của nạn diệt
chủng, những giá trị nhân văn của loài người đã đạt được trong thế kỷ XIX

đứng trước nguy cơ bị huỷ diệt.
Thực tiễn cách mạng châu Âu và nước Nga những năm trước Cách mạng
tháng Mười cũng không nằm ngoài vòng xoáy lịch sử đó. Chiến tranh thế giới thứ
nhất đã tác động mạnh mẽ đến các nước trên lãnh thổ châu Âu và đẩy những mâu
thuẫn trong nội tại nước Nga lên đỉnh điểm. Riêng ở nước Nga, trong cuộc chiến
tranh bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, Nga hoàng đã tăng cường bóc lột các giai
cấp bị trị, đẩy nước Nga đến sự bần cùng hoá. Để thoát khỏi tình cảnh đó, các dân
tộc chỉ có con đường tiến hành cuộc cách mạng xã hội.
Nước Nga trước cách mạng có đặc điểm cơ bản là một nước tư bản chủ
nghĩa tầm trung. Chủ nghĩa tư bản Nga phát triển muộn và ngày càng lạc hậu,
phụ thuộc vào các nước phương Tây. Nguyên nhân của tình trạng lạc hậu ấy là
do sự tồn tại nặng nề bởi những tàn tích của chế độ phong kiến - nông nô. Về
chính trị, nước Nga là một nước quân chủ chuyên chế, toàn bộ quyền lực chính
trị trong nước đều thuộc Nga hoàng. Chế độ Nga hoàng trở thành nhà tù của các
dân tộc. Nhân dân các dân tộc không thuộc Nga rên xiết dưới hai ách áp bức: áp
bức dân tộc của chế độ Nga hoàng và ách áp bức xã hội của bọn chúa đất và tư
sản địa phương.
Sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản
chủ nghĩa, sự kết hợp những hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã
10
làm cho nước Nga trở thành nơi hội tự cao nhất những mâu thuẫn của chủ nghĩa
đế quốc: mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản, mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân,
mâu thuẫn giữa đế quốc Nga với các dân tộc bị áp bức, mâu thuẫn giữa đế quốc
Nga với các nước đế quốc Tây Âu. Toàn bộ những mâu thuẫn này chống chéo
lên nhau và ngày càng gay gắt làm cho nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong
sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc thế giới. Chính sự gay gắt của những mâu
thuẫn đó đã dẫn đến sự hình thành những tiền đề khách quan cho một cuộc cách
mạng xã hội ở nước Nga, trước hết là giai cấp vô sản Nga. Mặc dù số lượng
không đông, chỉ chiếm khoảng 10% dân số nhưng giai cấp vô sản Nga có nhiều
ưu điểm nổi bật về chất lượng, tinh thần và khả năng cách mạng, có truyền

thống đấu tranh kiên cường, bất khuất. Điều có ý nghĩa quan trọng là giai cấp vô
sản Nga đã xây dựng được chính Đảng tiên phong, cách mạng chân chính, đó là
Đảng bônsêvích Nga do lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin đứng đầu. Được vũ trang
bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác, có khả năng lôi cuốn, tổ chức và
lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân trong cả
nước. Bên cạnh đó, giai cấp vô sản Nga còn có mối liên hệ chặt chẽ với nông
dân lao động và nhân dân các dân tộc bị áp bức. Giai cấp nông dân - trước hết là
nông dân nghèo - là lực lượng to lớn, là bạn đồng minh tin cậy của giai cấp
công nhân. Trong những điều kiện của giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mâu thuẫn
dân tộc và cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc trên phạm vi toàn thế giới
đã trở thành nhu cầu chính yếu không ngừng tăng lên.
Thực tiễn nước Nga từ cuối năm 1916 đến đầu năm 1917 đã tạo ra những
tiền đề cho một cuộc cách mạng. Lênin cho rằng: “Nội dung xã hội của cuộc
cách mạng săp nổ ra ở nước Nga chỉ có thể là nền chuyên chính dân chủ cách
mạng của giai cấp vô sản và nông dân. Cách mạng không thể giành thắng lợi ở
Nga, nếu không lật đổ chế độ quân chủ và bọn địa chủ phong kiến. Song giai
cấp vô sản không thể lật đổ chúng nếu không được nông dân giúp đỡ”[22, 238].
Trong điều kiện lịch sử mới, Lênin đã chỉ ra: cuộc cách mạng dân chủ tư sản
11
sắp tới ở Nga có nhiều khả năng thuận lợi và “hết sức gần” để chuyển sang cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày 28 tháng 02, trên phạm vi cả nước, cuộc
Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai năm 1917 đã thắng lợi, chế độ Nga hoàng
sụp đỗ, nước Nga trở thành nhà nước cộng hoà dân chủ. Tuy nhiên, tình hình
nước Nga lúc này có hai chính quyền cách mạng song song tồn tại: Chính phủ
tư sản lâm thời và Xôviết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Hai chính
quyền này đại diện cho lợi ích các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn
tại trong một nước và sự xung đột không thể tránh khỏi.
Từ mùa thu năm 1917, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, binh
lính và các dân tộc thiểu số diễn ra sôi nổi, dồn dập với quy mô lớn. Một tình thế
cách mạng đã hình thành trong nước. Lênin nhận định: “Hiện nay, tình thế đã

thay đổi khác hẳn. Chúng ta đã giành được đa số trong giai cấp đứng đầu trong
đội tiên phong của cách mạng, đội tiên phong của nhân dân và có khả năng lôi
cuốn quần chúng theo mình. Chúng ta đã giành được đa số nhân dân. Thắng lợi
chắc chắn thuộc về chúng ta”. Nước Nga đã tiến sát tới một cuộc khởi nghĩa vũ
trang. Từ ngày 24/10, Lênin đã trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa. Tối 26/10,
trong buổi họp thứ hai Đại hội Xô Viết toàn Nga đã thông qua hai văn kiện đầu
tiên của Chính quyền Xô viết - Sắc lệnh hoà bình và sắc lệnh ruộng đất do Lênin
dự thảo. Trong đó, sắc lệnh hoà bình lên án cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa là
“một tội ác lớn nhất của nhân loại” và đề nghị các nước tham chiến nhanh chóng
đàm phán để kí kết một hoà ước dân chủ công bằng - không có thôn tính đất đai
và bồi thường chiến tranh. Sắc lệnh ruộng đất tuyên bố thủ tiêu không bồi thường
ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và của các sở hữu lớn khác, quốc hữu hoá
toàn bộ ruộng đất. Đến cuối tháng 3 năm 1918, chính quyền Xô viết đã giành
được thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước Nga rộng lớn. Thắng lợi của cách
mạng tháng Mười đã mở ra thời kỳ nước Nga bước vào công cuộc xây dựng
chính quyền Xô viết.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 có ý nghĩa lịch sử
trọng đại, không những đối với nước Nga mà còn đối với thế giới. Cách mạng
12
tháng Mười đã mở ra kỷ nguyên mới cho nước Nga - kỷ nguyên giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và các dân tộc không thuộc Nga thoát khỏi gông xiềng
nô lệ. Cách mạng tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình lịch
sử và cục diện thế giới. Thế giới sau cách mạng tháng Mười đã phân chia thành
hai hệ thống đối trọng - hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa và hệ thống xã hội tư
bản chủ nghĩa. Đồng thời, cách mạnh tháng Mười đã mở cổ vũ mạnh mẽ phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới
thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Cách mạng tháng Mười Nga cũng đã mở ra thời kì mới trong lịch sử đấu
tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu
Phi và Mĩ la tinh, trong đó có Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giống

như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức
tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử
loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như
thế” [17, 300]. Cách mạng tháng Mười đã đáp ứng những đòi hỏi cấp bách trong
cuộc đấu tranh giải phóng của các giai cấp bị bóc lột và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới.
Bài học từ Cách mạng tháng Mười và bài học từ bản lĩnh phi thường, sự
tinh tường, nhạy bén của Lênin về sự vận dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn
nước Nga đã soi sáng cho Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện hệ thống quan điểm về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, mở
ra thời kì đấu tranh cho phong trào đấu tranh cách mạng Việt Nam những năm
đầu thế kỉ XX.
1.2.2. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển và
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản ở các nước phương
Tây đã ra sức xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chiếm đoạt nguyên
13
liệu, bóc lột nhân công và tiêu thụ sản phẩm cho chính quốc. Trong xu thế đó,
Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ xâm lược của các nước đế quốc phương
Tây.
Trước sự ươn hèn của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với việc ký với
thực dân Pháp Điều ước 1883, chấp nhận chủ quyền của Pháp trên toàn cõi
nước ta, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, thống nhất đã trở thành một xứ “bảo
hộ”, thực chất là thuộc địa của đế quốc Pháp.
Từ đây phong trào yêu nước kháng Pháp của nhân dân ta diễn ra khắp nơi.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của các sĩ
phu yêu nước lan rộng khắp cả nước. Đầu tiên là cuộc kháng chiến chống xâm
lược Pháp ở Đà Nẵng do Nguyễn Tri Phương chỉ huy, tiếp đó là sự đứng lên của
quân và dân Gia Định và các tỉnh miền Nam Kỳ như phong trào yêu nước của
Trương Định, Nguyễn Trung Trực; ở Trung Kỳ có phong trào yêu nước của

Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng; ở Bắc Kỳ với
phong trào yêu nước của Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích Tiêu biểu
cho phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến là phong trào Cần Vương
(1885-1896), phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
Tuy nhiên, do hạn chế bởi điều kiện giai cấp, điều kiện lịch sử, mục tiêu chiến
đấu; do không đề ra được một đường lối kháng chiến vừa thoả mãn được
nguyện vọng độc lập dân tộc, vừa thoả mãn được yêu cầu cải thiện đời sống của
nhân dân. Vì vậy, những cuộc khởi nghĩa này không thể phát triển thành những
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Phong trào chỉ là sự tiếp nối nhau của
nhiều cuộc kháng chiến riêng lẻ, thiếu sự thống nhất. Thất bại của phong trào là
một tất yếu lịch sử. Tuy thất bại, nhưng phong trào yêu nước giai đoạn này đã
để lại cho lịch sử nhiều bài học kinh nghiệm chiến đấu quý báu, những tấm
gương dũng cảm hy sinh vì độc lập dân tộc.
Đến đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp hoàn toàn đặt ách đô hệ lên đất nước
ta và biến nước ta thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến với những biến đổi
14
căn bản về chính trị - kinh tế - xã hội. Xã hội Việt Nam xuất hiện những giai
tầng mới, đồng thời nảy sinh những mâu thuẫn mới về giai cấp và dân tộc với
sự ra đời của giai cấp công nhân, sự xuất hiện của tầng lớp tiểu tư sản và giai
cấp tư sản ở nước ta. Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân với địa chủ
phong kiến, nảy sinh thêm cách mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân Việt Nam với tư bản Pháp, giữa toàn thể nhân dân ViệtNam với chủ nghĩa
đế quốc Pháp. Phong trào yêu nước trong giai đoạn này cũng có bước phát triển
mới.
Với sự xuất hiện của tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư sản
ở nước ta và trước sự ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách lớn ở Trung
Quốc của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu phong trào yêu nước và phong
trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, trong đó xuất hiện trào
lưu tư tưởng dân chủ tư sản dưới sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh
thần cải cách. Điển hình như các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục,

Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội với hai xu hướng cứu nước: khuynh
hướng bạo động của Phan Bội Châu và khuynh hướng cải cách của Phan Chu
Trinh. Tuy nhiên, những phong trào yêu nước của trào lưu này đều lần lượt thất
bại. Trường Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, phong trào chống thuế ở miền
Trung bị đàn áp, phong trào Đông Du tan rã, phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ bị
đàn áp, các thủ lĩnh như Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi,
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Đặng Nghiêm Cẩn hoặc bị
chém hoặc bị tù đày.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX nhuộm đỏ máu
và nhiệt huyết hào hùng của tinh thần yêu nước của lớp lớp sĩ phu có tinh thần
dân tộc. Dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước này đã nối tiếp nhau duy trì
ngọn lửa cứu nước tiếp tục cháy trong lòng dân tộc. Cách mạng Việt Namlúc
này cần phải có con đường cứu nước mới.
15
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh xuất hiện và đã đáp ứng được những yêu cầu khẩn thiết đó. Người đã phát
huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đó là: chủ nghĩa
yêu nước và ý chí bất khuất, tinh thần tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết, dũng
cảm, cần cù, thông minh, sáng tạo; tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Đông,
phương Tây và chủ nghĩa Mác-Lênin để làm giàu văn hoá dân tộc. Cùng với
năng lực hoạt động thực tiễn và trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh đã xây dựng
thành hệ lý luận có giá trị và chỉ đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
Trong toàn bộ di sản của Người, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc có nhiều quan điểm sáng tạo, đó là sự vận dụng học
thuyết Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam trên cơ sở tiếp
thu và đổi mới.
2. 4-@()JM$H(*N?"B@Y#Z(#&"H"#MN(**OG#P(*EQ(
R"#[?"?()\](*"H"#MN(*&^$O(
2.1. 4-@()JM$H(*N?"B@Y#Z&&'()EQ(R"

2.1.1. Nhận diện bản chất của chủ nghĩa thực dân
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một người yêu nước mẫu mực, một
chiến sĩ cộng sản đã có nhiều cống hiến to lớn trong việc nghiên cứu vấn đề dân
tộc và giải phóng dân tộc đồng thời là người có nhiều quan điểm mới mẻ trong
việc nghiên cứu bản chất và vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân.
Từ năm 1919 đến những năm 1925-1927, Nguyễn Ái Quốc đã có những
bài báo, bài viết tập trung vạch trần bản chất và tội ác của chủ nghĩa thực dân,
nêu rõ những thống khổ của người dân mất nước, phản ảnh những nguyện vọng
khát khao được giải phóng và các cuộc phản kháng của các dân tộc thuộc địa.
Từ tác phẩm Tâm địa thực dân (1919), Nền văn minh thượng đẳng, Tội ác của
chủ nghĩa thực dân, Sự quái đản của công cuộc khai hoá(1921), Bình đẳng,
16
Những kẻ đi khai hoá, Khai hoá giết người (1922), Vực thẳm thuộc địa, Chế độ
thực dân (1923), Những cái tốt đẹp của nền văn minh Pháp (1924) Tuy nhiên,
đóng góp lớn nhất phải kể đến đến tác phẩmBản án chế độ thực dân
Pháp (1925), tác phẩm đã có ảnh hưởng sâu rộng và được đánh giá là tác phẩm
đặc sắc, với cái nhìn cận cảnh về hình ảnh chủ nghĩa thực dân. Sự phân tích về
chủ nghĩa thực dân của Nguyễn Ái Quốc ở những tác phẩm trên đã vượt hẳn
những gì mà những nhà lý luận mác xít đề cập đến.
Trong bài viết Thăm một chiến sĩ Quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốccủa
nhà báo Liên Xô Ôxíp Manđenxtam, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất của
chủ nghĩa thực dân: “Thực dân Pháp là gì? Ồ, đó là những kẻ bất tài và thiển
cận. Việc quan tâm đầu tiên của chúng là hình thành nhóm người thân thuộc.
Sau đó, là chiếm đoạt và cướp bóc thế nào cho thật nhiều và thật nhanh Thực
dân Pháp đầu độc nhân dân chúng tôi. Chúng bắt mọi người phải uống rượu
Bọn thực dân Pháp đã lấy gạo xấu, rẻ tiền nấu rượu Sau đó, người ta hạ lệnh
cho các viên tỉnh trưởng cứ theo đầu người mà bắt buộc phải đi mua thứ rượu
không ai uống” [14, 478].
Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Người đã đưa những tội ác của thực
dân Pháp ở Đông Dương và nhiều dân tộc thuộc địa khác như Tuynidi, Angiêri,

Marốc ra trước công luận quốc tế. Người chỉ ra những tội ác dã man, tàn bạo
của chúng:
- Chúng bóc lột người thuộc địa bằng hàng trăm thứ thuế, từ “thuế thân”
đến “thuế máu”, khoác lên họ những danh hiệu tối cao “chiến sĩ bảo vệ công lý
và tự do” rồi ném họ vào những lò lửa chiến tranh trên chiến trường châu Âu
trong chiến tranh thế giới thứ nhất; để họ “lấy máu mình tưới những vòng
nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy
của các ngài thống chế” [15, 23].
- Để nhồi nhét nền văn minh “Đại Pháp” cho người An Nam, chúng không
từ một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn bỉ ổi nhất và những tội ác. Chúng
đầu độc những người bản xứ bằng thuộc địa và rượu cồn, “cứ một nghìn làng
17
thì có đến một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng
trong số một nghìn làng đó lại chỉ vẻn vẹn có mười trường học” [15,
36]. Chúng thực hiện chính sách ngu dân, đó là chính sách mà các nhà cầm
quyền ở các thuộc địa ưa chuộng nhất.
- Chúng đã vũ trang xâm lược đất nước ta, đàn áp đẫm máu các phong trào
yêu nước, thực hiện chính sách khủng bố vô cùng tàn bạo: đốt sạch, phá sạch,
giết sạch, không cần xét xử; chúng xóc em bé lên đầu mũi giáo, bêu đầu lâu
người bị giết dọc các đường phố, đào mã người bị giết lấy hài cốt đổ xuống
sông, dội nước sôi xuống người dân vô tội làm lột da hết. Sự độc ác đến mức
một anh lính thuộc địa Pháp cũng phải kêu lên: “Trong thời kỳ tôi ở đây (Bắc
Kỳ) không có tuần nào là tôi không thấy vài cái đầu rụng. Trong những cảnh ấy,
tôi chỉ còn ghi nhớ được một điều là chúng ta còn độc ác, còn dã man hơn cả
bọn cướp nhà nghề” [15, 63].
Để đập tan luận điệu “khai hoá văn minh” của báo chí tư sản đối với các
thuộc địa, phên phán nhận thức sai lầm về các thuộc địa như “những vùng đất
yên bình trên nắng, dưới cát với dừa xanh” của những người lao động chính
quốc, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất bóc lột trắng trợn, bạo lực dã man
của chủ nghĩa thực dân. Người đã khái quát: Lịch sử bất cứ cuộc xâm chiếm

thuộc địa nào thì từ đầu đến cuối đều được viết bằng máu của người bản xứ.
Các thuộc địa là mảnh đất mầu mỡ cho bọn thực dân đế quốc đục khoét, là hiện
thân của chế độ dã man, tàn bạo của bọn thực dân đối với triệu triệu người dân
bản xứ. Trong tác phẩm Đông Dương và Thái Bình Dương, Người đã chỉ rõ:
“Hiện nay, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc
địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó
đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và
nhất là tuyển những binh lính người bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng
của nó” [14, 243]. Bản chất dã man, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc còn được
Người vạch ra: “Nó dùng những người vô sản da trắng đề chinh phục những
người vô sản các thuộc địa. Sau đó nó lại tung những người vô sản ở một thuộc
18
địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa khác. Sau hết, nó dựa vào
những người vô sản ở các thuộc địa để thống trị những người vô sản thế giới”
[14, 246].
Để vạch trần bản chất tàn bạo, dã man của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu tác
phẩm Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa, Người nêu lên một luận điểm
rất độc đáo, mới mẻ: “Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các
thuộc địa. Nếu người ta muốn giết chết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu
của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”
[14, 298].Với hình ảnh “con đỉa hai vòi”, Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ chủ
nghĩa thực dân không chỉ là kẻ thù của các dân tộc thuộc địa mà còn là kẻ thù
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc. Cũng từ luận điểm
mới này và quán triệt sâu sắc quan điểm của Lênin về mối quan hệ giữa cách
mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, Người đã đấu tranh phê phán mạnh
mẽ thái độ coi nhẹ vấn đề thuộc địa, không quan tâm đến cách mạng thuộc địa
của những người cộng sản chính quốc. Người phê phán Đảng Cộng sản Pháp:
“Là một đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng Đảng

Cộng sản Pháp chúng tôi làm rất và rất ít cho các nước thuộc địa” [14, 278].
Với những cống hiến to lớn trong việc vạch trần bản chất, âm mưu của bọn
đế quốc thực dân, nhà sử học Pháp Charles Fourniaux nhận định về Người:
“Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng vào việc hình thành truyền thống
chống chủ nghĩa thực dân ”. “Vậy thì hẳn rằng: Nguyễn Ái Quốc phải được coi
là một trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc
địa” [3, 85-86].
Tóm lại, cùng với việc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa và
xuất bản báo Le Paria, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp,
Nguyễn Ái Quốc trở thành người chiến sĩ tiên phong trong phong trào lên án
19
chủ nghĩa thực dân đế quốc và cũng là người đã thi hành bản án chôn vùi chủ
nghĩa thực dân ở Việt Nam, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành con đường
cách mạng của các dân tộc thuộc địa và mở ra thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa đế
quốc trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, phải đến ngày 14/12/1960, Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc mới chính thức ra bản Tuyên ngôn trao trả độc lập cho các
dân tộc thuộc địa và đến ngày 12/12/1970, Nghị quyết của Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc, với không một phiếu chống nào đã trịnh trọng tuyên bố: Khẩn thiết
chấm dứt một cách mau chóng và vô điều kiện chế độ thuộc địa dưới mọi hình
thức và mọi biểu hiện. Từ đây, có thể nói rằng với sự ra đời của Bản án chế độ
thực dân Pháp đã chứng minh cho sự thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới, kết thúc thời kì đen tối trong lịch sử
nhân loại, mở ra trang mới cho lịch sử nhân loại.
2.1.2. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành
độc lập
“Chủ nghĩa dân tộc” theo Hồ Chí Minh hoàn toàn không phải là thứ chủ
nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II mà là chủ nghĩa dân tộc
chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin gắn dân tộc với quốc tế, dân
tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người.

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng ở các nước thuộc địa “chủ
nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Chủ nghĩa dân tộc ở Nguyễn
Ái Quốc chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính. Đó là sản
phẩm kết tinh của nhân dân Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch
sử, là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo
vệ nền độc lập. Sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh là Người đã phân tích cấu
trúc kinh tế, xã hội ở các nước thuộc địa và Đông Dương, từ đó khẳng định cuộc
đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra quyết liệt như ở phương Tây nhưng tinh
20
thần dân tộc chân chính ở các nước này diễn ra rất mạnh mẽ và quyết liệt. Vì
vậy, Người lưu ý những người cộng sản phải biết nắm lấy ngọn cờ dân tộc để
giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản.
Trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi Quốc tế cộng sản,
Người viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn giống như ở phương Tây, bởi
vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc xét về mặt cấu trúc kinh tế
không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời kì cận đại, và
đấu tranh giai cấp không quyết liệt như ở đây” “Những địa chủ hạng trung và
hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt
bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ ” [14, 464-465].
“ Nếu nông nhân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn
liếng gì lớn , nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại
không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng có công
đoàn, kẻ thì chẳng có tơrớt Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu.
Điều đó, không thể chối cải được” [14, 464].Trái lại, giữa họ vẫn có một sự
tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều là người nô lệ mất nước. Từ
đó, Người khẳng định: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính
nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi
biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp
dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn
An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục

thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm
vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917” [14, 466]. Cũng ngay trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc nêu lên cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng
sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản Giờ
đây, người ta không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên
những động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa
21
dân tộc của họ thắng lợi , nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ
nghĩa quốc tế” [14, 467].
Từ vị thế của người nô lệ mất nước, từ truyền thống đấu tranh của dân tộc,
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò, sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, coi đó là
một động lực lớn mà những người cách mạng, những người cộng sản phải nắm
lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay của một giai cấp nào
khác; đồng thời phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai
cấp vô sản, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế để tạo nên
sức mạnh tổng hợp thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội.
Như vậy, khác với nhiều nhà cách mạng đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã
nhận thức được sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc; đồng thời, Người đã phát huy
sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc gắn với các yếu tố của thời đại để thực hiện
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
2.1.3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đã làm cho Người
sáng tỏ về đường lối cứu nước - con đường cách mạng vô sản. Từ đây Nguyễn
Ái Quốc đã có sự gắn bó thống nhất giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp,
giữa dân tộc và quốc tế, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy mối quan hệ khăng khít giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Trong tác
phẩm Cuộc kháng chiến, Người viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới

giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [14, 416]. Đến năm 1930, Người
xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (cách mạng dân tộc - dân chủ)
22
và để đi tới xã hội cộng sản (cách mạng xã hội chủ nghĩa). Hai giai đoạn ấy
không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau. Người cho rằng
độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Theo Người, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến
lược: chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc
và dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt
lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục
tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho
việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải
được thực hiện một cách triệt để, phải “đến nơi”. Đó là một nền độc lập thực sự,
độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào. Để tạo cơ sở, tiền đề
cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi hỏi có ý nghĩa
sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước. Đồng thời, để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập
dân tộc phải thống nhất với tự do hạnh phúc của nhân dân vì theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh “nếu nước được độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì”.
Trong mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Người xác
định rằng chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc
lập dân tộc; sự đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện công bằng, dân chủ trong xã hội Theo Người, chủ
nghĩa xã hội là chế độ xã hội làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành, các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau Về mặt phân phối sản phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai

làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng, những
người già, đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm
chăm sóc nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật,
chính trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm
23
và ngày một nâng cao. Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu
nghị, làm bạn với tất cả các nước Như vậy, chủ nghĩa xã hội với những đặc
trưng đó không chỉ bảo vệ những thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo
nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới
giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn. Vì vậy, độc lập dân tộc
phải gắn với chủ nghĩa xã hội như một quá trình thống nhất.
Tư tưởng độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo
lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi
đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực
hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả
của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên
chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ vững và phát
triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.
Quan điểm của Người về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp
những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về
nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam. Đây là quan điểm sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh và là một
đóng góp quan trọng về lý luận vào kho tàng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vào lý

luận cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay.
24
2.1.4. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
Trong khi chống lại luận điệu vu cáo những người cộng sản muốn xóa bỏ
tổ quốc và dân tộc của giai cấp tư sản, Mác và Ăng ghen đã chỉ ra mối quan hệ
giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, phạm vi của vấn đề dân tộc trong cách
mạng vô sản. Các ông cũng nhấn mạnh rằng: Chỉ đứng trên lập trường của giai
cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
Vì vậy, trong Tuyên ngôn của Đảng Công sản, Mác kêu gọi: “giai cấp vô sản
mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, tự xây dựng thành giai cấp dân
tộc, tự mình trở thành dân tộc. Các ông tuyên bố: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc
lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ. Khi mà sự đối
kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa
các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [7, 539].
Như vậy, có thể thấy rằng ở Mác và Ăngghen, các ông đã giải quyết vấn đề
giai cấp, từ đó làm tiền đề cần thiết để đi đến giải quyết vấn đề dân tộc.
Khắc phục những hạn chế của Mác-Ăngghen và bổ sung bằng những “cơ
sở lịch sử”, Lênin đã phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành hệ thống lý luận,
được xem là học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng: cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó
không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa.
Với những cống hiến của mình, Lênin được đánh giá là người đã đặt nền móng
cho thời đại mới - thời đại cách mạng ở các nước thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin
và tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản, đồng thời Người đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận về giai cấp và đấu
tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Khác với Mác, Ăngghen và Lênin, theo Hồ Chí Minh, xét trong điều kiện và
hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi

25

×