BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu.
Giáo dục phổ thơng có vị trí hết sức quan trọng, mang tính nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân.Trong chương trình giáo dục, mơn Ngữ văn là một mơn
học có vai trị quan trọng khơng chỉ giúp học sinh trau dồi kiến thức, rèn luyện tư
duy mà cịn góp phần vào q trình hình thành, phát triển các năng lực cần thiết
cho các em.
Đề án đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa (CT&SGK) giáo dục phổ
thơng sau 2015 nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển Chương
trình theo định hướng năng lực. Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách
linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá
nhân, … nhằm đáp ứng hiệu quả một u cầu phức hợp của hoạt động trong bối
cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm
chất của người lao động, kiến thức và kĩ năng) được thể hiện thơng qua các hoạt
động của cá nhân nhằm thực hiện một loại cơng việc nào đó.
Nghị quyết 88/2014 của Quốc hội về đổi mới chương tr ình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thơng nêu rõ mục tiêu “chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ
kiến thức sang nền giáo dục phát triển tồn diện cả về phẩm chất và năng lực,
hài hịa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học viên” và u
cầu “đổi mới tồn diện mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ
chức giáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo u cầu
phát triển phẩm chất và năng lực học viên; khắc phục tình trạng q tải; tăng
cường thực hành và gắn với thực tiễn cuộc sống”.
Hơn nữa, giáo dục phổ thơng nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ
chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận
dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo điều đó, nhất định phải thực hiện
1
thành cơng việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều”
sang dạy học sinh cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất.
Nắm bắt được tinh thần đổi mới, trong những năm qua ngành giáo dục nói
chung và tập thể giáo viên đã và đang nghiên cứu đề xuất và thực hiện nhiều giải
pháp hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đạt
được khơng ít những thành cơng. Đây là tiền đề vơ cùng quan trọng để ngành
giáo dục thực hiện mục tiêu đổi mới. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của đơn vị
cho thấy sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích
cực của học sinh chưa nhiều nhất là đối tượng học sinh theo học chương trình
GDTX cấp THPT nói chung và tại Trung tâm GDNNGDTX Tam Đảo nói riêng.
Dạy học vẫn nặng truyền thụ kiến thức, hồn thành đầy đủ nội dung giáo án đã
định sẵn. Việc rèn luyện kỹ năng có được quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao.
Hoat động kiểm tra đánh giá chưa chú trọng đến đánh giá cả q trình học tập
của học sinh. Tất cả những điều đó dẫn tới việc học sinh thụ động, lúng túng khi
giải quyết những vấn đề trong thực tiễn.
Sinh ra tại vùng q Bắc Ninh giàu truyền thống văn hóa, Kim Lân được
biết đến là một trong những nhà văn thành cơng khi viết về người nơng dân và
cuộc sống nơng thơn. Là tác phẩm tiêu biểu của một trong những nhà văn “thuộc
hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại” , Vợ
nhặt cũng ra đời bởi nỗi ám ảnh của Kim Lân về nạn đói lịch sử Ất Dậu (1945).
Tác phẩm Vợ nhặt đã được lựa chọn vào chương trình giảng dạy Ngữ văn 12,
được đơng đảo bạn đọc u mến.
Qua q trình khảo sát, dự giờ thực tế, người vi ết nhận th ấy các giáo án
của giáo viên hay các phương pháp được sử dụng trong giờ học mới chỉ dừng
lại ở việc dạy học theo một vài thiết kế bài học quen thuộc. Dạy học vẫn mang
tính hàn lâm, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo. Để một tác phẩm văn
học thực sự hấp dẫn, phát huy được năng lực của người học, người viết chọn
đề tài “Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất
2
người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân”nhằm đề xuất một số giải
pháp dạy học tác phẩm Vợ nhặt phát huy sự sáng tạo, năng lực của học sinh,
đặc biệt là giáo dục ý thức đạo đức, vận dụng vào cuộc sống thực những bài học
cuộc sống: sự nhân ái, sẻ chia… cho học sinh Trung tâm GDNNGDTX Tam
Đảo.
2. Tên sáng kiến:
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất
người học qua truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Tạ Thị Thanh Hịa
Địa chỉ: Trung tâm GDNN GDTX Tam Đảo
Số điện thoại: 0915696603 Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Tạ Thị Thanh Hịa Trung tâm GDNNGDTX Tam Đảo
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Áp dụng dạy học mơn Ngữ văn cho học sinh cấp THPT lớp12.
Hỗ trợ giáo viên có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy tác phẩm truyện ngắn
theo định hướng phát triển năng lực người học.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 05/1/2017
7. Mơ tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Nội dung sáng kiến:
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ
PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC
1. Cơ sở lí luận
3
1.1. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất
người học
1.1.1.Năng lực và phẩm chất người học
+ Năng lực:
Năng lực là một khái niệm then chốt chi phối việc đổi mới căn bản
chương trình giáo dục mới. Nội hàm khái niệm năng lực cũng tùy vào cách tiếp
cận và lĩnh vực áp dụng mà hiểu khác nhau. Từ điển tiếng Việt do Hồng Phê
chủ biên có giải thích: Năng lực là:“ Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên
sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho
con người khả năng hồn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”.
Tài liệu tập huấn về dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 nhấn
mạnh: “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức
kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp
ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất
định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (ph ẩm ch ất c ủa
người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thơng qua các hoạt động
của cá nhân nhằm thực hiện một loại cơng việc nào đó. Năng lực bao gồm các
yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi cơng dân đều cần phải có, đó là
các năng lực chung,cốt lõi”.
Định hướng chương trình giáo dục phổ thơng(GDPT) sau năm 2015 đã xác
định một số năng lực những năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có
như:
Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:
+ Năng lực tự học
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực sáng tạo
4
+ Năng lực quản lý bản thân
Năng lực xã hội, bao gồm:
+ Năng lực giao tiếp
+ Năng lực hợp tác
Năng lực cơng cụ, bao gồm:
+ Năng lực tính tốn
+ Năng lực sử dụng ngơn ngữ
+ Năng lực ứng dụng cơng nghệ thơng tin (ICT)
+ Về phẩm chất:
Phẩm chất (giá trị) của cá nhân là động cơ, ý thức trách nhiệm, hứng thú hành
động, đạo đức, niềm tin….của cá nhân đó.
Những phẩm chất cần rèn luyện cho người học bao gồm: u đất nước; u
con người; Chăm học, chăm làm; Trung thực, trách nhiệm.
1.1.2. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người
học
Dạy học là tổ chức các hoạt động học tập của HS: Trong phương pháp dạy
học tích cực, HS được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức
và hướng dẫn, thơng qua đó tự lực khám phá những điều mình ch ưa rõ mà khơng
phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào
những tình huống của đời sống thực tế, học viên trực tiếp quan sát, thảo luận,
làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa
biết, hiểu được kiến thức, kĩ năng mới, vừa vận dụng được phương pháp chiếm
lĩnh kiến thức, kĩ năng đó, khơng theo những khn mẫu sẵn có, được bộc lộ và
phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này, giáo viên khơng chỉ giản đơn
truyền đạt tri thức mà cịn hướng dẫn hành động.
5
Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thơng qua bộ mơn,
học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ,
tình cảm, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một số u cầu phức hợp
của hoạt động trong một số hồn cảnh nhất định.
Trong định hướng phát triển chương trình sau 2015, mơn Ngữ văn được coi
là mơn học cơng cụ, theo đó, năng lực giao tiêp ti
́ ếng Việt và năng lực thưởng
thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc thù của mơn học;
ngồi ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân (là các năng lực chung) cũng
đóng vai trị quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của mơn học.
Ngồi những năng lực chung mà mơn Ngữ văn cũng như các mơn học khác
đều hướng đến, mơn Ngữ văn cịn hướng đến những năng lực chun biệt:
+ Năng lực đọc hiểu văn bản
Đọc hiểu văn bản chỉ hoạt động tiếp nhận văn bản của bạn đọc là HS, trong
mơi trường lớp học, có hướng dẫn và đánh giá. Có 4 cấp độ u cầu cơ bản của
hoạt động đọc hiểu:
Cấp độ
Nhận biết
Mơ tả
Kể lại câu chuyện, tóm tắt cổ truyện, nhớ tên nhân vật,
tên tác giả, thuộc lịng bài thơ, đoạn thơ...
Thơng hiểu
Hiểu được đặc điểm thể loại, hình thức, bố cục,tình
huống, tư tưởng, nội dung, nghệ thuật tác phẩm...
Vận dụng
Vận dụng kiến thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề
trong phạm vi nhà trường, cuộc sống... với u cầu ở
Vận
dụ n
g
mức độ bình thường.
Vận dụng Vận dụng kiến thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề
cao
tương đối khó trong phạm vi cuộc sống cá nhân, gia đình
và xã hội với u cầu sáng tạo cao có chủ kiến cá nhân.
6
+ Năng lực tạo lập văn bản:
Năng lực tạo lập văn bản chính là khả năng tự tạo nên một chỉnh thể
văn bản đạt được mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp rõ ràng và có thái độ
của người giao tiếp.
+ Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc
nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc
sống, thơng qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó
biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện.
Như vậy, q trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát
triển các năng lực đáp ứng với u cầu phát triển của xã hội, thơng qua việc rèn
luyện và phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói. Với đặc trưng của mơn học,
mơn Ngữ văn triển khai các mạch nội dung bao gồm các phân mơn Văn học,
Tiếng Việt, Tập làm văn nhằm hướng dẫn HS đọc hiểu các văn bản và tạo lập
được các văn bản theo các kiểu loại khác nhau.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Nội dung đề án đổi mới chương trình và SGK
Một trong những định hướng phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội Đảng
lần thứ XI đã nêu là “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới tồn diện và
phát triển nhanh giáo dục đào tạo”, trong đó nhấn mạnh vào việc đổi mới mãnh
mẽ nội dung và phương pháp, chương trình dạy và học ở tất cả cá cấp, các bậc
học.
Theo Đề án được phê duyệt, chương trình mới, SGK mới được xây dựng
theo hướng coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả phẩm chất
và năng lực. Bên cạnh đó là chú trọng giáo dục tinh thần u nước, lịng tự hào
dân tộc, đạo đức, nhân cách, lối sống; phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
7
hướng nghề nghiệp cho mỗi học sinh. Đồng thời tăng cường năng lực ngoại
ngữ, tin học, kỹ năng sống, làm việc trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Chương trình SGK mới xây dựng trên ngun tắc lấy HS làm trung tâm,
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của HS, đồng thời
tăng cường tính tương tác trong dạy học giữa thầy và trị, trị với trị, giáo viên
với giáo viên.
2.2. Thực trạng dạy học mơn Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay.
Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở nhà trường phổ thơng hiện nay
khơng thể khơng nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn
hiện nay: dạy học đọc chép, dạy nhồi nhét, học sinh học thụ động, thiếu sáng
tạo, thiếu hứng thú đam mê...
Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng học tập trì trệ, thụ động, thiếu
hào hứng của học sinh. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại
khoa học cơng nghệ, dể hiểu là đại đa số HS chỉ muốn học các ngành khoa học
tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế…ít có HS hứng thú học văn, bởi phần đơng HS nghĩ
rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, khơng học vẫn biết
đọc, biết nói cho nên học văn khơng thiết thực. Có thể đó là lí do làm cho đa số
HS khơng cố gắng học ngữ văn.
Về phía giáo viên, xã hội ta là xã hội tư duy theo kiểu giáo điều đã lâu
năm, khơng biết đối thoại, khơng cho đối thoại, thậm chí theo lối phong kiến
xưa, coi đối thoại là hỗn, là láo, thầy bảo gì chỉ biết cắm đầu nghe. Xã hội như
thế thì nhà trường như thế khơng sao khác được. Nếu trong giờ học mà tổ chức
đối thoại, thảo luận thì cũng là thảo luận vờ vịt. Xã hội sao thì nhà trường như
vậy. Nếu khơng thay đổi xã hội khó mà thay đổi giáo dục.
Thực trạng dạy học văn như trên khơng phải do một lí do cục bộ nào,
khơng phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, khơng cố gắng, mà chủ yếu là
do vẫn tồn tại một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói chung
và dạy học văn nói riêng. Nói một cách khác cho đến nay lí luận dạy học đặc
8
biệt là lí luận dạy học ngữ văn ở ta vẫn cịn chưa hề đổi mới hoặc chỉ mới là hơ
hào mà chưa thực sự có quan niệm mới về dạy học, tập trung ở mấy ngun
nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng.
Văn học trong nhà trường được gọi là mơn “Văn học trích giảng”, “Văn học
giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân tích tác phẩm văn học”.
Việc dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”.
Giáo án soạn ra là để cho GV “giảng”, biểu diễn trên lớp. Khái niệm “đọc” chỉ
được hiểu là đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà khơng thấy nói là đọc hiểu. Đối
với phân mơn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho HS tập làm theo những
đề u cầu HS viết lại những điều đã học mà ít nêu u cầu khám phá, phát hiện
những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Đề thi tuy có sự đổi mới về kiểm
tra đánh giá năng lực người học nhưng khơng ít đề kiểm tra ra theo dạng tái hiện
kiến thức, ghi nhớ.
Thứ hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, HS
phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi
vì bản chất của q trình dạy học là q trình “dạy” của GV và q trình “học”
của HS. Q trình học tập khơng phải là tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp
từ ngồi vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu
mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ. Học tập thực chất khơng phải là học thuộc
mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở các tác động của bên ngồi và của
hoạt động của người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời,
học xong là qn ngay, khơng để lại dấu ấn trong tâm khảm người học, khơng
trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển.
Thứ ba, chưa xem HS là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các
em tính chủ động trong học tập. Coi HS là chủ thể của hoạt động học tập của
mình thì HS phải là người chủ thể trong các hoạt động học tập, là người chủ
động kiến tạo các kiến thức của mình mà GV chỉ là người tổ chức các hoạt động
9
học tập cho HS. Giáo án của GV phải là kế hoạch hoạt động của HS để tự kiến
tạo kiến thức, chứ khơng phải là Giáo án để GV giảng và bình ở trên lớp.
Thứ tư, chúng ta chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc
văn, một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thường nói dạy học
văn là dạy cảm thụ văn học. Nói như vậy là chưa thật chính xác, bởi vì HS
khơng phải cảm thụ các dịng chữ in, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu
chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tượng, trên cơ sở đó mới cảm thụ thế giới
nghệ thuật bằng ngơn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm thụ âm nhạc hay hội
hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục bức tranh. Trong văn học
chính người đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thưởng thức. Đọc khơng
hiểu thì khơng có gì để cảm thụ cả.
Với HS khối GDTX nói chung và HS của Trung tâm GDNNGDTX Tam
Đảo nói riêng, năng lực đọc hiểu, tạo lập văn bản và cảm thụ thẩm mĩ văn học
cịn rất kém. Ngun nhân xuất phát từ hai phía: người dạy (GV) và người học
(HS). Học sinh đa phần có xuất phát điểm, mặt bằng kiến thức, năng lực tự học
yếu kém. Về phía người dạy cịn thiếu kỹ năng, phương pháp. Vì vậy, vấn đề
đặt ra làm làm sao tạo được sự hứng thú và phát huy được năng lực cho học sinh
là điều cần thiết.
PHẦN II: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP, KỸ THUẬT DẠY HỌC TRUYỆN
NGẮN “VỢ NHẶT” THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ
PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC
Là tác phẩm tiêu biểu của một trong những cây bút truyện ngắn “viết ít mà
ngày càng được khâm phục nhiều”, Vợ nhặt cũng ra đời bởi nỗi ám ảnh của Kim
Lân về nạn đói lịch sử Ất Dậu (1945) nạn đói đã cướp đi sinh mạng hơn hai
triệu đồng bào ta lúc bấy giờ.
Cũng như Nam Cao, Kim Lân vốn rất am hiểu về nơng thơn cho nên ơng có
những trang viết sâu sắc, thấm thía về những người dân q nghèo khổ. Thế giới
nghệ thuật của ông là khung cảnh làng quê hồn hậu và những người nông dân
10
cần cù, chất phác. Đó là mảng hiện thực mà ơng gắn bó và hiểu biết sâu sắc.
Nếu như Tơ Hồi mang đến cho người đọc những trang viết vơ cùng sinh động
về phong tục tập qn và đời sống của người dân miền núi thì Kim Lân lại đem
đến những tác phẩm đặc sắc về phong tục và đời sống làng q vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Ơng viết chân thật và xúc động về đời sống người dân q mà ơng hiểu
sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ những con người gắn bó tha thiết, thủy
chung với q hương và cách mạng. Sáng lên trong các tác phẩm của Kim Lân là
vẻ đẹp tâm hồn của người nơng dân Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam
lũ nhưng vẫn u đời, lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa.
Trong q trình dự giờ thực tế, tơi nhận thấy các giờ dạy của đồng nghiệp
đều cụ thể hóa được các đơn vị kiến thức đã chuẩn bị sẵn trong giáo án nhưng
phương pháp vẫn cịn nhiều điều bất ổn. Việc vận dụng kết hợp những phương
pháp cần thiết và tối ưu để truyền đạt tới HS một cách hiệu quả và dễ dàng thì
vẫn cịn nhiều hạn chế. Trong q trình dạy học, GV thường chỉ vận dụng
phương pháp truyền thống như nêu vấn đề, HS tìm phương án trả lời. Tiếp theo
đó GV phân tích, chốt lại ý chính. Vì vậy, tiết học chưa thực sự thu hút được HS.
Qua q trình nhiều năm dạy tác phẩm “Vợ nhặt” ở chương trình Ngữ
văn 12, tơi đức rút được một số kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy tác phẩm
vừa tạo được hứng thú cho HS vừa giúp phát triển được một số năng lực: giao
tiếp, hợp tác, tự chủ và các phẩm chất: biết cảm thơng chia sẻ, giúp đỡ người
cùng cảnh ngộ, lịng bao dung...
1. Tạo hứng thú thơng qua phần khởi động
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý
nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khối cảm trong q trình hoạt
động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội
dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú.
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí nhân cách của con người. Hứng thú có
vai trị rất quan trọng trong học tập và làm việc, khơng có việc gì người ta khơng
làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ
11
tình u đối với cơng việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận
thức, giúp HS học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của
sự sáng tạo.
Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê
của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là
động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ
cơng việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với
hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn
vào hành động đó. Ngược lại nếu khơng có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ
khơng đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt
động học tập, khi khơng có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học
tập sẽ khơng cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
Người học chỉ tự giác, tích cực học tập khi họ thấy hứng thú. Hứng thú
khơng có tính tự thân, khơng phải là thiên bẩm. Hứng thú khơng tự nhiên nảy sinh
và khi đã nảy sinh nếu khơng duy trì, ni dưỡng cũng có thể bị mất đi. Hứng thú
được hình thành, duy trì và phát triển nhờ mơi trường giáo dục với vai trị dẫn
dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên là người có vai trị quyết định
trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho HS
Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho HS ý thức
được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Ngồi việc khai thác sự lí thú
trong chính nội dung dạy học, hứng thú của HS cịn được hình thành và phát triển
nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích
của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trị thi đố, các trị
chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy
học dự án, tổ chức dạy học ngồi khơng gian lớp học, xem các trích đoạn phim,
video clip...Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trị chơi cũng đều gây
được khơng khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trị
chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng, kích thích sự
phát triển trí tuệ của các em.
12
Hứng thú học tập của học sinh được tăng cường phần lớn chịu sự ảnh
hưởng bởi giáo viên. Do đó, giáo viên cần khơng ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm
chất đạo đức, nghề nghiệp, cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc
truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn, có chất lượng. Giáo viên cần
giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trị của các kiến thức mơn học đối với
cuộc sống; giúp học sinh biết cách học thích hợp đối với mỗi bộ mơn, tăng
cường thời lượng, chất lượng thực hành cho mỗi bộ mơn, nắm vững lý thuyết,
ln có sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình
huống trong đời sống theo các khía cạnh khác nhau. Q trình kích thích hứng thú
khơng chỉ diễn ra ở bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải diễn ra trong
suốt q trình. Do đó, trong q trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra trị
chơi nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh, tăng tính tích cực của trí
tuệ.
Nhà văn Kim Lân cũng khơng xa lạ với HS bởi trong chương trình Ngữ
văn THCS các em đã được học truyện ngắn “ Làng”, vì vậy, thay bằng tạo ra trị
chơi ơ chữ, ghép hình đốn tên tác giả tơi sử dụng trích đoạn phim tư liệu,hình
ảnh về nạn đói năm 1945 và đặt câu hỏi để khởi động bài học. Những hình ảnh,
thước phim sống động đã lơi cuốn HS bước vào khơng gian ảm đạm, cái đói bủa
vây làm nền cho nhân vật xuất hiện của tác phẩm.
13
Hình ảnh minh họa
2. Gợi sự cảm thơng, lịng trắc ẩn từ nhan đề tác phẩm.
Văn học ln gắn bó với đời sống, nhà văn thâm nhập và biểu hiện cuộc
sống theo những con đường khác nhau. Nhan đề tác phẩm giữ vai trị như một
cột mốc đánh dấu từng chặng đường thâm nhập cuộc sống của tác giả. Nhan đề
tác phẩm là cửa sổ nhìn thế giới do nghệ sĩ mở ra, là “chìa khố nghệ thuật” giúp
người đọc mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm. Nhan đề như một một mã của
thơng điệp thẩm mỹ, một mơ hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản
văn học, cho độc giả biết trước: văn bản này viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc
nên đọc văn bản như thế nào.
Nhan đề của tác phẩm là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, nhưng một
số GV vẫn cịn coi nhẹ, bỏ qua yếu tố này. Trong q trình giảng dạy tơi ln
lưu ý học sinh tìm hiểu ý nghĩa nhan đề của tác phẩm. Đây là một cách hay để
tạo sự chú ý, kích thích hứng thú của các em.
Ở truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã tạo sự tị mị ngay bởi
nhan đề tác phẩm vừa lạ lẫm vừa chứa dựng điều gì đó ối oăm, éo le, nghịch
cảnh. “Vợ nhặt” nghĩa là gì? Sao tác giả khơng gọi là “Nhặt vợ”? Cái khác biệt là
ở chỗ: “nhặt vợ” là một động từ, cịn “vợ nhặt” là một danh từ. Và đọc xong tác
phẩm, người đọc mới thấy hết được tính chất vừa hài hước, vừa xót xa, bi thảm
trong cái nhan đề ấy.
Với kỹ thuật dẫn dắt khéo léo, GV có thể tạo ra một tình huống thảo luận
đầy hứng thú từ nhan đề. GV có thể đặt câu hỏi: Nhan đề “ Vợ nhặt” gợi cho
em suy nghĩ gì?”
14
“Vợ nhặt” vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa nhân đạo rất lớn. Nói
như nhà văn Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm
1945 người nơng dân dường như khó ai thốt khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ
xuống mọi xóm làng.Trong hồn cảnh ấy, giá trị một con người thật vơ cùng rẻ
rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngồi chợ đúng là
nhặt được vợ như tơi nói trong truyện”.
Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúng có
thể “nhặt” được như người ta nhặt cái rơm, cái rác ngồi đường, ngồi chợ.
Người ta nhặt nhau về và về với nhau khơng phải chỉ vì muốn có miếng ăn, có
một chốn nương thân. Thẳm sâu của chuyện nhặt vợ ấy là khát khao về mái ấm
gia đình, là tình u thương, đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no”
của người dân lao động.
Đằng sau nhan đề ấy, Kim Lân muốn gửi gắm một thơng điệp khác: “khi
đói người ta khơng nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống.
Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh
phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai,
vẫn muốn sống, sống cho ra con người.
Vợ nhặt là một nhan đề hàm súc. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội đã gây ra
nạn đói hủy diệt con người. Mặt khác, nhan đề ấy cũng nói lên rằng, trong hồn
cảnh khắc nghiệt của cuộc sống, trên ranh giới mong manh giữa sự sống và cái
chết, con người vẫn hướng về sự sống, về hạnh phúc, tương lai. Tình u
thương, khát vọng hạnh phúc vẫn mạnh hơn cái chết. Đó là ý nghĩa sâu sắc của
nhan đề Vợ nhặt
3. Kết hợp linh hoạt các phương pháp, kỹ thuật dạy học giúp học sinh
chiếm lĩnh nội dung và nghệ thuật tác phẩm
3.1. Hoạt động cặp đơi và hoạt động nhóm
Dạy học nhóm là một hình thức xã hội của dạy học, trong đó học sinh của
một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi
15
nhóm tự lực hồn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân cơng và hợp tác
làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước cả
lớp.
Dạy học nhóm cịn được gọi bằng những tên gọi khác nhau như dạy học hợp
tác, dạy học theo nhóm nhỏ. Dạy học nhóm khơng phải một phương pháp dạy
học cụ thể mà là một hình thức xã hội, hay là hình thức hợp tác của dạy học.
Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, vận dụng, luyện tập, củng cố
một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể để tìm hiểu một chủ đề mới . Ở mức độ
cao, có thể đề ra những nhiệm vụ cho các nhóm HS hồn tồn độc lập xử lý các lĩnh
vực đề tài và trình bày kết quả của mình cho những học sinh khác ở dạng bài giảng.
Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sang t
́ ạo nên hình thức
này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sang t
́ ạo.
Điều quan trọng là HVcần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia
làm việc nhóm.
Tùy theo hoạt động học tập, có lúc HS sẽ làm việc theo cặp trong nhóm.
Hoạt động cặp đơi và hoạt động nhóm là những hoạt động nhằm giúp HS phát
triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng.
Những lưu ý khi tổ chức hoạt động nhóm:
+ Số lượng HS trong một nhóm thường khoảng 4 6 học sinh. Nhiệm vụ của
các nhóm có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là
các phần trong một chủ đề chung.
+ Để hoạt động nhóm thực sự có hiệu quả, ngay từ đầu GV nên tìm hiểu và
phân loại HS về nhận thức, năng lực, phẩm chất làm tiền đề cho việc chia nhóm.
Các thành viên trong nhóm cần có vai trị, nhiệm vụ rõ ràng.
+ Sau mỗi hoạt động nhóm, các thành viên cần thay đổi vai trị cho nhau, tránh
tình trạng mỗi thành viên chỉ đảm nhiệm một vai trị trong thời gian q lâu.
16
+ Khi giao nhiệm vụ cho HS, câu hỏi của Gv phải rõ ràng, mạch lạc để đảm bảo
cho HS hiểu rõ u cầu của nhiệm vụ. GV có thể hỏi thêm những câu hỏi phụ
để kiểm tra xem HS đã nắm được nhiệm vụ hay chưa.
+ Các vấn đề đưa ra cho HS hợp tác nhóm dược biên soạn trong phiếu học tập
hoặc bảng phụ và chỉ giao cho HS một làn. Các phiếu được biên soạn đơn giản,
rõ mục đích, có tính trực quan cao, khơng gây khó hiểu hoặc mất thời gian.
+ Trong thời gian HS làm việc, GV phải thường xun theo dõi để hướng dẫn,
giúp đỡ các nhóm trao đổi, thảo luận đúng u cầu bài học, hoặc GV gợi mở
thêm kiến thức và giáo dục kỹ năng sống cho HS.
Ví dụ: GV tổ chức thảo luận nhóm: Chia lớp thành 4 nhóm, phát phiếu
học tập và cùng thảo luận một nội dung : Cảm nhận của anh (chị) về diễn biến
tâm trạng của nhân vật Tràng (lúc quyết định để người đàn bà theo về, trên
đường về xóm ngụ cư, buổi sáng đầu tiên có vợ).
Để tìm hiểu các nhân vật trong truyện, GV chia lớp thành 3 nhóm, mỗi
nhóm tìm hiểu một nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ.
Lần lượt đại diện từng nhóm trình bày, các nhóm khác góp ý bổ sung
( nhóm sau khơng nhắc lại nội dung nhóm trước đã trình bày)
Giáo viên định hướng, nhận xét và nhấn mạnh những ý cơ bản.
Tràng là nhân vật có bề ngồi thơ, xấu, thân phận lại nghèo hèn, mắc tật
hay vừa đi vừa nói một mình, là dân ngụ cư (lớp người bị xã hội khinh nhất trong
quan niệm lúc bấy giờ), lại đang sống trong những ngày tháng đói khát nhất nạn
đói 1945.
Nhưng ở Tràng lại là con người tốt bụng và cởi mở: giữa lúc đói khát
nhất bản thân mình cũng đang cận kề với cái đói cái chết. vậy mà Trang sẵn
lịng đãi người đàn bà xa lạ ăn 4 bát bánh đúc.
Chi sau hai lần gặp gỡ và cho ăn 4 bát bánh đúc, vài câu nói nửa đùa nửa
thật(…).
17
Niềm hạnh phúc khi có vợ :
+ Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý,
mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người Tràng đã có vợ.
+ Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để cịn
ra mắt cơ vợ nhặt.
+ Tràng trong buổi sáng ngày hơm sau: Tràng thấy mình như bước ra từ
một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi.
Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự
sinh sơi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lịng.
Tương tự như vậy, GV có thể đưa ra các câu hỏi khác để HS thảo luận:
+ Trong cái đói khát, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết gần kề, những
nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, em có
nhận xét gì về tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội hiện nay?
+ Truyện ngắn Vợ nhặt được bao bọc bởi khơng gian “tối sầm vì đói khát”
nhưng nhân vật nào cũng ánh lên niềm tin vào tương lai để vượt qua ranh giới
giữa sự sống và cái chết. Suy nghĩ của em về vai trị của niềm tin trong cuộc
sống?
+ Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã đem đến cho gia đình Tràng nguồn
sinh khí mới. Suy nghĩ của em về vai trị của người phụ nữ đối với gia đình?
3.2. Thiết kế và sử dụng phiếu học tập
Phiếu học tập( PHT) là phương tiện định hướng hoạt động độc lập của
học sinh trong q trình dạy học. Trên cơ sở của phiếu học tập, HS độc lập tiếp
thu kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học. Phiếu học tập cịn là phương
tiện rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nhận thức như: Phân tích so sánh, khái
qt hố, trừu tượng hố... phiếu học tập đưa học sinh vào hoạt động tìm tịi,
khám phá. Trên cơ sở đó rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh.
18
Thơng qua tổ chức các hoạt động bằng phiếu học tập, giáo viên có thể thu
được thơng tin ngược về kiến thức và kĩ năng của học sinh để có biện pháp
điềuchỉnh kịp thời.
Phiếu học tập phải được thiết kế sẵn trước giờ dạy. Nội dung phiếu học
tập phải vừa đủ, bám sát mục tiêu bài học và chuẩn kiến thức kĩ năng, phù hợp
đối tượng học sinh lớp giảng dạy, phù hợp với trình độ, hoạt động của học sinh,
với lượng thời gian thích hợp. Hình thức phiếu học tập phải rõ ràng, ngắn gọn,
dễ hiểu thể hiện tính sư phạm, tạo hứng thú cho học sinh.
Sử dụng phiếu học tập cần kết hợp với các tài liệu và phương tiện dạy
học khác như sách giáo khoa, tranh ảnh, tài liệu tham khảo... Giáo viên cơng bố
đáp án kịp thời, đúng cách. Đặc biệt, khơng được lạm dụng phiếu học tập.
Nội dung phiếu học tập cần lựa chọn hình thức biểu hiện phù hợp, có
những dữ liệu nên trình bày bằng văn bản bình thường, có loại đưa vào sơ đồ,
biểu mẫu, bài tập thực hành, bài tập xử lí tình huống... Tất cả đều phải phù hợp
với đối tượng học sinh và nội dung bài học.
Để thiết kế một PHT tốt, đáp ứng được các vai trị trên, theo tơi phải tn
thủ các quy tắc sau:
Có mục đích rõ ràng, nội dung ngắn gọn, chính xác trong diễn đạt ý.
Có khối lượng cơng việc vừa phải, có phần chỉ dẫn nhiệm vụ rõ ràng.
Có khoảng trống phù hợp để học sinh điền kết quả của cơng việc đã làm.
Có quy định thời gian hồn thành.
Trình bày phiếu khoa học.
Có đánh số thứ tự nếu biên soạn nhiều phiếu học tập trong một tiết học
+ Phát phiếu học tập
VD: anh/ chị hãy điền vào khoảng trống các chi tiết miêu tả nhân vật Tràng:
PHIẾU HỌC TẬP
19
Họ tên:………………........
Tổ:.....……..nhóm…….....
Nhân vật Tràng
Lai lịch
Đánh giá chung về
nhân vật
………………………………………. …
……………………………
….
Ngoại hình
………………………………………. ........................................
………………………………………. …………………………
Tính cách
……………………………………….
……………………………………….
……………………………………….
Khát vọng
hạnh phúc
........................................
…………………………
........................................
…………………………
………………………………………. ........................................
………………………………………. …………………………
………………………………………. ........................................
…………………………
........................................
Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………..
3.4. Đặt học sinh vào những câu hỏi khám phá, tình huống có vấn đề để giáo
dục ý thức, phẩm chất.
Hệ thống câu hỏi là yếu tố khơng thể thiếu trong hoạt động dạy học nêu
vấn đề. Tuy nhiên người giáo viên cần có sự lựa chọn các câu hỏi khai thác nội
20
dung sao cho phù hợp. Các kỹ năng đặt câu hỏi cần được chú ý. Câu hỏi phải
bám sát nội dung bài học và có sự mở rộng vấn đề để kích thích sự tìm tịi của
các em. Trên cơ sở những hiểu biết vừa được trang bị, các em giải quyết được
các vấn đề đi từ tác phẩm văn học ra hiện thực đời sống, áp dụng vào những tình
huống thiết thực trong đời sống đáp ứng nhu cầu phát triển năng lực của HS, đổi
mới kiểm tra đánh giá của ngành giáo dục. Thơng qua dạy tác phẩm văn học để
dạy các kỹ năng sống.
Những vấn đề GV nêu ra đặt HS trước những “tình huống có vấn đề”, đây
cũng là nhân tố kích thích tâm lí chủ thể HS, khiến chủ thể tích cực chủ động
vận dụng những hiểu biết của mình vào hoạt động tư duy. Tình huống là điểm
khởi đầu của hoạt động tư duy, khơi dậy nhu cầu tư duy và là điều kiện để
hình thành, phát triển tư duy sáng tạo. Khi “tình huống có vấn đề” trở thành
“vấn đề” đối với bản thân chủ thể, chủ thể sẽ có nhu cầu giải quyết “vấn đề”
đó và do đó, chủ thể sẽ tích cực vận dụng hiểu biết vào hoạt động tư duy. Và
với loại tư duy sáng tạo này tư duy từ bên trong, là nội lực, khơng mang tính
nhất thời mà tích cực diễn ra trong suốt q trình giải quyết tình huống chủ
thể sẽ phát huy được tính chủ động, tích cực nhận thức từ đó phát triển tiềm
năng sáng tạo của bản thân. Sáng tạo ở đây được hiểu là tìm thấy những kiến
thức mới đối với riêng bản thân, khơng phải là một phát minh khoa học hay
sáng tạo ra một cái gì mới cho xã hội. Khi HS biết chuyển tri thức vào giải
quyết một nhiệm vụ nhận thức là đã biết cách chiếm lĩnh tri thức mới và hình
thành kĩ năng mới.
Tuy nhiên, điều quyết định kết quả của một giờ dạy học văn khơng phải chỉ
ở khâu xây dựng “vấn đề” từ các “tình huống có vấn đề” mà chính là ở phương
pháp: triển khai vấn đề và xử lí tình huống như thế nào ở GV, HS. Xác định
được hệ thống “vấn đề” mới chỉ là bước xác định nội dung của bài dạy, nội
dung này quy định phương pháp, nhưng ngược lại, phương pháp tốt sẽ đem lại
hiệu quả tối ưu cho nội dung. Vì thế khả năng xử lí “vấn đề” của GV là rất quan
trọng, điều này phụ thuộc vào nhiều năng lực: lựa chọn “vấn đề”, tạo tâm thế
21
cảm thụ, gợi mở phát hiện “tình huống” xây dựng “vấn đề” và giải đáp “vấn
đề”, sơ kết, làm chủ về thời gian... GV càng có nhiều những năng lực này, hiệu
quả của một giờ dạy học nói chung, dạy học nêu vấn đề nói riêng sẽ càng cao.
Câu hỏi nêu vấn đề liên quan chặt chẽ đến vấn đề và tình huống có vấn
đề. Trong nhiều trường hợp khi đã xác định được vấn đề, nhờ câu hỏi mà GV
tạo được tình huống có vấn đề, tức là xác định được cái chưa biết, cuốn hút sự
quan tâm của HS và tiên đốn được khả năng giải quyết của các em. Câu hỏi nêu
vấn đề có hình thức gần gũi với các loại câu hỏi thường gặp khi phân tích một
tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, chỉ những câu hỏi nhằm xác định rõ vấn đề và
tạo ra tình huống có vấn đề mới được coi là câu hỏi nêu vấn đề. Vì vậy, câu hỏi
nêu vấn đề phải làm rõ hoặc đặt ra được vấn đề, đưa người nghe vào tình huống
có vấn đề.
Một lưu ý khi xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề là GV phải tùy thuộc
vào trình độ tiếp nhận của HS để xây dựng hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp.
Các câu hỏi có thể theo mức độ từ dễ đến khó. Câu hỏi phải kích thích được sự
cảm thụ của HS và phải giúp cho HS phát hiện được hết các chi tiết nghệ thuật
có giá trị và tồn bộ cấu trúc tác phẩm.
Trong một giờ dạy học văn, câu hỏi đóng vai trị hết sức quan trọng. Nếu
như trước đây chúng ta quan niệm câu hỏi là sự đặt ra một cách ngẫu hứng để
giáo viên kiểm tra kiến thức của HS thì giờ đây câu hỏi được đưa ra để dẫn dắt
HS đi tìm hiểu ngọn nguồn của chân lí. Câu hỏi chính là sự trao đổi kiến thức,
các nguồn thơng tin giữa GV và HS, tạo ra một cuộc đối thoại trong văn chương
giữa giáo viên nhà văn (tác phẩm) học sinh. Ở lứa tuổi THPT, kiến thức, kinh
nghiệm đời sống xã hội các em cịn hạn chế cho nên trong q trình dạy học GV
cần đi từ cái có sẵn, dần dần tới mức độ cao hơn. Việc xây dựng hệ thống câu
hỏi phục vụ cho bài học cũng cần tn theo ngun lí đó. Với hệ thống câu hỏi
nêu vấn đề, GV có thể xây dựng câu hỏi ở các mức độ với các dạng như dạng
câu hỏi tái hiện kiến thức; dạng câu hỏi nêu vấn đề, mang tính nhận xét, khám
phá.
22
Ví dụ 1: Nếu là Tràng, em có đưa người “vợ nhặt” đó về nhà mình khơng?
Hành động đó của Tràng cho thấy vẻ đẹp nào trong tâm hồn và tính cách của
nhân vật?
Giáo viên chuẩn bị những tình huống mà học sinh có thể đưa ra sau câu hỏi
này. Học sinh sẽ có nhiều phương án trả lời nhưng người giáo viên cần phải có
sự định hướng cuối cùng để các em có những suy nghĩ tích cực, đúng đắn, từ đó
thấy được hành vi cao đẹp của nhân vật văn học nhằm rèn luyện đạo đức, phát
triển nhân cách của các em.
Trong hồn cảnh miếng ăn bằng cả sinh mạng con người, thế nhưng một
người kéo xe bị th, cuộc sống cũng vơ cùng khổ cực như Tràng mà dám sẵn
sàng bỏ tiền ra đãi một người khơng hề quen biết đã cho ta thấy anh là một
người thật hào phóng. Tràng đến với người đàn bà ấy, trước hết là sự chia sẻ
của những người nghèo cùng trong cảnh hoạn nạn. Đưa thị về làm vợ, tức là
thêm một gánh nặng nữa, một miếng ăn nữa vào cái gia đình vốn cũng đã vất vả
của mình
Tràng đến với người đàn bà ấy, trước hết là sự chia sẻ của những người
nghèo cùng trong cảnh hoạn nạn. Đưa thị về làm vợ, tức là thêm một gánh nặng
nữa, một miếng ăn nữa vào cái gia đình vốn cũng đã vất vả của mình. Song phía
sau câu nói tưởng như là đùa vui bật ra từ người đàn ơng nghèo khổ ấy.
Ví dụ 2: Có người nói rằng nhân vật người vợ nhặt theo khơng Tràng chỉ
vì miếng ăn, vì muốn thốt khỏi cảnh chết đói nhưng có người lại nói, người đàn
bà đó theo Tràng là đi theo tiếng gọi của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc?
Em nghiêng về ý kiến nào hơn? Vì sao?
Giáo viên định hướng: Nếu nhìn ở hình thức bên ngồi của sự việc thì việc
người đàn bà khốn khổ này đến với người đàn ơng tội nghiệp kia là do cái đói,
cái nghèo xui đẩy. Nhưng bản chất của sự việc là đi theo tiếng gọi của hạnh
phúc gia đình. Bởi nếu chỉ vì miếng ăn đơn thuần thì họ chỉ gặp nhau khi ăn bốn
bát bánh đúc rồi chia tay nhau. Hoặc cùng lắm, nếu cần thiết để có thêm miếng
23
ăn nữa thì người đàn bà đó sẽ đi theo Tràng về nhà nhưng chắc chắn chị ta sẽ
dừng lại trước mái nhà xiêu vẹo, trống tuếnh trống tống ấy của mẹ con Tràng.
Việc đưa câu hỏi nêu vấn đề này vào q trình phân tích người vợ nhặt sẽ
giúp cho học sinh có cái nhìn đa chiều sự vật, sự việc, tránh việc nhìn nhận vấn
đề một cách phiến diện, từ đó có sự cảm thơng cũng như phát hiện ra những khía
cạnh tốt đẹp trong phẩm chất của nhân vật này.
Tuy nhiên, để dẫn dắt được HS hiểu và trả lời những câu hỏi mang tính
khám phá như thế này địi hỏi GV phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng
tâm bài dạy để đặt câu hỏi hướng vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi nêu
vấn đề phải phù hợp với từng điều kiện có thể có. Tránh đặt câu hỏi máy móc,
đơn điệu. Nêu vấn đề phải hết sức hợp lí.
Nội dung câu hỏi phải đảm bảo các u cầu về cung cấp kiến thức, rèn
luyện kĩ năng; giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh.
4. Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh thơng qua hình thức đối thoại
Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học ngày nay, mục tiêu hướng đến
là những sản phẩm giáo dục năng động, sáng tạo, tự tin, có kỹ năng trình bày,
diễn đạt vấn đề, kỹ năng hùng biện, tranh luận giải quyết vấn đề, đối thoại,
hợp tác, làm việc nhóm và khả năng thích ứng với mơi trường thực tiễn sản xuất
và đời sống. Sống và làm việc trong mơi trường, giải quyết vấn đề và những va
chạm có tính tồn cầu. Quan trọng hơn là dạy học dựa vào nhu cầu của người
học, lấy người học làm trung tâm thì hình thức và phương pháp dạy học đã đến
lúc phải đổi mới, cải tiến phải thay đổi từ quan niệm tư duy đến hành động
thực tiễn.Việc tìm tịi nghiên cứu, cải tiến phương pháp dạy học sẽ góp phần
nâng cao chất lượng dạy học.
Đối thoại là một hình thức giao tiếp trong xã hội để giải quyết các vấn đề
của thực tiễn kinh tế xã hội và cuộc sống đặt ra. Hình thức này rất phổ biến và
hiệu quả. Ngày nay, hình thức này đã được áp dụng ở hầu hết các lĩnh vực, các
vấn đề. Đưa hình thức này vào trong dạy học sẽ tạo ra một hiệu quả mới góp
phần thay đổi hình thức và phương pháp dạy học.
24
Đối thoại lắng nghe là một hình thức phổ biến trong mọi hoạt động sống
và làm việc trong xã hội hiện nay. Các hình thức đối thoại được áp dụng và sử
dụng để giải quyết các vấn đề xã hội có thể là giữa cá nhân cá nhân, cá nhân
tập thể, tập thể tập thể,... nhằm tìm ra một tiếng nói chung, giải quyết các
cơng việc nhằm thỏa mãn được mọi nhu cầu của các bên tham gia. Trong dạy
học, đối thoại là cách tốt nhất để giáo viên thu nhận thơng tin ngược về những
vấn đề có nhiều người học quan tâm, mảng kiến thức người học cịn thiếu, cịn
yếu,... Từ đó có những cơ sở đề vạch ra hướng điều chỉnh phương pháp, giải
pháp cho phù hợp với sự phát triển tư duy, kiến thức và nhu cầu của người học.
Bởi đối thoại là hình thức có thể nghe ý kiến, vấn đề người khác đặt ra, đồng
thời cũng thể hiện được những hiểu biết, quan điểm, ý kiến của cá nhân người
học về một vấn đề nào đó. Quan trọng hơn, qua đối thoại người dạy biết được
mức độ kiến thức mà người học đã đạt được.
Giáo viên có thể tổ chức cho HS đối thoại về các vấn đề mà tác phẩm đặt
ra như: nhan đề, tình huống truyện, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
hoặc đối thoại về các nhân vật, các vấn đề nhân văn đặt ra trong truyện ngắn
Vợ nhặt nhằm tạo bầu khơng khí thân thiện, khơng gian đậm chất văn học. Với
phương pháp này, HS được thỏa sức tranh luận , trình bày ý kiến, quan điểm của
mình, giúp phát triển năng lực giao tiếp, tư duy, khả năng hùng biện, sự tự tin khi
trình bày quan điểm cá nhân.
Tuy nhiên, do kiến thức, sự hiểu biết của HS cịn hạn chế vì vậy người
GV cần chủ động trong cách hỏi, lắng nghe, đánh giá, ghi nhận những phát biểu
mang tính khám phá và điều chỉnh hành vi, thái độ của HS sao cho vừa đúng
chuẩn mực vừa tạo sự dân chủ trong các nhóm tham gia đối thoại.
5. Phát triển năng lực tư duy, sáng tạo bằng Bản đồ tư duy.
Bản đồ tư duy (iMindMap) là phương pháp được đưa ra như là một
phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là
cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một
dạng của lược đồ phân nhánh.
25