Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Thạc sĩ báo chí học tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở đài phát thanh – truyền hình hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.21 KB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bước vào những năm đầu của thế kỉ XXI không ai trong số chúng ta lại
khơng thừa nhận vai trị của thơng tin trong đời sống chính trị - kinh tế và xã
hội. Ở mỗi nơi trên Trái Đất, dù ở Châu Phi nóng bỏng hay ở Nam Cực xa
xôi, con người đã thiết lập được những mối liên hệ vô cùng chặt chẽ nhờ sự
phát triển của các phương tiện thông tin hiện đại. Ai nắm bắt được thơng tin
nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ chính xác người đó có thể đem lại lợi ích lớn
nhất cho quốc gia của mình.
Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình là hoạt động quan trọng đối
với mỗi kênh truyền hình. Các thể loại báo chí sử dụng trong chương trình
truyền hình Việt Nam hiện nay rất gần gũi với kiến thức được học trong nhà
trường . Tuy nhiên, giữa lý thuyết và thực tế vẫn cịn những khoảng cách,
trong q trình sản xuất có sự chênh lệch khá rõ về lựa chọn, thảo luận đề tài,
về thiết bị kỹ thuật.
Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình nói chung và tổ chức sản
xuất chương trình thời sự nói riêng đóng vai trị quan trọng trong quyết định
chất lượng, hiệu quả chương trình truyền hình. Việc tổ chức sản xuất chương
trình bao gồm nhiều cơng đoạn với sự tham gia của nhiều đầu mối cùng nhiều
đối tượng khác nhau. Vậy nên, sẽ không thấy hết được vai trị, ý nghĩa và
khơng khai thác hết được thế mạnh, hạn chế những nhược điểm, phát huy sự
hợp tác hiệu quả của các thành viên trong quá trình sản xuất nếu không
nghiên cứu một cách khách quan và cụ thể những vấn đề liên quan đến vấn đề
tổ chức sản xuất chương trình thời sự. Cụ thể từ khái niệm, nội dung, quy
trình, sự tác động của việc tổ chức sản xuất tới chất lượng, hiệu quả của
chương trình.


Vấn đề tổ chức sản xuất các chương trình thời sự của Đài Phát thanh và
Truyền hình Hà Nội đã được quan tâm, tuy nhiên trong nhiều năm qua, cơ sở
vật chất, trang thiết bị cũng như vấn đề nhân sự chưa được đầu tư liên tục và


đồng bộ; mặt khác việc quản lý, cách thức tổ chức sản xuất chương trình cịn
chưa cập nhật chính vì vậy, chất lượng, hiệu quả chương trình thời sự của Đài
chưa cao; chương trình chưa thật sự hấp dẫn, chưa đáp ứng được đầy đủ, đa
dạng các mong mỏi của khán giả. Vậy nên, nếu khơng có những khảo sát,
phân tích một cách khách quan, khoa học thực trạng việc tổ chức sản xuất
chương trình thời sự đang diễn ra từ đó chỉ ra những mặt được cùng những
hạn chế, những giải pháp hợp lý thì việc tổ chức sản xuất chương trình thời sự
của Đài PTTH Hà Nội sẽ khó phát huy hiệu quả và đồng nghĩa với vấn đề này
là chất lượng chương trình thời sự của Đài cũng khó nâng cao, khó cạnh tranh
với chương trình thời sự của các Đài truyền hình khác và cùng với đó là việc
chương trình khó thu hút được sự quan tâm của khán giả trong thời gian tới.
Hiện nay, có khá nhiều đề tài nghiên cứu về nội tổ chức sản xuất
chương trình thời sự, nhưng chủ yếu mới nằm trong phạm vi nghiên cứu.
Trong khi có nhiều phương tiện, cách thức thực hiện, phong phú về nội dung,
đa dạng về hình thức thể hiện.Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển
của khoa học và công nghệ, các phương tiện truyền thơng đại chúng cũng đã
có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong đó, truyền hình là một phương tiện
truyền thơng rất quan trọng, được đông đảo các tầng lớp trong xã hội quan
tâm, đón nhận. Với sức lan tỏa nhanh, cùng thời gian ngắn, dựa trên ưu thế về
hình ảnh, âm thanh, truyền hình đang là một trong những lựa chọn thông tin
hàng đầu cho thanh thiếu niên.Ở nước ta hiện nay. số lượng kênh truyền hình
được phát sóng có tới gần 200 kênh, Hà Nội TV – Đài Phát Thanh và Truyền
hình Hà Nội có bề dày truyền thống phản ánh thông tin của Thủ đô cũng như
thông tin các tỉnh tới bạn xem truyền hình. Hiện nay, việc thông tin tới khán


giả, cung cấp thơng tin nhanh chóng và hay tới khán giả cịn nhiều bất cập,
đơi lúc chưa thực sự nóng hổi. Với thế mạnh bề dày 60 năm hình thành và
phát triển của Đài so với các Đài khác trong việc thơng tin tới khán thính giả,
Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội đã cung cấp một lượng thơng tin lớn

cho khán giả xem truyền hình Thủ đơ cũng như các tỉnh lân cận. Tuy nhiên,
trong nhiều năm qua, việc phát triển của khoa học công nghệ cùng với sự ra
đời của nhiều Đài cũng như kênh truyền hình khác trong cả nước, việc cạnh
tranh gay gắt đưa thơng tin tới khán giả nhanh chóng đáp ứng như cầu thơng
tin của khán giả. Chính vì vậy , tổ chức sản xuất nhằm đạt tới mục tiêu thông
tin nhanh nhất tới khán giả mà vẫn đảm bảo chất lượng chương trình .
Riêng đối với cá nhân người viết khóa luận, nghiên cứu đề tài :”Tổ
chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở Đài Phát thanh – Truyền
hình Hà Nội hiện nay” là cơ hội tốt để qua thực tiễn trau dỗi nhuần nhuyễn
những tri thức chuyên ngành tiếp thu được từ giảng đường.
2.Tình hình nghiên cứu
Trước đây đã có một số đề tài nghiên cứu về chương trình thời sự trên
sóng truyền hình Hà Nội như : Các lỗi ngơn ngữ trong chương trình thời sự;
Tính trực tiếp của chương trình thời sự….. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên
cứu cách thức tổ chức sản xuất, vì vậy đề tài khóa luận này khơng bị trùng lặp
với các luận văn trước đó.
Cho đến nay, đã có một số tài liệu nghiên cứu liên quan nổi bật như:
- Cuốn sách“Vấn đề xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ở
Việt Nam hiện nay” tác giả Tạ Ngọc Tấn – Đinh Thị Xn Hịa có nội dung
trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và thực tiễn, luận án bổ sung, phát triển khung
lý thuyết về hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ; từ cơ sở


này dựng nên một bức tranh toàn diện, khái quát về thực trạng, làm rõ những
thành công, hạn chế của hoạt động xã hội hóa ở Việt Nam; dự báo xu hướng
phát triển và kiến nghị các giải pháp nhằm giải quyết hợp lý, có hiệu quả hoạt
động đó trong thời gian tới. Qua đây, cuốn sách cũng có đề cập đến hoạt động
tổ chức sản xuất chương trình truyền hình xã hội hóa
- Cuốn sách “Sản xuất chương trình truyền hình”, tác giả Trần Bảo
Khánh, NXB Văn hóa - Thông tin, H 2003 bước đầu đề cập đến khái niệm về

chương trình truyền hình cũng như các bước sản xuất chương trình truyền
hình. Tác giả Trần Bảo Khánh đã chia các thể loại của báo chí truyền hình
thành ba nhóm chính là : Nhóm hội thoại, nhóm tạo hình, nhóm các tác phẩn
TV Games show. Từ đó phân tích các thức tổ chức sản xuất của các nhóm
chương trình đó
- “Tổ chức sản xuất chương trình thời sự ở Đài PTTH Đồng Tháp”,
luận văn Thạc sỹ của tác giả Dương Thanh Thủy, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội 2005. Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức sản xuất chương
trình ở một đài địa phương, cách thức tổ chức và thực trạng xã hội rất khác
với Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội, nơi cung cấp thông tin cho dân cư
Thủ đô
- “Tổ chức sản xuất chương trình thời sự 19g - Đài THVN”, tác giả
Trịnh Thị Thanh Hoa, khóa luận tốt nghiệp Đại học, Học viện Báo chí và
Tun truyền, Hà Nội 2008. Khóa luận này đã nêu ra một số vấn đề mang tính
chất khai phá về tổ chức sản xuất. Nội dung chủ yếu : cách thức tổ chức và
sản xuất chương trình Thời sự ở Đài THVN, thực trạng về tổ chức cùng đánh
giá những thành cơng, hạn chế của chương trình này sau đó đưa ra những giải


pháp nhằm cải thiện và thúc đẩy sự phát triển của chương trình đến với cơng
chúng
- “Quy trình tổ chức sản xuất và lên sóng chương trình “Bản tin O2”
kênh O2TV Ban biên tập truyền hình Cáp - Đài THVN, khóa luận tốt nghiệp
Đại học báo chí, Học viện Báo chí và Tun truyền, Hà Nội 2009 có đề cập
đến cách thức tổ chức sản xuất một bản tin thời sự dạng chuyên đề ( hay
chuyên sâu) cụ thể là bản tin O2. Tuy nhiên bản tin O2 là một chương trình về
sức khỏe với tính chất và những u cấu mới nên quy trình sản xuất cũng sẽ
có những điểm khác biệt hồn tồn so với chương trình thời sự
- Luận văn Thạc sĩ “Hoạt động sản xuất chương trình truyền hình Cáp ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phú, Học viện báo chí tuyên

truyền 2005 cũng đề cập đến các chương trình xã hội hóa và quy trình tổ chức
sản xuất chương trình truyền hình tại Truyền hình Cáp Việt Nam
-Luận văn “Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình tại VIT
MEDIA” của tác giả Hồng Thị Nga, Học viện báo chí tun truyền 2012 .
Media là một đơn vị sản xuất kênh truyền hình theo hình thức xã hội hóa nên
cách thức tổ chức có nhiều điểm khác biệt giữa việc tổ chức sản xuất chương
trình tại kênh xã hội hóa do tư nhân sản xuất và kênh chính thống.
- Khóa luận tốt nghiệp đại học của Nguyễn Thanh Hà mang tên “Vấn
đề xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình” ( Khảo sát các chương
trình Đuổi hình bắt chữ, Hộp đen, Cơ hội 999 từ tháng 1 đến hết tháng 8 năm
2009) . Khóa luận này có nội dung chủ yếu là: một số chủ trương về xã hội
hóa sản xuất chương trình truyền hình ở Đài Phát thanh và truyền hình Hà
Nội. Khóa luận mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá một số thành công và hạn


chế của các chương trình trên, đưa ra một số giải pháp chung cho thúc đẩy xã
hội hóa chương trình truyền hình
- Năm 2011, học viên Nguyễn Đình Hải đã bảo vệ thành công luận văn
Thạc sĩ tại Học viện Báo chí tuyên truyền với tiêu đề “Vấn đề bảo đảm định
hướng chính trị trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả tiền.
Trong 3 chương của luận văn này, tác giả nêu lên một bức tranh khái qt về
q trình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ở Truyền hình Cap
Việt Nam.
-“Nâng cao chất lượng tin trong nước của Thông tấn xã Việt Nam:
Khảo sát hoạt động của Ban biên tập tin trong nước” – Trần Tiến Duẩn –
Người hướng dẫn: PGS.TS Đinh Văn Hường nêu rõ TXVN cần chú trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả cơ quan thông tấn nhà nước phát đi thông tin
gốc nhanh, chính xác, kịp thời, tin cậy, đúng quan điểm trên tất cả các lĩnh
vực, đáp ứng ngày càng cao, ngày càng đa dạng của các cơ quan truyền thông,
của công chúng, nhu cầu nghiên cứu, tham khảo của cán bộ lãnh đạo và quản

lý các cấp.
Đó là một số cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về cơng tác tổ chức sản
xuất chương trình truyền hình ở một số đài truyền hình ở Việt Nam. Chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong tổ chức
sản xuất chương trình thời sự ở Đài PTTH Hà Nội - một Đài truyền hình ở vị
trí có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội phát triển đặc biệt trong cả
nước. Đó chính là khoảng trống cần nghiên cứu.. Vì vậy, tơi đã chọn đề tài
“Tổ chức sản xuất chương trình Thời sự truyền hình hiện nay tại đài Phát
thanh – Truyền hình Hà Nội” để nghiên cứu, với mong muốn có một sự đóng
góp phù hợp trong q trình tìm hướng phát triển cho vấn đề thực hiện sản


xuất chương trình thời sự của Đài phát thanh truyền hình Hà Nội. Trong luận
văn, tơi sẽ kế thừa những ý tưởng khai phá của những nhà nghiên cứu đi trước
và coi đó là tiền đề lý luận và thực tiễn để triển khai đề tài nghiên cứu của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
nghiên cứu; khảo sát thực tiễn, chỉ ra thực trạng việc tổ chức sản xuất chương
trình thời sự ở Đài PTTH Hà Nội hiện nay, thành công, hạn chế, nguyên nhân
của những hạn chế trong công tác tổ chức sản xuất; từ đó đưa ra những giải
pháp và kiến nghị phù hợp góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả
việc tổ chức sản xuất chương trình thời sự của Đài PTTH Hà Nội trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
sau:
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận trog việc tổ chức sản xuất chương
trình truyền hình nói chung, tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình

nói riêng (khái niệm; vai trò của hoạt động tổ chức sản xuất chương trình
truyền hình; yêu cầu trong tổ chức sản xuất chương trình truyền hình.
Hai là, khảo sát, nghiên cứu hoạt động tổ chức sản xuất chương trình
truyền hình ở Đài PTTH Hà Nội hiện nay, đặt trong sự so sánh với việc tổ
chức sản xuất trước kia của Đài và so sánh với các Đài khác, từ đó chỉ rõ thực
trạng, thành công và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế của hoạt động
tổ chức sản xuất chương trình truyền hình của Đài PTTH Hà Nội hiện nay.


Ba là, đề xuất giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả việc tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình của Đài
PTTH Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu về hoạt động tổ chức
sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở Đài PTTH Hà Nội.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Hoạt động tổ chức sản xuất chương trình Thời sự Đài Phát thanh –
Truyền hình Hà Nội của 1 số bản tin ở những khung giờ tiêu biểu
- Các nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý, các phóng viên của Đài
Phát thanh truyền hình Hà Nội nói chung và ở ban Thời Sự nói riêng.
- Khán giả truyền hình - đặc biệt là dân cư của khu vực Hà Nội,những
người đón nhận và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các chương trình được sản
xuất bởi Đài PT-TH Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là các quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
Nhà nước và các chủ trương, định hướng của ngành giáo dục về công tác báo
chí; một số lý thuyết về báo chí nói chung và báo chí truyền hình nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi sử dụng kết hợp một số phương
pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phương pháp này được sử dụng nhằm khái quát, hệ thống hóa, bổ sung
mặt lý thuyết về cách thức sản xuất truyền hình nói chung, sản xuất chương trình


thời sự Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội nói riêng. Đây chính là những lý
thuyết cơ sở đánh giá các kết quả khảo sát thực tế và đưa ra những giải pháp
khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê:
Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định xem chương trình thời
sự cũng như các chương trình khác của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội
sản xuất như thế nào. Cách thức sản xuất và phương pháp này dựa chủ yếu
vào việc tác giả phải lưu giữ, xem lại các chương trình liên quan đến vấn đề
khảo sá
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, khảo sát việc tổ chức
sản xuất chương trình thời sự của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội trong
thời gian quan.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Phương pháp này nhằm khảo sát thực trạng tiếp nhận thông tin từ bản
tin thời sự của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nơi.
+ Tác giả phát phiếu trưng cầu ý kiến ngẫu nhiên cho 500 người tại Hà
Nội. Cụ thể: Người dân (Quận Ba Đình); Người dân (Quận Cầu Giấy);
Trường Đại học Ngoại Thương (Quận Ba Đình); Người dân (Quận Thanh
Xn), Cơng ty cổ phần dịch đánh giá rattinh. Tuy nhiên qua khảo sát, tác giả
chỉ sử dụng trên 405 phiếu thu về để phân tích các nội dung nghiên cứu của
đề tài bởi 405 phiếu này là những cá nhân có xem các chương trình thời sự

trên Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội và như vậy sẽ có những đánh giá
chính xác về các chương trình trên kênh H1. Do đó dung lượng mẫu sử dụng
để nghiên cứu trong đề tài này là: 405 phiếu.
+ Mẫu theo tuổi: Trên 50 tuổi (198 phiếu); dưới 50 tuổi (207 phiếu)


+ Mẫu theo độ giới tính: Từ 15 - 18 tuổi: 200 phiếu (nhóm thày thuộc;
từ 19 - 25 tuổi: 205 phiếu .
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được thực hiện dự kiến với 01 Lãnh đạo Ban, 05 phóng
viên, 03 chuyên gia và một số khán giả nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá
nhân xung quanh vấn đề tổ chức thực hiện chương trình thời sự của Đài Phát
thanh và Truyền hình Hà Nội.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là cơng trình nghiên cứu tập trung vào việc hệ thống hóa và phân
tích một cách cụ thể về vai trò, ý nghĩa, sự tác động của việc tổ chức sản xuất
chương trình thời sự truyền hình tới chất lượng một chương trình. Luận văn
nghiên cứu thành cơng sẽ góp phần làm phong phú thêm những tri thức về
truyền hình nói chung, về tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình
nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đi vào nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề nâng cao chất
lượng chương trình thời sự của Đài PT –TH Hà Nội thông qua việc cải tiến
hoạt động tổ chức sản xuất chương trình của Đài. Việc nghiên cứu tập trung
phân tích thực trạng việc đầu tư trang thiết bị, quy trình sản xuất cũng như
nâng cao trình độ con người nhằm tạo ra những chương trình thời sự có khả
năng cạnh tranh với chương trình của các đài truyền hình khác.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn này có thể là gợi ý tham khảo
cho những người đang trực tiếp tham gia tổ chức sản xuất chương trình thời

sự ở Đài PT – TH Hà Nội nói riêng và các đài truyền hình khác nói chung.


Bên cạnh đó, tác giả hi vọng luận văn cịn là tài liệu tham khảo hữu ích
phục vụ cho việc học tập nghiên cứu của sinh viên chuyên ngành báo chí và
những ai quan tâm đến đề tài này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
phần nội dung chính của khoá luận được kết cấu làm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tổ chức
sản xuất chương trình thời sự truyền hình
Chương 2: Thực trạng tổ chức sản xuất chương trình thời sự của Đài
Phát thanh và Truyền hình Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp đổi mới việc tổ chức sản xuất nhằm nâng
cao chất lượng chương trình thời sự ở Đài PTTH Hà Nội


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH
1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1. Khái niệm về chương trình truyền hình
1.1.1. Khái niệm về truyền hình
Hiện nay có nhiều khái niệm, quan niệm về truyền hình. Theo Giáo
trình báo chí truyền hình của PGS.TS. Dương Xn Sơn:
Thuật ngữ truyền hình (television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và
tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “tele” có nghĩa là “ở xa” cịn “videre” là
“thấy được”, còn tiếng Latinh nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại
thành “televidere” có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “television”, tiếng

Pháp là “télévision”,.. Như vậy, dù phát triển ở bất cứ đâu, ở quốc gia nào thì
tên gọi truyền hình cũng có chung một nghĩa là nhìn được từ xa [Error:
Reference source not found, tr. 13].
PGS.TS Tạ Ngọc Tấn trong cuốn Truyền thông đại chúng nêu:
Truyền hình là một loại hình phương tiện truyền thơng đại chúng chuyển tải
thơng tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô
tuyến truyền hình (television) bắt nguồn từ hai từ tele có nghĩa là “ở xa” và
vision là “thấy được”, tức là “thấy được ở xa” [Error: Reference source not
found]
Trong cuốn Thuật ngữ truyền thông, tác giả Phạm Thành Hưng, tác
giả đưa ra định nghĩa: Truyền hình là hệ thống kỹ thuật, chuyển hình ảnh,
tiếng động đi xa qua tín hiệu truyền hình và được tiếp nhận trực tiếp qua màn
huỳnh quang. Chức năng truyền thơng của đài truyền hình là sáng tạo và


truyền phát các chương trình truyền hình [Error: Reference source not found,
tr.220].
Các định nghĩa trên đều xác định phương tiện ngơn ngữ của truyền hình
là hình ảnh và âm thanh. Đây chính là đặc trưng của truyền hình. Thực chất
cội nguồn trực tiếp của truyền hình là điện ảnh. Chính điện ảnh đã cung cấp
cho truyền hình những ý tưởng, gợi ý đầu tiên về một phương thức truyền
thông cũng như một kho tàng phương tiện biểu hiện phong phú, có sức thuyết
phục mạnh mẽ, làm cơ sở cho truyền hình có thể thích ứng nhanh chóng với
những kỹ thuật đặc trưng của mình.
Về kỹ thuật, truyền hình được hoạt động theo ngun lí cơ bản sau:
hình ảnh về sự vật được máy ghi hình biến đổi thành tín hiệu điện trong đó
mang thơng tin về độ sáng tối, màu sắc. Đó là tín hiệu hình (tín hiệu video).
Sau khi được xử lý, khuếch đại, tín hiệu hình được truyền trên song truyền
hình nhờ máy phát song hoặc hệ thống dây dẫn. Tại nơi nhận, máy thu tiếp
nhận tín hiệu rồi đưa đến đèn hình để biến đổi ngược từ tín hiệu hình thành

hình ảnh trên màn hình. Phần âm thanh cũng được thực hiện theo nguyên lí
tương tự như vậy để đưa ra loa.
Có nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau, nhưng tựu chung lại
truyền hình hiểu theo nghĩa gốc, đơn giản nhất chính là thấy được từ xa.
Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc. Truyền hình trở thành vũ khí, cơng cụ sắc bén trên mặt
trận tư tưởng văn hóa cũng như trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Sự ra đời của
truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông đại chúng càng thêm
đa dạng, khơng chỉ tăng về số lượng mà cịn tăng về chất lượng.
1.1.2. Khái niệm về chương trình truyền hình
Theo cuốn Truyền thơng đại chúng PGS.TS.Tạ Ngọc Tấn, chương
trình truyền hình được hiểu như sau:


Thuật ngữ chương trình truyền hình thường được sử dụng trong hai
trường hợp. Trường hợp thứ nhất, người ta dùng chương trình truyền hình để
chỉ tồn bộ nội dung thơng tin phát đi trong ngày, trong tuần hay tháng của
mỗi kênh truyền hình hay của cả đài truyền hình. Trường hợp thứ hai, chương
trình truyền hình dùng để chỉ một hay nhiều tác phẩm hoàn chỉnh hoặc kết
hợp với một số thông tin tài liệu khác được tổ chức theo một chủ đề cụ thể với
hình thức tương đối nhất quán, thời lượng ổn định và được phát đi theo định
kỳ [Error: Reference source not found, tr.142]
Trong Giáo trình báo chí truyền hình, PGS.TS. Dương Xn Sơn
đưa ra khái niệm cụ thể hơn về chương trình truyền hình như sau: Chương
trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp, bố trí hợp lý các tin bài, bảng biểu, tư
liệu bằng hình ảnh và âm thanh được mở đầu bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu,
kết thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan
báo chí truyền hình nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho khán giả [Error:
Reference source not found, tr.113]
Theo tác giả G.V Cudơnhetxốp, X.L Xvích, A.la. Iurốpxi: “Truyền hình

là một sản phẩm định kỳ, chứa đựng những tác phẩm chính luận, nghệ thuật
hoặc khoa học (hàng tuần, hàng tháng), trong đó dưới cùng một đầu đề, người
ta tập hợp các tài liệu về các đề tài khác nhau”.
Chương trình là tồn bộ những nội dung dự kiến hành động theo một
trình tự và thời gian nhất định, hay còn được định nghĩa là một loạt các hoạt
động được thực hiện với sự hỗ trợ của các nguồn lực nhằm đạt được những
mục tiêu cụ thể cho các nhóm khách hàng, nhóm đối tượng đã được định sẵn.
Trong truyền hình, mọi tin, bài để đến với công chúng đều phải được tổ
chức, sắp xếp theo một trật tự nhất định nhằm tạo điều kiện cho người xem dễ
đang theo dõi, tiếp nhận thông tin, đồng thời tạo cho chương trình truyền hình
cói một cấu trúc ổn định, hồn chỉnh, đó là các format chương trình. Việc sắp


xếp, tổ chức ấy sau cùng tạo nên chương trình truyền hình. Như vậy, có thể
hiểu chương trình truyền hình là cách thức sắp xếp, tổ chức những thông tin
theo một trật tự nhất quán nhằm truyền tải thông tin đến khán giả hiệu quả
nhất.
Có thể thấy, các yếu tố tin, bài, tư liệu, hình ảnh,… đều là những bộ
phận quan trọng tạo nên một cấu trúc truyền hình phức tạp hơn – là các
chương trình truyền hình. Dựa trên nhiệm vụ tuyên truyền và đối tượng công
chúng tiếp nhận thơng tin, ta có thể thấy các chương trình truyền hình được
phát sóng hàng ngày hay hàng tuần như: Thời sự, Chuyên đề; Khoa giáo,
Giao lưu – Tọa đàm, phim truyện,… được phân bổ theo từng khung thời gian
trong kênh truyền hình hoặc theo các kênh truyền hình.
Một chương trình truyền hình được phát sóng là sản phẩm của một
tập thể, hồn chỉnh, thống nhất về hình thức và nội dung thể hiện, được xâu
chuỗi một cách hợp lý, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của công chúng, đồng thời
truyền tải trọn vẹn mục đích ý tưởng sáng tạo của nhà truyền thơng bằng
phương tiện truyền hình.
Các tác phẩm báo chí truyền hình thể hiện bản lĩnh chính trị, năng

lực và trách nhiệm xã hội của phóng viên. Uy tín, ảnh hưởng của một đài
truyền hình trước hết được quy định bởi khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện
những vấn đề nổi cộm, có ý nghĩa và phản ánh kịp thời, chân thực tới cơng
chúng, góp phần nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết và định hướng tư
tưởng cho cơng chúng.
Chương trình truyền hình là chương trình tổng hợp của nhiều loại
chương trình đề cập đến mọi mặt của cuộc sống như các vấn đề chính trị kinh tế - văn hóa xã hội, an ninh, quốc phịng,…. Chất lượng của một chương
trình truyền hình được đánh giá một phần dựa trên mức độ thu hút sự quan


tâm của khán giả đối với chương trình đó và mức độ đạt được mục đích của
những người làm chương trình.
Thực tế cho thấy, bất cứ một chương trình truyền hình nào cũng hàm
chứa những giá trị tư tưởng, văn hóa đặc thù của mỗi dân tộc, quốc gia, giai
cấp hay tầng lớp xã hội cụ thể. Những giá trị này được phóng viên khơng
những truyền tải qua nội dung mà còn biểu hiện cả trong phương pháp sáng
tạo và hình thức thể hiện của mỗi tác phẩm, cũng như cách thức tổ chức xây
dựng chương trình truyền hình.
Ngày nay để đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của khán giả, các
truyền hình trung ương cũng như địa phương đã không ngừng đổi mới, nâng
cao chất lượng các chương trình truyền hình theo hướng phong phú, đa dạng
và chuyên sâu hơn.
Việc sắp xếp các chương trình trong ngày hay tuần cũng được các
Đài truyền hình cân nhắc kỹ lưỡng, bố trí sao cho tạo được sự thu hút liên tục
đối với cơng chúng. Để làm được điều này thì việc nghiên cứu cơng chúng –
đối tượng của chương trình đó phải được đầu tư thực hiện một cách bài bản
nhằm xây dựng được các chương trình truyền hình thu hút người xem và xác
định được giờ phát sóng phù hợp đối với từng đối tượng người xem.
Sự cạnh tranh về thông tin đã dẫn đến cuộc đua tăng kênh, tăng thời
lượng phát sóng của các đài truyền hình. Điều này được thể hiện rất rõ qua

việc hợp tác trao đổi chương trình giữa các đài trong nước với nhau cũng như
trao đổi, hợp tác sản xuất, khai thác các chương trình truyền hình với các đài
nước ngồi để đảm bảo sản xuất chương trình đa dạng, phục vụ phát sóng và
nhu cầu thơng tin đến khán giả xem đài.
1.2. Khái niệm về chương trình thời sự truyền hình
1.2.1. Khái niệm về chương trình thời sự


Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản
Đà Nẵng 1998: “Thời sự là tổng thể nói chung những sự việc ít nhiều quan
trọng trong một lĩnh vực nào đó, thường là xã hội – chính trị, xảy ra trong thời
gian gần nhất và đang được nhiều người quan tâm” [Error: Reference source
not found, tr.923].
Trong cuốn Báo chí truyền hình, nhóm tác giả G.V.Cudơnhetxốp,
X.L.Xvich, A.la.Iurốpxki đã nêu: “Chương trình thời sự” đơn giản giống như
một bản tin trên báo, thông báo các sự việc, hơn nữa, đó là những sự việc
được phân tích, khái qt,… Trên thực tế, chủ đề của bản tin là không giới
hạn: nông nghiệp, nghệ thuật, kinh doanh, sáng chế, các sự kiện trong đời
sống quốc tế,..” [Error: Reference source not found, tr83-84].
Như vậy, có thể hiểu, “chương trình thời sự” là chương trình chuyển
tải một cách nhanh chóng, kịp thời những thông tin về các sự kiện, vấn đề
quan trọng đang diễn ra và được nhiều người quan tâm.
1.2.2. Khái niệm về chương trình thời sự truyền hình
Chương trình thời sự truyền hình là một khái niệm khó có thể đưa
ra một định nghĩa cụ thể bởi nó có nội dung cũng như hình thức thể hiện
tương đối phong phú, do vậy, cách hiểu thế nào là một chương trình thời sự
truyền hình cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Theo cá nhân tác giả, dựa trên
cách hiểu về chương trình thời sự như đã phân tích ở trên, cùng với thực tiễn
làm việc tại Đài phát thanh truyền hình Hà nội thời gian qua, tác giả quan
niệm về chương trình thời sự truyền hình như sau: chương trình thời sự truyền

hình là một chương trình truyền hình được phát sóng định kỳ; có thời lượng
ổn định; được kết cấu bởi các thể loại: tin, phóng sự, phỏng vấn, tường thuật
trực tiếp,..; thông tin về các sự kiện, phản ánh phân tích, nhận định kịp thời về
những vấn đề có ý nghĩa xã hội mới xảy ra, đang và sẽ xảy ra được nhiều


người quan tâm, với phạm vi phản ánh không giới hạn, những diễn biến sự
kiện có thể xảy ra trong nước, ngồi nước.
Chương trình thời sự trong nước: bên cạnh các yếu tố của một
chương trình thời sự truyền hình kể trên, chương trình thời sự trong nước có
điểm đặc trưng là các thông tin, sự kiện, vấn đề phản ánh bó hẹp trong phạm
vi quốc gia, dân tộc đó.
Chương trình thời sự quốc tế: Khác với thời sự trong nước, chương
trình thời sự quốc tế lại có điểm khác biệt là phản ánh thông tin, sự kiện được
chú ý xảy ra trên phạm vi tồn thế giới.
Chương trình thời sự truyền hình địa phương: Là một phần khơng
thể thiếu trong nền báo truyền hình của cả quốc gia. Địa phương có thể hiểu là
một đơn vị lãnh thổ xác định về mặt không gian, một bộ phận của quốc gia
thống nhất. Do đó, chương trình thời sự truyền hình địa phương có phạm vi
chủ yếu là phản ánh những thông tin thời sự chủ yếu giới hạn trong địa giới
hành chính của từng địa phương cụ thể. Đây là đặc điểm quan trọng chi phối
các yếu tố cấu thành một chương trình thời sự truyền hình của địa phương.
Nước ta hiện có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa
phương; trong đó có 02 đài quốc gia, 01 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 đài
phát thanh, truyền hình địa phương. Có thể thấy, sự phát triển và sức ảnh
hưởng của các đài địa phương trong sự nghiệp báo chí nói chung và đời sống
kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương là khơng thể phủ nhận. Đài truyền
hình địa phương là cơ quan ngơn luận của cấp ủy chính quyền tỉnh, thành
phố, là diễn đàn của nhân dân. Chương trình thời sự truyền hình địa phương
trước hết phải bám sát tình hình kinh tế, chính trị và các vấn đề xã hội đang

diễn ra tại địa phương mình, nắm rõ nhu cầu thơng tin của người dân, từ đó
xây dựng chương trình có nội dung chân thực, phong phú cũng như hình thức
phù hợp với đơng đảo khán giả xem truyền hình. Nhờ đó, cũng góp phần đưa


các chủ trương chính sách, nhiệm vụ phát triển của từng địa phương, phù hợp
với chủ trương chung của cả nước tới người dân một cách hiệu quả hơn.
Thực tế tùy theo năng lực và nhiệm vụ tuyên truyền của mỗi đài
truyền hình địa phương, chương trình thời sự truyền hình sản xuất mỗi ngày
cũng khác nhau về số lượng, thời lượng, tính phong phú về nội dung cũng
như khả năng việc mở rộng địa bàn phản ánh sự kiện,… sẽ được xây dựng
khác nhau. Nhìn chung, với sự phát triển hiện nay, chương trình truyền hình
địa phương có mức độ phủ sóng khơng chỉ trên địa bàn địa phương mình mà
người dân tại các địa phương khác cũng có thể xem các chương trình truyền
hình của địa phương đó. Như vậy có thể thấy ý nghĩa quan trọng của chương
trình truyền hình địa phương nói chung cũng như chương trình thời sự địa
phương nói riêng đối với khán giả xem đài.
* Phân biệt bản tin thời sự và chương trình thời sự
Các tác giả G.V.Cudơnhetxốp, X.L.Xvich, A.la.Iurốpxki trong cuốn
Báo chí truyền hình cho rằng: Bản tin ngắn, đó là thể loại chung của báo chí,
được sử dụng trên các ấn phẩm, trên đài phát thanh, trên đài truyền hình.
Nhiều khi người ta còn gọi bản tin thời sự là bản tin ngắn. Bản tin thời sự là
sự ghi lại những sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian. Trong báo chí, thể loại
thời sự là thơng tin ngắn về sự việc. Vậy nên bản tin ngắn và bản tin thời sự
trở nên đồng nghĩa. Trong truyền hình, thể loại ấy gồm bản tin được phát
bằng lời và bản tin bằng hình ảnh … Cịn đối với những người làm truyền
hình thì họ thường sử dụng tên gọi “bản tin” (khi nói đến mọi tin tức thời sự,
kể cả bản tin được phát bằng lời) [Error: Reference source not found, tr.2122]
Xét ở qui mơ thì bản tin thời sự phản ánh những thơng tin thời sự nóng
hổi, thời lượng ngắn hơn so với chương trình thời sự. Nếu như trong các bản

tin, lượng thông tin chỉ được giới hạn trong một phạm vi lĩnh vực thì trong


các chương trình thời sự thơng tin có tầm vóc rộng hơn và phong phú hơn bởi
tính đa chiều. Tuy có khối lượng tập trung lớn nhưng trong các chương trình
thời sự, thơng tin được sắp xếp, bố trí một cách cân đối, thống nhất từng phần
từng nhóm theo thứ tự nhất định. Mỗi phần, mỗi nhóm như vậy chính là bản
tin hay một chuyên mục thời sự và xen giữa chúng là một số thể loại phản ánh
khác.
Như vậy, nếu chỉ dựa vào khái niệm, quan niệm thì bản tin thời sự
và chương trình thời sự khơng có sự khác biệt lớn. Tuy nhiên, từ thực tế làm
việc có thể thấy một số sự khác nhau cơ bản phân biệt 2 khái niệm này đó là
bản tin thời sự có thời lượng ngắn và được kết cấu chủ yếu bằng các tin ngắn,
phóng sự ngắn.

Trong khi đó, chương trình thời sự thường được kết cấu

bởi nhiều thể loại và hình thức thể hiện hơn: tin (tin ngắn, tin tường thuật, tin
sâu); phóng sự (phóng sự sự kiện, phóng sự điều tra,..); phỏng vấn trực tiếp,
cầu truyền hình trực tiếp,… Ngồi ra nếu mục đích cơ bản của bản tin thời sự
là truyền tải thông tin, phản ánh nhanh kịp thời về các sự kiện, vấn đề mới
đang nổi cộm thì chương trình thời sự cịn đưa ra những phân tích, bình luận
chun sâu về các vấn đề, sự kiện đó.
2.Tổ chức sản xuất
Theo Từ điển Tiếng Việt, tổ chức là việc sắp xếp, bố trí thành các bộ
phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung
[31,tr.157]
Tổ chức với nghĩa động từ được hiểu theo nghĩa sau:
_ Sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ
hoặc một chức năng chung

_Sắp xếp, bố trí để làm cho có trật tự, nề nếp
_Tiến hành một cơng việc theo cách thức, trình tự


Tổ chức hiểu theo nghĩa thông thường là liên kết nhiều người lại để
thực hiện một công việc nhất định. Tổ chức đặt ra để thực hiện nhiệm vụ. Mỗi
tổ chức đều có mục đích, nhiệm vụ riêng
Cũng theo Từ Điển Tiếng việt, sản xuất là tạo ra vật phẩm cho xã hội
bằng cách dùng tư liệu lao động tác động và đối tượng lao động [31,tr.342] là
hoạt động bằng sức lao động của con người hoặc máy móc, chế biến các
nguyên liệu thành của cải vật chất cần thiết.
Sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong các
hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử
dụng, trao đổi trong thương mại
Nếu coi sản xuất là một quá trình thì tổ chức sản xuất là các biện pháp,
các phương pháp, các thủ thuật để duy trì mối liên hệ và phối hợp hoạt động
của các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia vào quá trình sản xuất đó một
cách hợp lý theo thời gian.
Nếu coi sản xuất là một trạng thái thì tổ chức sản xuất là các phương
pháp , các thủ thuật nhằm hình thành các bộ phận sản xuất có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau và phân bổ chúng một cách hợp lý về mặt không gian.
Muốn tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm, đầu tiên cần phải phân chia quá
trình sản xuất tạo nên sản phẩm thành các quá trình riêng. Căn cứ vào phương
pháp, kĩ năng khác nhau, dựa trên lao động máy móc sẽ hình thành nên loại
hình sản xuất, cơ cấu sản xuất, lập kế hoạch sản xuất và tổ chức công tác điều
độ sản xuất.
Như vậy, tổ chức sản xuất là tạo ra những gì cần thiết để liên kết nhân
sự, các quy trình lao động để tạo ra vật phẩm, đáp ứng nhu cầu thiết thực cho
xã hội, bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động,
trên cơ sở quy tắc nghề nghiệp và theo quy trình nhất định. Thực chất của quá

trình tổ chức sản xuất là việc phân chia quá trình sản xuất phúc tạp thành các


q trình thành phần (tức là các bước cơng việc), trên cơ sở đó áp dụng những
hình thức cơng nghệ, các biện pháp phân công lao động và các phương tiện,
cơng cụ lao động thích hợp. Trong q trình đó tìm biện pháp phối hợp hài
hịa giữa các bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất để nhằn mục đích đạt
hiệu quả cao nhất.
Bất kì hoạt động sản xuất nào nhằn phục vụ đời sống của con người
đều cần có cách tổ chức sản xuất hiệu quả: Từ khâu lựa chọn đầu vào sử dụng
máy móc, trang thiết bị nào, trình độ lao động ra sao để phù hợp với yêu cầu
công nghệ, lãnh đạo tổ chức phân công lao động như thế nào cho hợp lý theo
không gian và thời gian sao cho hoạt động sản xuất đạt dược mục tiêu đề ra
với hiệu quả cao nhất. Tổ chức sản xuất có vai trị quyết định đến hiệu quả
của quá trình sản xuất.
3. Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình
Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình là sự chia nhỏ rồi liên kết
một cách hợp lý đội ngũ nhân sự cùng các trang thiết bị truyền hình đi kèm và
nội dung thơng tin, trên cơ sở các quy tắc nghề nghiệp và theo quy trình nhất
định để tạo ra sản phẩm là chương trình phát sóng.
Tùy vào thể loại chương trình mà có cách tổ chức khác nhau.
Hiện nay , chương trình truyền hình được phân chia thành các laoij
chương trình truyền thơng: chương trình bằng điện tử chương trình phát trực
tiếp.
Chương trình truyền hình trực tiếp thực hiện ở các sự kiện mà ngay thời
điểm mà nó xảy ra, ở bất kì nơi nào. Chương trình trực tiếp được sản xuất dựa
trên sự phát triển nhanh của cơng nghệ. Giá thành của loại chương trình này
rất cao, địi hỏi có sự chuẩn xác lớn,nhân sự chun nghiệp.Vì vậy chỉ những
chương trình lớn, tiêu biểu, có ý nghĩa mới được lựa chọn làm trực tiếp. Để
làm được chương trình này, nhà báo cần phải chuẩn bị kĩ về kịch bản, quan



sát hiện trường, dự kiến các tình huống có thể xảy ra ngồi kịch bản. Việc ổ
chức chương trình truyền hình trực tiếp địi hỏi sự tập trungcao của đội ngũ
sản xuất, kịch bản, nội dung phải được duyệt chặt chẽ trước đó, nhằm đảm
bảo sai sót khi lên hình.Tất cả các bộ phận làm chương trình phải kết hợp
nhuần nhuyễn với nhau.
Chương trình sản xuát qua băng tử là loại chương trình thường
xun , phơ biến nhất tại các kênh truyền hình.Cách sản xuất mất thời gian, sự
việc, hiện tượng được thong tin chậm hơn so với thời gian diễn ra. Nhờ vậy
người làm chương trình bớt căng thăng hơn so với làm chương trình truyền
hình trực tiếp và có thời gian dể chau chuốt, sửa chữa chương trình hơn.Việc
tổ chức chương trình truyền hình dạng này nhẹ nhàng hơn so với làm chương
trình truyền hình trực tiếp, nhưng vẫn phải đảm bảo các yếu tố về nội dung, kĩ
thuật,…
Trong cuốn “Sản xuất chương trình truyền hình”, tác giả Trần Bảo
Khánh đã chia các thể loại của báo chí truyền hình thành 3 nhóm:Nhóm hội
thoại, nhóm tạo hình, nhóm các tác phẩm TV Game-show.
Nhóm chương trình theo dạng hội thoại có hình thức thong tin chủ
yếu là lời nói, nghệ thuật tạo hình khơng đặc sắc lắm, bao gồm các thể lạo
như phỏng vấn, bình luận , đàm luận, phát biểu trên truyền hình.
Nhóm chương trình theo dạng tạo hình rất phổ biến, có dung lượng
thong tin lớn ở hình ảnh .Chương trình dạng này trực tiếp ghi hình ở hiện
trường có sức hút lớn với khán giẻ.hình ảnh nội dung phong phú tránh gây
cảm giác nhàm chán.
Nhóm các tác phẩm tv Game-show kết hợp vói nhóm hội thoại và
tạo hình nó có đặc điểm là tính trực tiếp ,yếu tố ganh đua của khán giả truyền
hình và tính bất ngờ.



Mỗi thể loại truyền hình lại có cách tổ chức riêng. Mặc dù nội dung
chương trình là khác nhau ( gồm nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn
hóa, thể thao….) nhưng quá trình tổ chức sản xuất đều phải tuân theo một quy
trình chung nhất định.
3.1. Các yếu tố cấu thành tổ chức sản xuất chương trình truyền
hình trực tiếp.
Hoạt đọng tổ chức chương trình truyền hình bao gồm các yếu tố sau:
-Tổ chức nhân sự.
-Tổ chức hệ thống máy móc trang thiết bị
-tổ chức sản xuất nội dung thơng tin.
Cũng như mọi q trình tạo ra sản phẩm khác, việc tạo ra một chương
trình truyền hình phải có yếu tố đầu vào, đầu ra, các trang thiết bị, khoa học
công nghệ và nhân sự được sử dụng để tạo ra sản phẩm.
3.1.1. Tổ chức nhân sự.
Nhân sự được biểu hiện là người làm cơng việc nào đó ở cơ quan hoặc
một nơi có tổ chức. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều gắn liền với hình thức
sản xuất nhất định.Một doanh nghiệp dù có nguồn tài chính dồi dào, nguồn tài
nguyên phong phú, hệ thong thiết bị hiện đại đi chăng nữa cũng sẽ trở nên vơ
ích nếu khơng biết hoặc sử dụng kém nguồn tài nguyên nhân sự.
Việc tổ chức nhân sự bao gồm các nội dung sau:
-Phân tich công việc .
-Tuyển dụng nhân sự.
-Đào tạo và nâng cao năng lực cho nhân sự.
-Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động thông qua sủ dụng hệ thong kích
thích vật chất tinh thần đối với nhân sự.


Tổ chức nhân sự gắn iền với tổ chức , bất kì cơ quan nào doanh
nghiệp nào hình thành hoạt động đều phải có kế hoạch tổ chức nhân sự mức
đọ phức tạp phụ thuộc vào loại hình cơng việc.

Nhân sự của một ekip thực hiện chương trình truyền hình có nhiều bộ
phận:bộ phận kĩ thuật (âm thanh ,ánh sang, thiết kế…),bộ phận sản xuất(nhà
sản xuất, quản kí sản xuất,…).
Một chương trình truyền hình khơng phải là sản phẩm của cá nhân
nào mà là sản phẩm của tập thể.Đây là điểm khác biệt so với tác phẩm báo
in ,báo mạng.Người làm báo in ,báo mạng có thể độc lập đi viết bài, chụp ảnh
biên tập nộp cho người duyệt bài.Còn để sang tạo chương truyền hình thì càn
có nhiều khâu. Mỗi khâu cần có sự ham gia của một bộ phận nhân sự
như:biên tập, quay phim,kĩ thuật…Mỗi nhân sự trong quy trình sản xuất có
chun mơn riêng nhưng đều phải hướng tới chương trình chung.Nhân sự
trong một kênh truyền hình bao giờ cũng phức tạp cồng kềnh hơn so với các
tịa soạn báo thuộc những loại hình báo chí khác.Chi phi cho nhân sự cũng tốn
kém.
Việc tổ chức nhân sự hết sức quan trọng trong việc tổ chức sản xuất
chương trình truyền hình nói riêng và trong hoạt động các cơ quan báo chí nói
chung.Người làm báo được xem là nhân vật của các cơ quan báo chí và việc
tổ chức và quản lí để đào tạo và sử dụng tài năng hợp lí là chuyện đáng bàn.
Đã làm nghề thì phải được đào tạo.
Mỗi cơ quan sản xuất chương trình truyền hình có tổ chức nhân sự
khác nhau có thể phân theo ban: ban chuyên đề, ban thơi sự , ban giải trí,…
hoặc phải theo tính chất nội dung thơng tin:phịng kinh tế, phịng thể thao,
phịng thơng tin,…Việc tổ chức nhân sự vào các phòng ba tùy thuộc vào năng
lực của từng người.Thực tế có những người làm chương trình truyền hình rất


×