Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.97 KB, 17 trang )

lOMoARcPSD|10804335

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ
VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện:
Mã SV:
Số thứ tự: 70
Lớp tín chỉ: TRI114E.
Giảng viên hướng dẫn:
Hà Nội – 11/2021

1
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

A .MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………….3
B. NỘI DUNG……………………………………………………………………...4
I. CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái quát về phép biện chứng duy vật………………………………………4
2. Nội dung biện chứng về mối liên hệ phổ biến……………………………….4
2.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến……………………………………....4
2.2. Tính chất của các mối liên hệ……………………………………………5


2.3. Ý nghĩa của phương pháp luận…………………………………………..6
II. CHƯƠNG II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN KINH
TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI VẤN ĐỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Lý luận chung về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế …………………………………………………………………..7
1.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ……………………………………..7
1.2. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế……………......……..……………….7
1.3. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế hiệu
quả………………………………………………………………………………..8
2. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế ở nước ta hiện nay……………………………………………………….9
2.1. Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
ở nước ta hiện nay……………………………………………………………...9
2.2. Một số giải pháp, kiến nghị………………………………………...…….13
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………………16
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………17

2
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

A.MỞ ĐẦU
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, xu thế tồn cầu hố và khu vực hố ngày
càng trở nên rõ nét và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với
các quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển. Ở Việt Nam,
thuật ngữ hội nhập xuất hiện trong bối cảnh nước ta thúc đẩy mạnh mẽ chính sách
mở cửa, đa dạng hố và đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế.
Thuật ngữ hội nhập bắt đầu được Đảng ta sử dụng đầu tiên trong Văn kiện Đại hội

VIII của Đảng (1996): ''Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế
giới''; Đến Đại hội IX của Đảng, thuật ngữ này được nhấn mạnh: ''Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa...'' và được sử dụng phổ biến trong các văn kiện khác về hội nhập kinh tế
quốc tế. Đây cũng là quan điểm, chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội
nhập của Đảng và Nhà nước ta.
Trong bối cảnh hiện nay, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ
động hội nhập là hoàn tồn đúng đắn. Hai vấn đề này có mối liên hệ biện chứng
với nhau, hỗ trợ nhau nhằm phát triển kinh tế Việt Nam theo nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, tơi chọn đề tài: ‘Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận
dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế’.
Vậy phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến là gì, việc xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ có mối quan hệ biện chứng với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế như
thế nào, tơi xin được trình bày vấn đề này theo các khía cạnh dưới đây. Đề tài
nghiên cứu này đặt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế từ những
thập niên cuối của thế kỉ XX đến nay, những cơ hội và thách thức trong q trình
tồn cầu hóa từ đó đề ra những giải pháp phù hợp thúc đẩy tư duy kinh tế độc lập
tự chủ trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để xác định đúng đắn
các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

3
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

B.NỘI DUNG

CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái quát về phép biện chứng duy vật:
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy,
phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với
phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong
trạng thái cô lập và bất biến.
Phép biện chứng đã phát triển qua ba giai đoạn, ba hình thức cơ bản, trong
đó giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sang tạo nên phép biện
chứng duy vật của chủnghĩa Mác –Lênin. Phép biện chứng duy vật được xem là
khoa học nhất, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hồn bị, sâu sắc
nhất và không phiến diện. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở
một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ
biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế
Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của
xã hội loài người và của tư duy.
2. Nội dung biện chứng về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự
tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt,
các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ
phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế
giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở
mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép
biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng
định và phủ định, cái chung và cái riêng…Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng
của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù vừa tồn tại những mối liên hệ

4
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

phổ biến ở những phạm vi nhất định, nhưng đồng thời cũng tồn tại những mối
liên hệ phổ biến nhất, trong đó, những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những
mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên
hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược
lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên,
xã hội và tư duy.
2.2. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính
chất cơ bản của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật: các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự qui định lẫn nhau, tác
động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc
trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập khơng phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các
mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác;
đồng thời cũng khơng có bất cứ sụ vật, hiện tượng nào không phải là một cấu
trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong
của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống
mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn
nhau.

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau,
giữ vai trị, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác,
cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển

5
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trị khác nhau. Như vậy, khơng thể
đồng nhất tính chất và vị trí, vai trị cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối
với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là mối liên hệ
bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu và
thứ yếu…
Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối
liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong
những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm tồn diện.
Quan điểm tồn diện địi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn
cần xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật
đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và
xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. như vậy, quan điểm toàn

diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật
đó”
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời
cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng
nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định
rõ vị trí, vai trị khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều kiện cụ
thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý
các vấn đề thực tiễn.

6
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

CHƯƠNG II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI VẤN ĐỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Lý luận chung về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế
1.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là
một nền kinh tế phát triển tồn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi
mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá trình tái sản xuất ; khơng
bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận
hành một cách bình thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh

quốc gia. Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc
gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng,
quy mơ thị trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát triển cao về khoa học – cơng nghệ
và khơng cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển
được.
Độc lập, tự chủ về kinh tế trước hết và quan trọng nhất là về đường lối, chính sách,
luật pháp kinh tế được xây dựng thành hệ thống hoàn chỉnh đặt trên căn bản lợi ích
dân tộc hướng vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”; trên cơ sở đó xây dựng nền kinh tế ngày càng hiện đại thích ứng với xu thế
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, có năng lực cạnh tranh cao, đạt được hiệu quả
kinh tế - xã hội ngày càng lớn.
Độc lập, tự chủ về chính trị là điều kiện tiền đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ. Ngược lại, độc lập, tự chủ về kinh tế là điều kiện bảo đảm độc lập, tự chủ về
chính trị, bởi một quốc gia đói nghèo, thường xun phải dựa vào viện trợ quốc tế,
thì khó có thể giữ vững được độc lập, tự chủ về chính trị.
1.2. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế những thập niên qua là thuật ngữ xuất hiện khá nhiều trong
đời sống kinh tế - chính trị ở nước ta. Hội nhập quốc tế được hiểu như quá trình
mở cửa tham gia đời sống kinh tế - chính trị quốc tế, cũng như q trình thế giới
đến với Việt Nam, nghĩa là chúng ta vươn ra gắn bó sâu, rộng với thế giới và
ngược lại.
7
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

Hội nhập được triển khai trên nhiều lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là lĩnh vực
có sự phát triển sôi động hơn cả. Hội nhập kinh tế quốc tế được xem là sự phát
triển cao của phân công lao động quốc tế; là quá trình phối hợp mang tính chất liên

quốc gia giữa các nước độc lập, có chủ quyền trong một hay nhiều hiệp định kinh
tế - thương mại.
Hội nhập kinh tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác
kinh tế khu vực và tồn cầu, trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo các
nguyên tắc, quy định chung. Sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện các tổ
chức như Liên Minh Châu Âu, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại (GATT). Từ những năm 1990 trở lại đây, tiến trình này
phát triển mạnh cùng với xu thế tồn cầu hố đời sống kinh tế, thể hiện ở sự xuất
hiện của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trước kia, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế chỉ được hiểu đơn thuần là những
hoạt động giảm thuế, mở rộng thị trường. Chẳng hạn, Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại (GATT) suốt 38 năm ròng, qua 7 vòng đàm phán cũng chỉ tập
trung vào việc giảm thuế. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay được hiểu là việc một
quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế-tài chính
quốc tế, thực hiện tự do hố và thuận lợi hố thương mại, đầu tư.
Như vậy, có thể thấy vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay
không chỉ đơn thuần là giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở
rộng cho tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế-thương mại, nhằm
mục tiêu mở rộng thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình
và vơ hình đối với trao đổi thương mại quốc tế.
1.3. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế hiệu quả
Từ thực tiễn quá trình phát triển nền kinh tế đất nước đã cho thấy xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn
đúng đắn và kịp thời. Khi xem xét việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, không
thể tách rời khỏi việc hội nhập kinh tế quốc tế. Có như vậy, mới có thể nắm được
thực chất của vấn đề, tránh được những cách nghĩ phiến diện một chiều. Về cơ bản,
độc lập tự chủ là một xu thế phát triển của thế giới. Trong điều kiện tồn cầu hố,
hoạt động liên doanh, liên kết rất đa dạng như hiện nay, thì lại càng phải giữ vững
tính độc lập tự chủ. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ cần bảo đảm độc lập tự


8
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả ngay cho
chính nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ là để không bị lệ thuộc vào nước khác, hoặc một nền kinh tế nào
đó… để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích của dân tộc.
Có nền kinh tế độc lập tự chủ, trước những biến động của thị trường, trước sự
khủng hoảng tài chính ở bên ngồi, một nền kinh tế mới có thể duy trì được sự ổn
định và phát triển.
Độc lập, tự chủ là một yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc với tính cách là
một chủ thể chính trị - pháp lý. Bởi vậy, nó trở thành một trong những nguyên tắc
căn bản nhất trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, cả trên bình diện đối nội và
đối ngoại. Hội nhập quốc tế thể hiện sự tham gia của quốc gia, dân tộc vào quá
trình tồn cầu hóa với tính cách là một xu thế lịch sử trong thế giới hiện đại. Độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đều mang tính khách quan, phản ánh những tất yếu
của quốc gia, dân tộc trong thời đại hiện nay. Mặt khác, giữ vững độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế lại là các hoạt động của nhà nước, cho nên, sự thành bại của
chúng lại phụ thuộc trước hết vào chế độ xã hội, đảng cầm quyền và chính quyền ở
mỗi nước. Đồng thời, giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc
tế là phương thức hành động đúng đắn, được đảm bảo bởi tính khách quan của độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, kết quả của phương thức hành động sẽ
được quyết định bởi tư duy, đường lối, chiến lược, giải pháp… của giai cấp lãnh
đạo, nhà nước và toàn xã hội.

2.Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế ở nước ta hiện nay

2.1.Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta hiện nay
Việt Nam trong quá trình mở cửa, hội nhập, đã và ln chú ý sự độc lập, tự chủ.
Tính độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện trước hết trong việc xác định đường lối
hội nhập nhất quán.
Trước khi Nhà nước Việt Nam (Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa và nay là Cộng

9
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, việc tham gia tiến trình kinh tế thế giới của
chúng ta chịu sự chi phối của chủ nghĩa thực dân, đó thực chất là quá trình bị động.
Sau năm 1945, do bối cảnh chính trị chi phối, việc hội nhập của Việt Nam còn rất
hạn chế, chủ yếu quan hệ với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, mà đáng chú ý
là việc tham gia vào Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Từ khi đổi mới, việc hội
nhập kinh tế quốc tế của chúng ta ngày càng rộng mở và sâu sắc hơn, gắn với tiến
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Và trong quá trình này, Đảng ta đã luôn chủ động và độc lập trong đường lối hội
nhập.
Đường lối hội nhập độc lập, tự chủ đã tạo cơ sở cho chúng ta độc lập và tự chủ
quyết định quá trình hội nhập trong thực tế. Chúng ta đã từng bước hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới, chủ động trong bước đi và lựa chọn thời điểm và
cơ chế trong tham gia hội nhập.
Trước hết, Việt Nam chủ động đổi mới, từng bước mở cửa, thực hiện tự do hóa thị
trường, cùng với đó là xây dựng hệ thống các quy định làm cơ sở cho thúc đẩy hội

nhập.
Thứ hai, thực hiện mở rộng các hoạt động hợp tác giao lưu kinh tế - thương mại
với các đối tác, ký kết các hiệp định thương mại và hợp tác đầu tư song phương,…
với các quốc gia. Tính đến năm 2013, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên
180 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình
thường với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc.
Thứ ba, thúc đẩy và tham gia hội nhập đa phương. Việt Nam đã chủ động tham gia
đàm phán gia nhập ASEAN vào năm 1995, tham gia Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) năm 1996, cùng các thành viên ASEAN thúc đẩy xây dựng Cộng
đồng ASEAN, nhằm biến ASEAN thành một thị trường có cơ sở sản xuất chung.
Bên cạnh đó, Việt Nam cùng với các thành viên ASEAN thực hiện liên kết, hợp tác
với các đối tác như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,… và tham gia các
cơ chế liên kết Đông Á.
Việt Nam cũng đã độc lập, tự chủ lần lượt tham gia hai diễn đàn hợp tác kinh tế
liên khu vực quan trọng là Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) (năm 1996) và Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (năm 1998). Từ năm 1994,

10
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

Việt Nam đã chủ động đề xuất việc gia nhập GATT (từ ngày 01-01-1995 chuyển
thành WTO). Sau hơn 10 năm đàm phán, ngày 11-01-2007, Việt Nam chính thức là
thành viên của WTO. Việt Nam cũng đã nối lại quan hệ với Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng Thế giới (WB).
Đối với diễn đàn APEC, Việt Nam đã tích cực tham gia và đóng góp thúc đẩy hợp
tác APEC. Nổi bật là nước ta đảm nhiệm thành cơng vai trị chủ tịch APEC năm

2006, với việc đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao 14, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao - Kinh tế APEC 18 và hơn 100 sự kiện, đưa ra triển vọng dài hạn về hướng tới
mục tiêu hình thành Khu vực thương mại tự do của tồn khu vực châu Á - Thái
Bình Dương (FTAAP).
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã chủ động trong các quan hệ song phương và đa
phương, tham gia hoạt động của các định chế kinh tế - tài chính quốc tế. Tuy nhiên,
cũng cần thấy rằng trong thời gian qua, việc chính trong quá trình hội nhập quốc tế
của nước ta là thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó chủ yếu là các cam kết về
thực hiện những chuẩn mực mà chúng ta đã chấp nhận khi gia nhập. Song song với
quá trình này là các hoạt động cùng các nước thành viên xây dựng các chuẩn mực
mới. Nhưng do nhiều nguyên nhân, nhất là hạn chế về thế và lực, mức độ tham gia
của nước ta trong các hoạt động này còn thấp.
Với đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã đưa nền kinh tế dân
tộc từng bước hòa nhập nền kinh tế thế giới. Thực tế, chúng ta đã tận dụng được
những cơ hội do mở cửa hội nhập đưa lại, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế
trong những năm đổi mới vừa qua, đưa nước ta trở thành quốc gia có mức thu nhập
trung bình, bên cạnh đó là thành tích ấn tượng về giảm đói, nghèo, ổn định xã hội
và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho người dân. Tuy nhiên, cũng cần thấy là
sau gần 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, vấn đề độc lập tự chủ trong kinh tế cũng
đang trở thành mối quan ngại. Mở cửa hội nhập kinh tế để tăng trưởng, song mức
độ mở cửa, mức độ hội nhập gắn kết thực sự vào chuỗi giá trị tăng trưởng của nền
kinh tế thế giới đối với nền kinh tế Việt Nam còn yếu. Nhật Bản, Hàn Quốc cũng
với tiến trình mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chỉ sau một đến hai thập
niên về cơ bản họ đã hoàn thành q trình tự do hóa và hội nhập gắn kết với nền
kinh tế thế giới, trở thành những nền kinh tế lớn, với các công ty tên tuổi và có
tiềm lực mạnh về vốn, cơng nghệ và quy mơ sản xuất.

11
Downloaded by Con Ca ()



lOMoARcPSD|10804335

Sau gần 3 thập niên đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh quốc
gia của Việt Nam còn quá yếu, năng suất lao động quá thấp, hiệu quả sử dụng đồng
vốn cũng thuộc diện thấp nhất trong khu vực. Hiện năng lực của các doanh nghiệp
Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu các sản phẩm phụ trợ của các doanh nghiệp
nước ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa q thấp, khơng đáp ứng được mục tiêu đặt ra khi
xây dựng chiến lược phát triển các ngành cơng nghiệp.
Về nội địa hóa, một ví dụ đáng chú ý là trong 20 dự án nhiệt điện đã đầu tư thì tỷ lệ
nội địa hóa gần như bằng 0 tại 15 dự án do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu.
Những dự án do Việt Nam làm tổng thầu tỷ lệ nội địa hóa cũng chỉ đạt 25%. Hay
chương trình phát triển ngành cơng nghiệp ơ-tơ cũng có thể nói là khơng thành
cơng, sau bao năm chủ yếu vẫn là nhập thiết bị, lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa cịn
thấp .Về trình độ cơng nghệ của phần lớn các doanh nghiệp nước ta (chủ yếu là các
doanh nghiệp dân doanh) đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình
của thế giới từ 2 - 3 thế hệ; có 76% máy móc, dây chuyền cơng nghệ nhập thuộc
thế hệ những năm 1960 - 1970; 75% số thiết bị đã hết khấu hao; 50% thiết bị là đồ
tân trang… Nhóm ngành sử dụng cơng nghệ cao mới đạt khoảng 20%, trong khi đó
ở Xin-ga-po là 73%, Ma-lai-xi-a là 51% và Thái Lan là 31% (tiêu chí để đạt trình
độ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là trên 60%) . Tình trạng này hạn chế năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.
Mở cửa thị trường hiện nay của Việt Nam là khá cao so với khu vực… Điều này
cho phép tranh thủ nguồn lực bên ngoài nhưng cũng rất dễ bị tác động bởi các biến
động của thị trường quốc tế, nhất là khi nguồn lực của ta cịn có hạn. Cho đến nay,
như Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, ta hiện không phụ thuộc bất
cứ nền kinh tế nào. Mặc dù chủ trương đa dạng hóa thị trường đã rất rõ, và đặc biệt
chủ trương này được đẩy mạnh từ năm 2010, song hiện tại có một số thị trường tỷ
lệ xuất nhập khẩu của ta khá cao. Chẳng hạn, giá trị nhập khẩu của Trung Quốc

hiện khoảng 10 tỷ USD, tương đương 9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
trong năm 2013. Trong khi đó, 23% hàng hóa nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam
là từ thị trường Trung Quốc. Đây là mức nhập siêu khá cao và với quy mô khá lớn
từ một thị trường. Một khi có biến động sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ.
2.2.Một số giải pháp, kiến nghị

12
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

Với tư cách thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam cần
đặc biệt quan tâm đảm bảo các cân đối kinh tế vĩ mô trong điều kiện mở cửa, hội
nhập về tài chính đang ngày càng trở nên phức tạp hơn, trong đó đảm bảo ổn định
tiền tệ trở thành khâu then chốt. Trong ngắn hạn, nền kinh tế toàn cầu đang lâm
vào hàng loạt cuộc khủng hoảng đan xen về tài chính, năng lượng, lương thực, mơi
trường. Do đó, giữ vững ổn định vĩ mơ và duy trì đà tăng trưởng hợp lý trở thành
ưu tiên số một. Về dài hạn, bảo đảm tính độc lập, tự chủ về đường lối kinh tế
khơng có nghĩa là chủ quan, duy ý chí, mà phải nắm bắt xu thế phát triển chung
của thế giới, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết, mơ hình, kinh nghiệm phát triển
quốc tế; nhưng khơng giáo điều, rập khn máy móc. Chiến lược kinh tế phải được
xây dựng đồng bộ với chiến lược phát triển xã hội và chiến lược hội nhập quốc tế,
phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển.
Trên phương diện xã hội, khâu then chốt là không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, năng lực quản trị xã hội của Nhà nước. Thứ nhất, cần tiếp tục đổi
mới và hồn thiện cơng tác lý luận, tun truyền, vận động, giáo dục của Đảng cả
về hình thức lẫn nội dung, bám sát thực tiễn, tránh bệnh hình thức, thành tích, xa
rời quần chúng; đổi mới công tác cán bộ, tăng cường công tác kiểm tra, chỉnh đốn,
kỷ luật Đảng; các chủ trương của Đảng phải được nhanh chóng triển khai thành

các chính sách cụ thể của Nhà nước. Thứ hai, các chính sách xã hội, dân tộc, tơn
giáo phải được coi trọng, tránh để các thế lực xấu lợi dụng kích động, gây chia rẽ;
khơng ngừng củng cố đồng thuận xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ
công, tăng cường hiệu lực tư pháp, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng. Thứ ba,
Việt Nam đã trở thành một xã hội có mức thu nhập trung bình, mà trọng tâm cơng
tác xã hội chuyển dần từ vấn đề xố đói, giảm nghèo sang quản trị và an sinh, do
đó cần tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN, từng bước thực hành
dân chủ, mở rộng sự tham gia của nhân dân vào các hoạt động của Nhà nước, xây
dựng xã hội thực sự dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên phương diện chính trị, an ninh và đối ngoại, độc lập, tự chủ là u cầu có tính
ngun tắc trong q trình hội nhập quốc tế của nước ta. Độc lập, tự chủ về chính
trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường phát triển đất nước; hoạch
định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; xác lập và duy trì thể chế chính
trị, khơng chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ về chính
trị được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hoá, xã hội và QP13
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

AN... Q trình hội nhập và tự do hố kinh tế có tác động đến nhiều lĩnh vực đối
nội. Thứ nhất, quyền lực Nhà nước phải điều chỉnh, phạm vi và cách thức can thiệp
của Nhà nước vào đời sống kinh tế-xã hội có nhiều thay đổi. Việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước chịu sự giám sát, phản biện xã
hội ngày càng tăng. Quyền tài phán tối cao của Nhà nước, Chính phủ, quốc gia đối
với các vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước vẫn tiếp tục được khẳng định,
nhưng phải gắn với hàng loạt trách nhiệm ngày càng lớn, ngày càng nặng nề. Thứ
hai, sự giao thoa giữa khu vực công quyền và khu vực thị trường trở nên phức tạp,
các lợi ích cơng, tư đan xen, chồng chéo, dễ tạo điều kiện cho các hành vi tham

nhũng, móc ngoặc; thách thức nghiêm trọng hiệu lực thực thi luật pháp, làm tổn
hại quyền lực của Nhà nước. Thứ ba, yêu cầu dân chủ hoá xã hội gia tăng mạnh
mẽ, bao gồm cả các hoạt động của Đảng và Nhà nước; người dân ngày càng hiểu
biết hơn về chính trị, nhận thức tốt hơn về các quyền công dân, quyền con người,
cũng như kỹ năng thực thi các quyền đó và nhấn mạnh cả nhu cầu tham gia vào các
hoạt động chính trị.
Lơgíc của tiến trình đổi mới địi hỏi sự đổi mới về kinh tế phải đồng bộ, hài hịa
với đổi mới chính trị, cải cách hành chính, mở rộng dân chủ, cải cách lập pháp, tư
pháp. Yêu cầu đổi mới tồn diện như vậy đặt ra địi hỏi ngày càng cấp thiết đối với
năng lực quản trị của Nhà nước và năng lực cầm quyền của Đảng ở tất cả các cấp,
các ngành, các địa phương. Đẩy mạnh đổi mới chính trị, tối ưu hố hoạt động của
hệ thống chính trị, phân bổ quyền lực chính trị hợp lý, kiểm soát quyền lực một
cách hiệu quả là cách tốt nhất đáp ứng các yêu cầu và thách thức đặt ra...
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh: độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và đối ngoại thể hiện trước hết ở tư
duy, nhận thức độc lập, sáng tạo; xuất phát từ lợi ích giai cấp và dân tộc, không
giáo điều, rập khuôn, máy móc trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính
sách đối ngoại; trong xác định bạn, thù và tập hợp lực lượng quốc tế. Chủ quyền
quốc gia trên lĩnh vực đối ngoại vận động theo tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế.
Hệ thống các quan hệ đối ngoại rộng lớn hiện nay của Việt Nam là kết quả của một
quá trình thực hiện các bước đột phá: từ phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hố
quan hệ với các nước lớn, cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực…, đến
thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác, bình đẳng cùng có lợi, là bạn, là
đối tác tin cậy với tất cả các nước; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Tuy nhiên,
để thực hiện tốt vấn đề đó, cần nắm bắt sâu sắc các nhân tố quan trọng sau đây
14
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335


trong quá trình phát huy độc lập, chủ quyền quốc gia: Thứ nhất, về môi trường
quốc tế: độc lập và tự chủ về đối ngoại của Việt Nam luôn nằm trong tương quan
và quan hệ chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực quốc tế. Việc ta
có thể khai thác lợi ích từ hội nhập đến đâu tùy thuộc vào sự ổn định, phát triển
trong nước, cũng như năng lực xử lý quan hệ với các nước lớn, các trung tâm
quyền lực thế giới, bảo đảm cân bằng lợi ích của nước ta trong quan hệ với họ. Thứ
hai, về môi trường khu vực: ổn định và phát triển, hay trái lại bất ổn và khủng
hoảng tại Đông Nam Á và rộng hơn là tại châu Á - Thái Bình Dương, có ảnh
hưởng trực tiếp đến quan hệ đối ngoại của nước ta; bởi vậy, chúng ta phải ln chủ
động, có trách nhiệm đối với sự ổn định của khu vực. Thứ ba, về mơi trường tồn
cầu: hội nhập và mở cửa sẽ tạo cơ hội cho một số thế lực chính trị bên ngồi nhân
danh "nhân quyền", "dân chủ", "tự do tôn giáo" can thiệp vào cơng việc nội bộ,
thực hiện diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ; các thế lực xuyên quốc gia, như:
khủng bố quốc tế, buôn bán ma tuý, hoạt động rửa tiền... cũng có thể thâm nhập,
phá hoại trật tự, an tồn xã hội, gây mất ổn định chính trị. Do đó, chúng ta phải
ln đề cao cảnh giác, có các biện pháp phù hợp, hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng.
Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ về đối ngoại trong bối cảnh đẩy mạnh hội
nhập quốc tế của Việt Nam là: chính trị, xã hội ổn định; kinh tế tăng trưởng nhanh,
bền vững; QP-AN vững mạnh; nguồn nhân lực đối ngoại trung thành và chuyên
nghiệp; quan hệ cân bằng với các nước lớn. Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
này, cần nâng cao hiệu quả cơng tác đối ngoại, gắn ngoại giao chính trị với ngoại
giao kinh tế; nắm vững mục tiêu, kiên định ngun tắc, bám sát tình hình, linh hoạt
ứng biến; tích cực tranh thủ và chủ động tạo dựng thời cơ, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh; phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng đối ngoại với các mặt chính trị, quân sự, kinh
tế, xã hội; tăng cường ngoại giao nhân dân. Trong bối cảnh thế giới đang có những
chuyển biến phức tạp, chúng ta phải có chiến lược đối ngoại linh hoạt; đồng thời,
cần khẩn trương xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập giai đoạn 2011-2020 phù
hợp với thế và lực của nước ta cũng như trong môi trường quan hệ quốc tế mới,

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

KẾT LUẬN

15
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

Hội nhập kinh tế quốc tế là sự kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích của dân tộc, phát
triển kinh tế đất nước, góp phần đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế trong những năm qua đã thu được nhiều kết quả tích cực góp
phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi mà chúng ta đã tận dụng được – thông qua việc tham gia vào
xu thế tồn cầu hóa, nền kinh tế nước ta cũng phải đối mặt với khơng ít khó khăn
do tác động tiêu cực của q trình tồn cầu hóa. Tác động có tính hai mặt của tồn
cầu hóa thể hiện cả trong quá trình xây dựng và duy trì nền kinh tế độc lập tự chủ
của nước ta.Với nhận thức như trên về chiều hướng phát triển và tác động lâu dài
của tồn cầu hóa, chúng ta cần có sự đổi mới phù hợp hơn về tư duy kinh tế độc
lập tự chủ trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để xác định đúng
đắn các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trung hạn và dài hạn cũng như các
chính sách kinh tế cụ thể, đưa đất nước ta tiến nhanh, mạnh và vững chắc trên con
đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều
kiện thế giới đang biến đổi nhanh theo xu thế toàn cầu hóa, mỗi quốc gia phải hội
nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình hợp lý nhằm khai thác lợi thế động của từng
nước để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, từng bước nâng cao vị thế của đất
nước trong khu vực và trên thế giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

16
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ- GS-TSKH.
Nguyễn Mại
2. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ để phát triển
bền vững 06/07/2014
3. />4. Độc lập, tự chủ trong hội nhập kinh tế
quốc tế- PGS, TS. Vũ Văn Hà
5. Đảm bảo mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế - PGS, TS. NGUYỄN VIẾT THẢO, Tổng biên tập Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam
6. XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC
LẬP TỰ CHỦ TRONG BỐI CẢNH TỒN CẦU HỐ - PHẠM QUỐC
TRỤ – Bộ Ngoại giao
7. />1.

8. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ - 30/08/2010 - GS.TS Vũ
Văn Hiền, Ủy viên Trung ương Đảng

17
Downloaded by Con Ca ()




×