Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện vào giáo dục thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.2 KB, 33 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

4

NỘI DUNG

5

I.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI TỒN

5

DIỆN: ĐỨC, TRÍ, THỂ, MỸ

1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của giáo dục và giáo dục

5

con người toàn diện
2.

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người tồn diện

9



II.

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIÁO DỤC

28

THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.
2.

Thực trạng cơng tác giáo dục thế hệ trẻ hiện nay
Giải pháp chủ yếu công tác giáo dục thế hệ trẻ hiện nay theo tư

tưởng Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

28
31
34
35

MỞ ĐẦU

3


Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa

kiệt xuất, là người đã đặt nền móng và xây dựng nền giáo dục dân chủ mới ở nước
ta. Tư tưởng của Người về giáo dục - đào tạo, là một kho tàng những giá trị nhân
văn cao cả, tư tưởng đó khơng chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam mà cịn có ý nghĩa thiết thực trong sự nghiệp đào tạo
nguồn nhân lực cho cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, phục vụ
cho quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay. Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục con người toàn diện – là một tư tưởng nhân văn đặc sắc. Đây là sự tiếp
nối và nâng cao những giá trị tinh tuý nhất tư tưởng nhân văn của truyền thống
Việt Nam và thế giới. Tư tưởng giáo dục con người tồn diện của Hồ Chí Minh đã
góp phần to lớn vào việc đào tạo cho dân tộc Việt Nam những người con ưu tú, đủ
đức đủ tài đưa đất nước vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách để giành những
thắng lợi to lớn, làm thay đổi địa vị dân tộc trên trường quốc tế. Mà đối tượng cần
giáo dục trước tiên là thế hệ trẻ, là đoàn viên thanh niên - những người quyết định
vận mệnh, tương lai của dân tộc.
Hồ Chí Minh là bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” là điển hình của con người
Việt Nam toàn diện về thể lực, đạo đức, trí tuệ, tài năng, là hình mẫu sinh động con
người của hiện tại và tương lai. Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục con người tồn diện khơng chỉ cần thiết về lí luận mà cịn
nhằm làm cho mọi người hiểu và tiếp thu tư tưởng quan trọng này của Người, trên
cơ sở đó noi gương Người, phấn đấu vươn lên, hồn thiện bản thân mình, tạo tiền
đề cho sự phát triển xã hội.
Từ những lý do trên đây, tác giả chọn: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục con người toàn diện vào giáo dục thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện
nay”, làm nội dung cho bài tiểu luận.

NỘI DUNG
4


I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI TỒN

DIỆN: ĐỨC, TRÍ, THỂ, MỸ
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của giáo dục và giáo dục con
người tồn diện
1.1. Về vị trí, vai trị của giáo dục
Giáo dục là một khoa học. Đó là khoa học về thiết kế, xây dựng con người
phục vụ chế độ xã hội; khoa học về cách thức, phương pháp giáo dục con người
với chất lượng tốt nhất; khoa học về xây dựng một nền giáo dục với quy mô, cơ
cấu phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; khoa học về một nền giáo dục phải
giải quyết được những yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra. Giáo dục là
một khoa học nên cần có những nhà khoa học, những cán bộ quản lý không ngừng
trau dồi kinh nghiệm để đưa khoa học giáo dục phát triển. Đồng thời, cần đề ra
những chính sách giáo dục đúng đắn phù hợp với điều kiện thực tế nước ta... Để
đáp ứng những u cầu đó thì cần phải có một hệ thống lí luận về khoa học giáo
dục thật tiến bộ, phù hợp với Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một
khoa học không chỉ được đề cập ở phạm vi hẹp là giáo dục tri thức, học vấn giới
hạn trong nhà trường, giới hạn giữa thầy và trò, mà nội dung giáo dục hết sức sâu
rộng. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh hết sức sâu rộng cả về mục đích, nội dung,
phương pháp.
Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò của giáo dục. Người thấy được vai trò của
giáo dục trong việc cải tạo, phát triển con người, làm biến đổi con người cũ, xây
dựng con người mới. Người viết: “Thiện, ác đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do
giáo dục mà nên”1. Với ý nghĩa đó, ta thấy được giáo dục quyết định đến sự biến
đổi tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ nhận thức của con người. Giáo dục trở
thành điều kiện, tiền đề cho việc hình thành và phát triển bản chất của con người.
Nó là “vũ khí sắc bén để giúp ta cải tạo con người”. Như vậy, Hồ Chí Minh coi sự
thay đổi bản chất con người là do giáo dục. Đó chính là sự kế thừa truyền thống
1

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.3, tr.383.


5


dân tộc về triết lí sống; về tác dụng, ảnh hưởng của giáo dục đối với nhân cách con
người “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”... Và đặc biệt, theo chủ tịch Hồ Chí
Minh để giáo dục đạt kết quả cao thì cần phải giáo dục tinh thần tự giáo dục suốt
đời ở mỗi con người.
Giáo dục không chỉ có tác động mạnh mẽ tới con người mà cịn có tác động
và có vai trị to lớn đối với các lĩnh vực kinh tế, văn hố, xã hội. Thơng qua hoạt
động thực tiễn của con người, giáo dục có vai trò quan trọng tác động vào các hoạt
động kinh tế, văn hố và quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: vơ luận việc gì, đều
do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả. Vì vậy, chiến lược
phát triển giáo dục phải gắn với hoạch định chính sách phát triển kinh tế, văn hố,
xã hội. Trong đó, vai trị của giáo dục là cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp
phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Khi điều kiện vật chất được nâng cao sẽ tạo cơ
sở cho nền giáo dục phát triển. Vì vậy, kinh tế khơng phát triển thì giáo dục cũng
khơng phát triển. Giáo dục khơng phát triển thì khơng đủ cán bộ cho kinh tế phát
triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau. Trên thực tế cũng cho ta thấy nêu
không phát triển, mở mang giáo dục thì rất khó phát triển đất nước. Để đạt mục
tiêu kinh tế - xã hội thì cần đào tạo ra những con người có đủ năng lực, phẩm chất
làm chủ xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục còn được coi là một mặt trận quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Giáo dục có vai trị nâng cao trình độ nhận thức về đường lối
chính trị của Đảng và Chính phủ; giáo dục nhất thiết phải gắn với sản xuất và đời
sống nhân dân, phát triển giáo dục phục vụ yêu cầu phát triển cách mạng, vì theo
Hồ Chí Minh “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”2
Ngồi ra, giáo dục cịn có vai trị quan trọng trong việc xoá bỏ những tàn dư
của lối sống, cách suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu của nền giáo dục thực dân phong kiến và
có ý nghĩa sâu sắc trong việc xây dựng nền giáo dục mới đào tạo những con người
toàn diện phục vụ cách mạng. Nền giáo dục mà Người quan tâm xây dựng là nền

2

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.4, tr.8

6


giáo dục nhằm xoá bỏ những quan niệm khinh lao động chân tay, trọng bằng cấp,
ham vinh hoa, phú quý... đó là nền giáo dục mới vì nhân dân, vì đất nước.
Mục đích xuyên suốt trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là cao cả ln
gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là nền giáo dục mới vì con người, cho
con người, vì hạnh phúc ấm no, tự do của nhân dân, Vì cuộc sống biết “thưởng
thức” và được làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Cả cuộc đời Người đã hi sinh
phấn đấu để thực hiện những mục đích cao đẹp đó, nó chi phối mọi hoạt động của
Người. Mong muốn giải phóng con người và nâng cao giá trị con người về mặt văn
hoá, nhận thức. Mục tiêu cuối cùng, cao nhất của cách mạng Việt Nam là giải
phóng con người một cách tồn diện và để đạt mục tiêu đó trước hết ta phải thực
hiện mục tiêu giáo dục là giáo dục, đào tạo ra những con người có năng lực, có trí
tuệ...
1.2. Về vị trí, vai trị của giáo dục con người toàn diện.
Tư tưởng giáo dục con người toàn diện của Hồ Chí Minh là tư tưởng có nội
dung sâu sắc, thể hiện ở tầm cao chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Bằng thiên tài
trí tuệ và lịng u thương, kính trọng con người, tin vào khả năng và sức mạnh
sáng tạo vô tận của con người trong sự nghiệp phục hưng nền độc lập dân tộc và
sáng tạo ra xã hội mới - xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam, Hồ Chí Minh
ln khẳng định vai trò quyết định của nhân dân, của con người đối với sự phát
triển lịch sử. Theo Người, đó phải là những con người được trang bị thế giới quan
khoa học, có lý tưởng cách mạng vững vàng, có tri thức toàn diện, đạo đức trong
sáng, sức khỏe dồi dào, năng lực sáng tạo cao và khả năng thích ứng tốt. Những
con người đó khơng xuất hiện ngẫu nhiên, tự phát mà là kết quả tác động hợp quy

luật của xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì tính
tự giác, chủ động trong việc đào tạo, phát triển con người ngày càng cao, nguồn
lực mà xã hội dành cho vấn đề này càng phải lớn, nội dung giáo dục, đào tạo và
phát triển con người ngày càng sâu sắc và tồn diện. Vì vậy, con người phát triển
cao về mọi mặt là mục tiêu xuyên suốt của chiến lược cách mạng Việt Nam trong
7


bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Vị trí, vai trị của giáo dục tồn diện trong tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng giữ một vai trò quan trọng như vị trí, vai trị của giáo
dục:
- Vai trị to lớn trong việc cải tạo, phát triển con người, làm biến đổi con
người cũ, xây dựng con người mới.
- Giáo dục toàn diện khơng chỉ có tác động mạnh mẽ tới con người mà cịn
có tác động và vai trị to lớn đối với các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.
- Giáo dục tồn diện cịn được coi là một mặt trận quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Giáo dục có vai trị nâng cao trình độ nhận thức về
đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ...
- Giáo dục tồn diện cịn có vai trị quan trọng trong việc xoá bỏ những tàn
dư của lối sống, cách suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu của nền giáo dục thực dân phong kiến
và có ý nghĩa sâu sắc trong việc xây dựng nền giáo dục mới đào tạo những con
người toàn diện phục vụ cách mạng.
Ngoài ra, giáo dục tồn diện cịn có vị trí, vai trị riêng, rất ý nghĩa và quan
trọng đối với cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
quyết định chiều hướng đi lên của lịch sử dân tộc. Con đường cách mạng của
chúng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn rất đúng đắn, nhưng cịn lâu dài và
gian khổ, đó là con đường giải phóng dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cả
cuộc đời mình Người đã hi sinh, đấu tranh để thực hiện mục tiêu đó nhằm đem lại
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã viết: “khơng có một chế độ
nào tơn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm

bảo cho nó được thoản mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” 3.
Nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa. Đó là những con người tồn diện cả đức và tài, có thế giới quan khoa
học, có lý tưởng cách mạng vững vàng, có tri thức tồn diện, đạo đức trong sáng,
sức khoẻ dồi dào, năng lực sáng tạo cao và khả năng thích ứng tốt. Đó thực sự trở
3

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.9, tr.291

8


thành động lực quyết định sự phát triển lịch sử. Muốn có con người xã hội chủ
nghĩa, theo Hồ Chí Minh, khơng có con đường nào khác ngồi con đường giáo dục
của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, mà cần xây dựng một nền giáo dục toàn
diện, với nội dung tích cực đúng đắn cả về trí tuệ, sức khoẻ, đạo đức lẫn năng lực
thẩm mỹ, với nhưng phương pháp tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu lịch sử đặt
ra. Đặc biệt, cần chú trọng việc giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đoàn viên thanh
niên, vì theo Người, thanh niên là lực lượng có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự
phát triển hiện tại và tương lai của đất nước, trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Người luôn coi trọng và quan tâm đến thanh niên. Năm 1925, trong bài viết gửi
“Thanh niên An Nam” Người nói “Hỡi Đơng Dương đáng thương hại, Người sẽ
chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người khơng sớm hồi sinh”. Bởi khi đó
thanh niên Việt Nam hầu hết bị ru ngủ bởi chính sách ngu dân của thực dân Pháp…
Người đã nhận thức rất rõ tương lai của dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào lực lượng
thanh niên.
Qua đây, ta có thể thấy được giáo dục tồn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh
có vị trí, vai trị rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Nó có vai trị quan trọng trong
việc giáo dục, đào tạo ra những con người toàn diện vừa hồng vừa chuyên, là chủ
thể quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử, quyết định sự thành bại của sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó, địi hỏi chúng ta cần có những
chủ trương, chính sách thật đúng đắn, phù hợp nhằm hoàn thiện, phát triển một nền
giáo dục toàn diện.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người tồn diện
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người tồn diện là sự kế thừa truyền
thống giáo dục tốt đẹp của dân tộc và quan điểm về con người toàn diện của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó Người đã đưa ra nội dung giáo dục con người
toàn diện Việt Nam trong thời đại mới là gồm có: thể dục, trí dục, mỹ dục và đức
dục. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, con người Việt Nam được sự dìu
dắt, giáo dục, đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã trở thành
9


yếu tố quyết định, là động lực thực sự cho sự phát triển của cách mạng suốt mấy
chục năm qua. Hơn thế nữa, đối với Hồ Chí Minh, con người khơng chỉ là động
lực mà cịn là mục tiêu cao nhất, là cái đích hướng tới của cách mạng Việt Nam.
Chúng ta làm cách mạng là để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng và
phát triển con người lên một tầm cao mới, xứng đáng là chủ thể của mọi quá trình
phát triển trong xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, giáo dục con người về mọi
mặt để khơng ngừng nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực của người chiến sĩ
cách mạng, của công dân, nơng dân, trí thức, thanh niên và các tầng lớp nhân dân
là tư tưởng rất quan trọng, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh.
2.1. Giáo dục về đạo đức
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin lớn lao vào thế hệ trẻ Việt Nam
- những người chủ tương lai của đất nước. Người khẳng định vai trò to lớn của tuổi
trẻ trong sự phát triển và trường tồn của dân tộc: Nước nhà thịnh hay suy yếu hay
mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Hồ
Chủ tịch thường xuyên động viên tuổi trẻ phải ra sức rèn luyện tinh thần, tu dưỡng
đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là người chủ tương lai của
nước nhà, đồng thời nhắc nhở Đảng và Chính phủ phải đặc biệt quan tâm tới việc

đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Trong “Di chúc”, Người căn dặn: “Đồn viên và
thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, khơng ngại khó
khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu của đời sống xã hội, nó ra đời và tồn
tại khách quan trong cuộc sống, nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi của con người.
Hiểu rõ tính chất phức tạp và tế nhị của quan hệ đạo đức ở nước ta, Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, nhằm giúp đỡ
họ trở thành những người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt,
người chủ xứng đáng của đất nước và người cách mạng chân chính.
10


Khi đề cập tới đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh thường sử dụng các thuật
ngữ như: đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản, đạo đức tập thể, đạo
đức vơ sản. Theo Hồ Chí Minh, gọi là “đạo đức mới” vì nó khác xa với đạo đức cũ,
nó lật ngược các nguyên tắc của đạo đức cũ. Theo Hồ Chí Minh để giáo dục hiểu
biết cho con người toàn diện về đạo đức cách mạng, trước hết cần nâng cao hiểu
biết vai trị cực kì quan trọng của đạo đức cách mạng trong nhân cách cũng như
trong hoạt động thực tiễn của người cách mạng. Xuất phát từ điều kiện, hồn cảnh
Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đạo đức là “gốc”, là “nền tảng” người
cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng, việc nhận thức đúng đắn và đầy đủ vai trò to
lớn của đạo đức trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cũng như ý
nghĩa sâu sắc của nó trong việc định hướng giá trị cho hoạt động của con người
Việt Nam tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng và không ngừng nâng cao đạo đức
cách mạng ngày càng cống hiến nhiều hơn sức lực, trí tuệ cho sự phát triển của đất
nước và thắng lợi của cách mạng nước ta.
Với quan điểm “đạo đức là gốc của người cách mạng”, Bác Hồ quan tâm
giáo dục thanh niên không chỉ có tinh thần làm chủ nước nhà mà phải thường

xuyên rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính; chí cơng, vơ
tư. Bác khun thanh niên “hăng hái, xung phong”, có chí tiến thủ, khơng ngại khó
khăn, không nề nguy hiểm trong công tác, học tập, chiến đấu. Song, trong cuộc
sống, Bác căn dặn thanh niên biết u thương gia đình, kính trọng ơng bà, cha mẹ,
người cao tuổi, nâng đỡ, dìu dắt thiếu nhi, quý trọng và hiếu thảo với nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân là nội dung đạo đức mới Bác khuyên nhủ thanh niên
cần thực hiện. Người cho rằng, đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Do đó,
thanh niên phải ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng, bởi vì “cũng như sơng có
nguồn thì mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân” 4. Giáo dục, bồi dưỡng tri thức đạo
4

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.5, tr. 252-253.

11


đức cách mạng cho con người là biện pháp vô cùng quan trọng mà Hồ Chí Minh
rất quan tâm để phát triển con người về đạo đức. Nội dung giáo đạo đức cách mạng
theo quan điểm của Hồ Chí Minh có nhiều vấn đề với tri thức rất phong phú. Để
không ngừng nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của con người Việt Nam về đạo
đức cách mạng, Hồ Chí Minh tập trung bồi dưỡng những kiến thức về thiện – ác,
trung hiếu, cần kiệm liêm chính, chí cơng vô tư, về đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân...
Cùng với giáo dục tri thức về thiện, ác, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng bồi
dưỡng, nâng cao sự hiểu biết cho con người Việt Nam về Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Chí cơng vơ tư. “Cần, kiệm, liêm, chính” là cụm khái niệm chỉ những đức tính cần
thiết của những người có trách nhiệm ở các thời kì lịch sử. Ban đầu chúng thuộc

phạm trù luân lý, đạo đức của Nho giáo. Qua chiều dài lịch sử nó đã có chỗ đứng
nhất định trong tư tưởng và tâm lý của nhân dân Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh,
Người đã đổi mới, bổ sung thêm nội dung và mở rộng thêm đối tượng thực hiện,
dùng vào việc dạy cán bộ và nhân dân ta.
“Trung”, “hiếu” là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất nội
dung quan trọng của đạo đức mới mà Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm giáo
dục để phát triển đạo đức của mỗi con người Việt Nam tồn diện. “Trung với
nước” theo Hồ Chí Minh là: Trong quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội,
phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết; quyết tâm
phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng; thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước. “Hiếu với dân” theo Hồ Chí Minh là: Khẳng định vai trị,
sức mạnh thực sự của nhân dân. Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân; gắn
bó mật thiết với dân, tổ chức vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ
trương, chính sách của đảng và Nhà nước; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước với Đảng và hiếu với
dân là hai mặt thống nhất trong một vấn đề, gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với nhau.

12


Ngoài việc giáo dục các chuẩn mực đạo đức: trung, hiếu; cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; thiện, ác… thì đối với con người tồn diện trong thời đại
mới còn phải giáo dục lòng yêu thương con người: thể hiện trong quan hệ hàng
ngày với bạn bè đồng chí, là thái độ tơn trọng mọi người, có lịng vị tha trước
những thiếu sót, khuyết điểm của người khác và tinh thần quốc tế trong sáng: đó là
tinh thần đồn kết giữa nhân dân Việt Nam với bạn bè quốc tế, vì hịa bình, cơng lý
và tiến bộ xã hội, chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phân biệt chủng tộc hay chủ
nghĩa bành trướng bá quyền.
Theo Hồ Chí Minh, “chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng” 5;
“cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân” 6 . Người còn cho rằng

chủ nghĩa cá nhân là một thứ “bệnh mẹ” đẻ ra nhiều thứ “bệnh con” rất nguy hiểm
như: tham ô, lãng phí, ích kỷ, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, óc hẹp hòi, óc địa
phương, óc lãnh tụ, nạn quan liêu… Có thể nói chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch
hung ác của chủ nghĩa xã hội, nó là thứ giặc nội xâm nguy hiểm hơn cả giặc ngoại
xâm, là bạn đồng minh với giặc ngoại xâm và thói quen, truyền thống lạc hậu. Hồ
Chí Minh đã chỉ ra nguyên nhân đó là chịu ảnh hưởng xấu của những tư tưởng,
thói quen, lối sống lạc hậu…trong xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Ngồi ra, cịn
tồn tại nhiều thói tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa, thiếu tinh thần tự giác rèn luyện,
tu dưỡng, cố gắng vươn lên …Hậu quả là dần dần tinh thần đấu tranh, tính tích
cực, chí khí và phẩm chất cách mạng bị giảm, dần dần mất cả tư cách và đạo đức
cách mạng, sa vào tham ơ, hủ bại trở thành người có hại tới Tổ quốc, tới nhân dân,
huỷ hoại sự nghiệp cách mạng.
Việc giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên là một trong những định
hướng giáo dục XHCN cơ bản và quan trọng. Để có lý tưởng cách mạng phải
thơng qua sự phân tích, chứng minh có căn cứ lý luận và thực tiễn sâu sắc. Từ khi
chủ nghĩa Mác – Lênin truyền bá vào Việt Nam, vấn đề giáo dục chủ nghĩa Mác –
Lênnin, giáo dục tư tưởng cách mạng cho thanh niên đã được đặt ra và giữ một vị
5
6

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.9, tr. 283
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.9, tr. 448

13


trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong lịch sử dân tộc cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX, đất nước ta trong cảnh lầm than cơ cực, thanh niên khơng
có tương lai. Có người muốn rửa vết nhơ nô lệ nhưng không được, không phải vì
họ thiếu tinh thần và ý chí kiên cường, dũng cảm, mà chính là thiếu phương hướng

đường lối đúng đắn.
Trong việc giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và thanh niên, Người luôn
nhắc nhở “người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả
của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hồn tồn độc lập, cho CNXH hoàn toàn thắng
lợi trên đất nước và trên thế giới”. Lý tưởng cao đẹp mà Hồ Chí Minh nói tới và
cũng là để giáo dục cho thanh niên đó là: Độc lập dân tộc, tự do và CNXH. Lý
tưởng này trở thành niềm tin, lẽ sống của nhiều thế hệ kế tục nhau. Do vậy, Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở chúng ta phải giáo dục cho thanh niên nhận thức đúng và hiểu
sâu sắc rằng: Vì lý tưởng cao đẹp mà biết bao chiến sỹ cộng sản, biết bao người
con yêu quý của giai cấp công nhân và của dân tộc đã hy sinh, biết bao lớp tuổi
thanh niên đã lên đường chiến đấu. Con đường đi đến lý tưởng cao đẹp là con
đường đã đổ biết bao mồ hôi xương máu, nhưng cũng đầy vinh quang và tính anh
hùng. Có giáo dục lý tưởng cách mạng, thanh niên mới đảm đương được sứ mệnh
góp phần đưa lá cờ bách chiến bách thắng của Đảng và của dân tộc đến thắng lợi
cuối cùng. Vì vậy, phải quan tâm giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên, thế
hệ trẻ, cũng như tất cả mọi người.
2.2. Giáo dục về trí tuệ
Trí tuệ và hoạt động trí tuệ là phẩm chất riêng có của con người. Đây là mặt
căn bản chi phối mọi nhận thức và hành động của con người. Trí tuệ con người có
được chính là nhờ sự nỗ lực của xã hội và cá nhân trong việc giao tiếp, tiếp nhận lý
luận, tri thức, kinh nghiệm…của các thế hệ đi trước để lại và sự nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn công cuộc cải tạo tự nhiên, xã hội đang diễn ra. Xã hội càng phát triển
thì khối lượng kiến thức mà con người cần đến rất lớn nên mỗi người phải không
ngừng đổi mới tư duy, nâng cao trình độ để tiếp nhận kiến thức khoa học tự nhiên,
14


kĩ thuật, khoa học xã hội…để đáp ứng yêu cầu thời đại và lịch sử đặt ra. Do đó,
giáo dục trí tuệ là một trong những yếu tố quan trọng trong việc giáo dục, xây
dựng con người toàn diện. Con người phải có tri thức, trí tuệ đó sẽ là công cụ để

con người nhận thức và cải tạo thế giới, để xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, phát triển
hơn. Và để có kiến thức tồn diện về mọi mặt như văn hóa, xã hội, kinh tế, chính
trị… thì mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải không ngừng ôn lại những điều đã
học và học thêm những tri thức mới.
* Ôn lại những điều đã học
Những điều đã học chính là những kiến thức mà mỗi người được học trong
nhà trường, ngoài xã hội bao gồm các kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, lịch
sử, xã hội, khoa học kĩ thuật….Đây chính là cơ sở, nền tảng vững chắc của mỗi
người được tích lũy qua một q trình lâu dài thơng qua hoạt động học tập và rèn
luyện. Đó cũng chính là cơ sở, nền tảng để mỗi người có thể tiếp thu những tri thức
mới, những điều đã học có thể coi những điều là cái “gốc” để mỗi người có thể
chăm lo, vun trồng những tri thức mới là cái “ngọn”, có gốc vững chắc thì mới có
ngọn. Vì vậy, ơn lại những điều đã học rất cần thiết và quan trọng đối với giáo dục
trí tuệ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì,
người có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà khơng có
đức sẽ trở nên vơ dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân
cơ bản kìm hãm sự phát triển: “Dốt thì dại, dại thì hèn”. Vì vậy, để trở thành người
có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh
niên cịn phải hăng hái học tập. Vì vậy mà phải giáo dục trí tuệ cho thanh niên.
Nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trí tuệ cho con người toàn
diện là chăm lo đào tạo, dạy nghề, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật
cho thanh niên. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ đã đề nghị một trong
những công việc khẩn cấp lúc bấy giờ là diệt giặc dốt, xóa nạn mù chữ. Trong ngày
15


khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ viết thư cho học
sinh khẳng định: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt

Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được
hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em” 7. Vì vậy, muốn
xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, là người đưa sự nghiệp cách mạng
Việt Nam tới thắng lợi thì thanh niên, thế hệ trẻ phải khơng ngừng học tập, tích luỹ
tri thức, rèn luyện bản thân.
Theo Bác, có đạo đức cách mạng, mục tiêu, lý tưởng phấn đấu là tốt nhưng
như thế là chưa đủ để thanh niên trở thành chủ nhân thật sự của một đất nước tự
do, độc lập. Vì thế, họ cần được giáo dục, bồi dưỡng kỹ càng về mọi mặt để nâng
cao trình độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quân sự, ngoại
ngữ… cũng như cách đối nhân, xử thế của người cách mạng. Đó khơng chỉ là điều
kiện để biến khả năng hoạt động của họ thành hiện thực trong đời sống mà còn là
hành trang cần thiết để họ vững tin bước vào đời, lập thân lập nghiệp.
Chính vì vậy, mỗi người, trước hết là thanh niên, thế hệ trẻ phải khơng
ngừng chăm lo học tập, tích lũy những kiến thức phong phú toàn diện về tự nhiên
và xã hội, ôn lại những tri thức cũ, để tiếp thu nhưng tri thức mới. Để làm giàu vốn
kiến thức của bản thân, trở thành một người có năng lực, có trí tuệ… xứng đáng là
người chủ tương lai của nước nhà, đưa đất nước phát triển.
* Học thêm những tri thức mới
Tri thức nhân loại là vơ tận, nó biến đổi từng ngày, địi hỏi mỗi người phải
ln ln phấn đấu trong học tập, rèn luyện bản thân để có thể tiếp thu những tri
thức bổ ích, để trở thành một người có ích cho đất nước và sự phát triển của nhân
loại. Một con người toàn diện phải là một con người có kiến thức sâu rộng về tự
nhiên và xã hội, luôn luôn ham học hỏi, cầu tiến bộ, tích cực trong học tập....
Chính vì vậy, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng ngừng kêu gọi thanh niên khơng
ngừng học tập và Người cịn đưa ra những nội dung giáo dục tri thức mới cho
7

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.4, tr.33

16



thanh niên một cách toàn diện và sâu sắc với những tri thức về: lý luận và văn hóa,
khoa học - kỹ thuật.
Giáo dục, nâng cao trình độ lý luận có ý nghĩa hết sức sâu sắc, từ đó sẽ được
giác ngộ cách mạng, nhận thức được quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Đồng thời, phải
đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm
trang bị và nâng cao trình độ lý luận cách mạng - ngọn đèn soi sáng cho hoạt động
thực tiễn. Nâng cao trình độ lý luận là yếu tố tinh thần quan trọng của mỗi con
người xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc; nó cịn giúp mọi người
xác định đúng đắn lý tưởng sống, hoài bão lập thân, lập nghiệp, phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân.
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ cịn phải tích cực
học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật...; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã
hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ này quan trọng hơn bao giờ
hết, bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nơng nghiệp lạc hậu. Cụ thể
hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với từng cấp học, được thể hiện rõ nhất
trong thư Hồ Chí Minh gửi các thầy, cô giáo, học sinh, cán bộ thanh niên, nhi đồng
ngày 31/10/1955, Người viết: “Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực
hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với
thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho cơng cuộc xây dựng nước nhà.
Trung học thì cần đảm bảo cho học trị những tri thức phổ thơng chắc chắn, thiết
thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào
không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi:
yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy
nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gị ép thiếu nhi vào khn khổ của người lớn. Phải đặc
biệt chú trọng giữ gìn sức khỏe cho các cháu”8.
Tiếp đó là giáo dục văn hóa. Giáo dục văn hoá nhằm đào tạo ra những con
người có tư duy sáng tạo, biết phát hiện và sáng chế ra những cái mới nhằm phục
vụ cuộc sống của con người. Với quan niệm đó, Hồ Chí Minh cho rằng “nội dung

8

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.8, tr.81

17


văn hố phải có tính giáo dục”, giáo dục là giáo dục văn hố, vì văn hố có vai trị
rất quan trọng trong mỗi đời sống con người và trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trước tiên phải giáo dục văn hoá truyền thống dân tộc cùng với sự tiếp thu một
cách có chọn lọc tinh hoa văn hố nhân loại. Giáo dục con người tồn diện thì cần
chú trọng giáo dục văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, đó là nền giáo dục văn hố lấy
con người làm trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội, tất cả vì con người, do
con người, nhằm xây dựng những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Theo Hồ
Chí Minh con người cần có trình độ học vấn, kiến thức văn hố nhất định mới có
thể tiếp thu được khoa học, công nghệ, mới sử dụng hiệu quả máy móc ngày càng
hiện đại, có thể nói văn hố là nền tảng của trí tuệ con người, là cơ sở để phát triển
con người về mọi mặt. Vì vậy, muốn phát triển trí tuệ của con người cần nâng cao
trình độ học vấn, văn hố cho mỗi người và tồn xã hội.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật
và nghề nghiệp cho thanh niên vì Người cho rằng: “chủ nghĩa xã hội cộng với khoa
học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận” 9. Người coi đây là điều
kiện quan trọng để thanh niên cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân
dân. Hồ Chí Minh vẫn nói với chúng ta rằng: Cơng việc ngày càng nhiều, so với
trước bây giờ cơng việc khó khăn hơn và và nhiều việc trước kia khơng có, mà bây
giờ phải làm. Xuất phát từ nhiệm vụ mới của cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo
để nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật và nghề nghiệp cho thế hệ trẻ. Theo quan
điểm của Người, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng đời sống mới, thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” cịn khó khăn, lâu dài hơn nhiều so với cuộc đấu

tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Chính vì thế, Bác Hồ thường căn dặn,
dạy bảo thanh niên phải “ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa
học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân
dân”. Và, làm nghề gì cũng phải học, mục đích của việc học khơng gì khác hơn là
để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống
9

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb CTQG, HN, 2011, t.9, tr.131

18


nhân dân ngày càng được ấm no, tươi vui. Một trong những nội dung về giáo dục
văn hoá, kỹ thuật được Người đề cập là bồi dưỡng thanh niên nâng cao kiến thức
các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kỹ thuật. Hơn thế nữa, Người thường
nhắc nhở những người làm công tác giáo dục và thanh niên trong khi giảng dạy,
học tập phải coi trọng các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kỹ thuật để có kiến
thức tồn diện, tham gia tốt nhất vào sự nghiệp xây dựng nước nhà.
Giáo dục toàn diện nhưng phải phù hợp với trình độ, lứa tuổi phải biết kết
hợp giữa lý luận và thực hành, lao động trí óc phải kết hợp với lao động chân tay
vì: Lao động trí óc mà khơng lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà khơng biết thực
hành thì cũng là trí thức có một nửa. Người cịn nhắc nhở thanh niên không được
lười biếng trong học tập, trong suy nghĩ và trong hành động. Vì việc học tập của
thế hệ trẻ rất quan trọng, học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho
nước nhà giàu mạnh và để làm tròn trách nhiệm của người chủ tương lai của đất
nước. Người cho rằng học tập là công việc suốt đời với mỗi thanh niên và cách tốt
nhất để nâng cao trình độ hiểu biết đáp ứng ngày càng cao của nhiệm vụ cách
mạng.
2.3. Giáo dục về thể lực, sức khỏe.
Hồ Chí Minh tiếp cận con người theo tinh thần mácxít, xem xét con người là

một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội, trong sự thống nhất giữa yếu tố
tự nhiên và xã hội. Vì vậy, theo Người, thể lực, sức khoẻ là rất quan trọng trong
đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Giáo dục con người toàn diện cần quan tâm
tới thể lực, sức khoẻ. Thể lực là mặt quan trọng trong đời sống mỗi con người và
cả cộng đồng, nó ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của con người, sức khoẻ
cũng vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến sức khoẻ cho mọi người
vì Người quan niệm rằng: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống
mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành cơng” 10. Để có một thể lực, sức khoẻ
10

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.4, tr.212

19


tốt thì chế độ dinh dưỡng, chăm sóc, vệ sinh, môi trường, khám chữa bệnh của
nhân dân, sự luyện tập thể dục, thể thao ở mỗi người là rất quan trọng.
* Rèn luyện thể dục, thể thao.
Nhân sinh vô bệnh thị chân tiên (người khơng bệnh tật có khác gì tiên), đó
là lời của Hồ Chí Minh chỉ tầm quan trọng của sức khoẻ như là tài sản quý báu của
con người. Thành niên là lực lượng quan trọng, đảm đương nhiệm vụ to lớn xây
dựng một xã hội tương lai, do đó, họ phải có sức khoẻ và trí tuệ thật tốt. Hồ Chí
Minh ln nhắc nhở thanh niên phải tích cực rèn luyện sức khoẻ và thể chất, bởi vì
thanh niên là tuổi phát triển mạnh mẽ nhất, nếu khơng thường xun luyện tập thì
sức khoẻ sẽ khơng tốt, dẫn đến trí tuệ kém phát triển, khả năng làm việc đạt hiệu
quả thấp. Hơn nữa, thanh niên dễ phung phí sức khoẻ khơng biết chăm lo giữ gìn
sức khoẻ cho mình, nên dễ bị mắc bệnh, làm tổn hại đến sự phát triển của cơ thể.
Vì vậy, phải coi trọng việc giáo dục sức khoẻ và thể chất cho thanh niên.
Hồ Chí Minh ln quan tâm, nhắc nhở phải rèn luyện tinh thần và lực lượng
để chuẩn bị làm chủ tương lai cho xứng đáng. Người dạy thanh niên phải giữ gìn

vệ sinh thật tốt và siêng tập thể thao để nâng cao sức khoẻ. Tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (2/11/1956), Người
căn dặn đoàn viên, thanh niên: Phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh. Khoẻ mạnh
thì mới có đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những cơng việc ích nước
lợi dân.
Một trong những yếu tố có ảnh hưởng rất to lớn đến thể lực và sức khoẻ của
con người là chất lượng cuộc sống. Vì vậy, để phát triển thể lực, sức khoẻ của con
người Việt Nam, Hồ Chí Minh quan tâm đầu tiên đó là việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và lãnh
đạo đất nước, Người hết sức quan tâm chăm lo đời sống vật chất của các tầng lớp
nhân dân, làm sao cho dân có ăn, có mặc, chỗ ở và học hành… khi nhân dân đã ổn
định về đời sống vật chất và tinh thần thì đó là điều kiện để phát triển các năng lực
khác. Đặc biệt là thanh niên, thế hệ trẻ đang trong lứa tuổi phát triển về thể lực, trí
20


tuệ…thì càng cần phải quan tâm những điều kiện về đời sống vật chất và tinh thần
để có thể phát triển tốt nhất.
Theo Hồ Chí Minh rèn luyện thể dục, thể thao hết sức quan trọng, là biện
pháp có tác dụng nâng cao thể lực, bảo vệ và phát triển sức khoẻ con người, nhất là
trong điều kiện Việt Nam. Vì vậy, ngay sau khi nước nhà giành độc lập, Hồ Chí
Minh đã ra lời kêu gọi tồn dân tập thể dục. Chỉ rõ mối quan hệ giữa luyện tập thể
dục, thể thao với sức khoẻ con người, Hồ Chí Minh viết: “Muốn giữ sức khoẻ thì
nên thường xuyên tập thể dục, thể thao” 11; phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh,
khoẻ mạnh thì mới đủ sức để tham gia một cách bền bỉ dẻo dai những việc ích
quốc lợi dân. Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng: “chúng ta nên phát triển phong trào
thể dục thể thao cho rộng khắp” và coi việc rèn luyện thân thể, luyện tập thể dục,
bồi dưỡng sức khoẻ là bổn phận của mỗi người yêu nước.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan niệm rằng: mỗi một người
dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe. Sau cách mạng Tháng tám năm 1945,

Hồ Chí Minh chú trọng tới việc tập thể dục thể thao để tăng cường sức khỏe và
Người cũng quan tâm tới việc giữ gìn sức khỏe cho nhân dân. Ngày 31/01/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 14, thành lập Nha Thể dục Trung ương thuộc
Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành TDTT ngày nay. Ngành TDTT mới ra đời
nhiệm vụ là liên lạc mật thiết với Bộ Y tế và Bộ Giáo dục để nghiên cứu phương
pháp và thực hành thể dục trong toàn quốc nhằm tăng cường sức khỏe quốc dân.
Để mở rộng các hoạt động TDTT và trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục thể chất
cho thế hệ trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là
cả nước yếu ớt; mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe. Vậy nên
tập luyện thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người dân u nước”12

11

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.10, tr.116

12

Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t.4, tr. 212

21


Chính việc tập luyện thể dục là bổn phận của mỗi người, lại khơng hề khó
khăn, tốn kém nên Người cho rằng: Gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm
được. Mỗi ngày lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục. Ngày nào cũng tập thì khí khuyết
lưu thông, tinh thần đầy đủ. Triết lý sâu xa nhất của việc rèn luyện thể thao theo
Người đó là “dân cường thì quốc thịnh”. Người đã động viên, mong mỏi đồng bào
cả nước ai cũng tập thể dục và Người làm gương trước quốc dân khi khẳng định
“tự tôi ngày nào cũng tập”.
Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Người đã có tác động sâu sắc tới mọi

giới, mọi nhà, mọi người dân. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dù ở
núi rừng Việt Bắc hay khi trở về thủ đô Hà Nội, ở đâu Người vẫn giữ được nếp
luyện tập thể dục hàng ngày, để lại tấm gương mẫu mực cho sự nghiệp thể dục thể
thao. Năm 1960, Người đã gửi thư tới Hội nghị cán bộ thể dục, thể thao toàn miền
Bắc nhắc nhở, động viên: “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt thì
cần có sức khỏe. Muốn giữ sức khỏe thì nên thường xuyên tập thể dục, thể thao. Vì
vậy, chúng ta nên phát triển phong trào thể dục, thể thao cho rộng khắp”. Ngày
nay, ai cũng biết tác dụng duy trì và giữ gìn sức khỏe của việc năng tập thể dục, thể
thao. Phong trào thể dục, thể thao của quần chúng càng phát triển thì bệnh tật sẽ
được kéo giảm, sức khỏe nhân dân được tăng cường góp phần hồn thành tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
* Giữ gìn vệ sinh, phịng bệnh.
Thực hiện giữ gìn vệ sinh, phịng bệnh, chăm sóc y tế là một điều kiện vơ
cùng quan trọng để phát triển thể lực, sức khoẻ con người tồn diện. Vì vậy, sinh
thời, để làm tốt cơng tác bảo vệ và phát triển sức khoẻ của nhân dân theo Hồ Chí
Minh cần phải làm tốt hai vấn đề cơ bản đó là vệ sinh phịng bệnh và chăm sóc,
cứu chữa người bệnh một cách chu đáo, có hiệu quả.
Với phương châm “phịng bệnh hơn trị bệnh”, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở
các tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành một mặt, phải giữ gìn mơi trường sống
sạch sẽ như trồng cây xanh, lấp các ao tù, nước đọng, tiêu diệt ruồi muỗi và các
22


côn trùng gây bệnh dịch: phải kết hợp việc tiêu diệt ruồi muỗi với công tác vệ sinh
khác như diệt chuột, quét nhà cửa, đường sá, lấp các vũng nước bẩn; mặt khác phải
thực hiện ăn sạch, ở sạch, uống sạch, mặc sạch thì mới khoẻ mạnh. Theo Người,
đây là những công viêc rất quan trọng không chỉ nhằm bảo vệ sức khoẻ cho nhân
dân mà còn liên quan đến văn hố và kinh tế. Vì vậy, cần phải gây dựng một phong
trào, vệ sinh phòng bệnh rộng khắp, bền bỉ phải phát động quần chúng, dựa vào lực
lượng của quần chúng thì mới có thể giải quyết tốt vấn đề vệ sinh, phòng bệnh, bảo

vệ và phát triển sức khoẻ của nhân dân.
2.4. Giáo dục về thẩm mỹ.
Giáo dục thẩm mỹ chủ yếu hướng vào việc phát triển tình cảm của con
người, tạo nên sự lớn mạnh và phong phú về tâm hồn của con người, tổ chức và
điều khiển hành vi ứng xử của con người theo tiêu chuẩn cái đẹp. Xây dựng con
người mới phát triển toàn diện, không thể không làm tốt việc giáo dục thẩm mỹ.
Giáo dục thẩm mỹ là nâng cao năng lực thẩm mỹ cho con người bằng việc hướng
vào các thị hiếu, các lý tưởng thẩm mỹ, hưởng thụ, đánh giá thẩm mỹ... Vì lẽ đó,
giáo dục thẩm mỹ khơng chỉ đánh thức năng lực sáng tạo tiềm ẩn của con người
mà cịn làm cho những kết quả sáng tạo đó có ích hơn, nhân văn hơn.
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của con người trong suốt tiến trình
phát triển của nó, các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực đã nhận thấy rằng, con
người khơng những có nhu cầu tồn tại mà cịn có nhu cầu phát triển vươn tới cái
hay, cái đẹp…Đó là đặc trưng cơ bản của con người, xã hội này càng văn minh thì
nhu cầu hướng tới cái đẹp càng cao. Trình độ thẩm mỹ, khả năng thưởng thức và
sáng tạo cái đẹp là một phẩm chất quan trọng của con người tồn diện, nó là sự
thăng hoa mang tính người sâu sắc nhất. Biết làm đẹp cho bản thân, cho xã hội,
khám phá ra những giá trị tốt đẹp, làm giàu tính nhân văn trong xã hội. Trong quá
trình vươn tới cái hay, cái đẹp cần phải đấu tranh chống những cái xấu xa, ích kỉ,
phản nhân văn…ảnh hưởng khơng tốt tới q trình phát triển của loài người, làm
cho mỗi con người tốt hơn, luôn hướng tới cái đẹp, để xây dựng một xã hội tốt đẹp.
23


Để giáo dục về trình độ, năng lực thẩm mỹ của con người tồn diện Việt Nam nói
chung và thanh niên, thế hệ trẻ nói riêng, Hồ Chí Minh cho rằng cần phải thực hiện
những vấn đề sau:
* Xây dựng định hướng thẩm mỹ đúng đắn
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục năng lực, nâng cao trình độ thẩm mỹ cho con
người Việt Nam trong thời đại mới là để họ hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn mối

quan hệ thẩm mỹ giữa con người với hiện thực, để phân biệt được cái gì đẹp, cái gì
khơng đẹp. Từ đó, khơng ngừng phấn đấu vươn tới cái đẹp, cái chân - thiện - mỹ
để hồn thiện bản thân, đồng thời góp phần xây dựng những quan hệ xã hội tốt đẹp
kiên quyết đấu tranh chống thói hư, tật xấu. Hơn thế nữa, với những hiểu biết ngày
càng cao các tri thức về mỹ học, mỗi con người có thể thẩm định, đánh giá đúng
đắn các cơng trình, tác phẩm nghệ thuật trong nước và thế giới, góp phần bảo tồn,
giữa gìn những giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại. Người đặc biệt quan tâm
tới giáo dục thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên, thanh niên, thế hệ trẻ, những người
chủ tương lai của đất nước. Từ đó, định hướng hành động luôn luôn hướng tới cái
đẹp, cái tốt, cái đúng, tránh xa cái xấu. Thanh niên luôn hướng tới tâm hồn rộng
lớn vì các giá trị cao đẹp của cuộc sống, dồn sức sống vào lòng tin, tài năng và
nghị lực phấn đấu cho sự giàu đẹp phồn vinh của tổ quốc. Xuất phát từ quan niệm
“Tuổi trẻ là mùa xuân của cuộc đời”, Người luôn hướng tuổi trẻ đến với cái đẹp
bởi vì theo người mùa xuân tạo nên cái đẹp của tuổi trẻ, bao hàm sức sống kỳ diệu,
hoài bão và ước mơ của cái đang sinh thành và phát triển. Chính các tố chất này lại
đang thơi thúc tuổi trẻ bởi vì họ mang trong mình một tình yêu say mê đối với cái
thiện, mỹ.
Xây dựng định hướng thẩm mỹ đúng đắn rất quan trọng đối với mỗi người,
càng quan trọng đối với con người toàn diện, con người xã hội chủ nghĩa. Từ việc
xây dựng định hướng thẩm mỹ sẽ hình thành nên một định hướng đúng đắn, phù
hợp với sự phát triển của xã hội, để con người lấy đó làm mục tiêu, phấn đấu
hướng tới.
24


Trong lịch sử, định hướng thẩm mỹ bao giờ cũng gắn với lý tưởng chính trị,
lý tưởng đạo đức của xã hội. Lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức của con người
Việt Nam là: xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới; rèn luyện
con người Việt Nam: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; một lịng, một dạ phục

vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Lý tưởng đó chi phối quan điểm thẩm mỹ của con
người cũng như định hướng cho mọi hoạt động văn hoá, nghệ thuật ở Việt Nam.
Định hướng thẩm mỹ của nhân dân ta, của nền nghệ thuật cách mạng mà Hồ Chí
Minh ln khẳng định là “dân tộc, khoa học, đại chúng”; “nội dung xã hội chủ
nghĩa và tính dân tộc, ngày càng phát triển mạnh mẽ”, phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân đi sâu vào đời sống nhân dân, phục vụ nhân dân…Hồ Chí Minh cho rằng
chỉ trên định hướng đó, con người Việt Nam mới nhận thức đúng đắn về cái đẹp,
cái tốt, cái đúng, cái cao cả…, qua đó nâng cao trình độ thẩm mỹ và năng lực sáng
tạo trong việc xây dựng những quan hệ xã hội mới giàu tính nhân văn cũng như tạo
ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị phục vụ đơng đảo nhân dân.
* Bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm mỹ.
Để giáo dục thẩm mỹ thành cơng thì cần phải bồi dưỡng những kiến thức về
thẩm mỹ để nâng cao trình độ thẩm mỹ. Con người có kiến thức thẩm mỹ đó sẽ là
cơ sở, công cụ để con người tiếp cận với những cái hay, cái đẹp, cái tốt của dân tộc
và nhân loại, khi tiếp cận được nhiều thì con người sẽ có vốn kiến thức thẩm mỹ
sâu rộng, có thể đánh giá đúng đắn mọi vấn đề và luôn luôn muốn hướng tới chân thiện - mỹ.
Khoa học mỹ học nghiên cứu và cung cấp cho con người những tri thức về
các quan hệ thẩm mỹ giữa con người với tự nhiên, xã hội, giữa con người với đồng
loại thông qua hàng loạt khái niệm, phạm trù, trong đó cái đẹp là trung tâm, được
biểu hiện tập trung nhất ở các hình tượng nghệ thuật. Tri thức mỹ học đóng vai trị
quan trọng, có ý nghĩa quyết định tính nhân văn trong nhận thức và hành động của
con người. Vì vậy, giáo dục, nâng cao năng lực thẩm mỹ của con người không thể
25


không bồi dưỡng cho họ sự hiểu biết về cái hay, cái đẹp, cái tốt,… trong đời sống
hiện thực và trong nghệ thuật. Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam, trình
độ dân trí thấp, Hồ Chí Minh đã chủ trương bồi dưỡng và nâng cao sự hiểu biết
thẩm mỹ cho con người không phải bằng các khái niệm, thuật ngữ khó hiểu mà
bằng phân tích, đánh giá, chỉ ra cho mỗi người thấy được cái hay, cái đẹp, cái đẹp

trong truyền thống văn hoá dân tộc, trong các tác phẩm nghệ thuật. Ví dụ như
“Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần
chúng. Các sáng tác rất hay mà lại ngắn…những sáng tác ấy là những hòn ngọc
quý”13; “tiếng Việt ta rất phong phú, ta phải làm giàu thêm cho tiếng Việt của ta” 14;
“nhân dân ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải
học cách kể chuyện của nhân dân, nên kèm theo nhiều tranh vẽ dễ hiểu mà đẹp”15
Người ca ngợi và chỉ ra vẻ đẹp giàu tính nhân văn cũng như khát vọng lớn
lao của nhân loại được thể hiện sinh động ở hình tượng con chim bồ câu hồ bình
do Picatxơ vẽ: “biểu tượng một cách rực rỡ lịng tin mãnh liệt…vào sự vươn tới
hồ bình khơng có gì ngăn cản nổi của nhân dân các dân tộc”16. Hơn nữa, Người
còn khẳng định phải ca ngợi, phải đề cao, cổ vũ những tập thể, cá nhân anh hùng
trong chiến đấu, sản xuất; những điển hình tiên tiến những người tốt, việc tốt trong
đời sống của xã hội ta hơm nay. Hồ Chí Minh cho rằng đó là những bông hoa rất
đẹp trong vườn hoa chung của dân tộc, từ đó, Người yêu cầu phải miêu tả cho hay,
cho chân thật, cho hùng hồn, những việc ấy bằng văn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng
các nghệ thuật khác…, ca tụng chân thật những người mới, việc mới chẳng những
để làm gương cho mọi người mà còn để giáo dục cho các thể hệ sau này. Đó là
cách tốt nhất để giáo dục thẩm mỹ, nâng cao sự hiểu biết của mỗi người Việt Nam
về cái hay, cái đẹp, cái đúng, từ đó định hướng, cổ vũ họ khơng ngừng vươn tới giá
trị cao đẹp của chân, thiện, mỹ.
* Phân biệt được cái đẹp, cái xấu.
13

Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN, 2011, t.9, tr. 250
Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN, 2011 , t.12, tr. 551-552
15
Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN, 2011 , t.12, tr. 553
16
Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN, 2011, t.10, tr.388
14


26


Trong giáo dục thẩm mỹ, mục đích quan trọng nhất là để con người toàn
diện hiểu được, phân biệt được đâu là đẹp, đâu là xấu. Từ phân biệt được cái đẹp,
cái xấu, thì con người mới biết hành động hướng tới cái đẹp, vì cái đẹp, đồng thời
đấu tranh loại bỏ cái xấu.
Mỹ học Mác – Lênin với tư cách là một ngành khoa học triết học, nghiên
cứu lĩnh vực thẩm mỹ như là biểu hiện chuyên biệt của các quan hệ giá trị của con
người đối với thế giới và lĩnh vực hoạt động nghệ thuật của con người. Mỹ học
Mác – Lênin đã vạch ra bản chất của cái thẩm mỹ trong đời sống, trong nghệ thuật,
đề ra nguyên tắc chung của việc chiếm lĩnh thế giới về mặt thẩm mỹ, phát hiện các
quy luật hoạt động thẩm mỹ của con người. Cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài,
cái cao cả và cái thấp hèn, cái anh hùng và cái đê tiện – đó là những thuộc tính có
thực của mọi sự vật, hiện tượng và tình huống trong hiện thực, được cảm nhận
bằng tình cảm thẩm mỹ và được biểu hiện trong những cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ.
Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng định hướng thẩm mỹ đúng đắn cũng như
bồi dưỡng, nâng cao không ngừng kiến thức mỹ học cho con người Việt Nam đều
nhằm mục đích là hướng nhận thức và hành động của con người tới cái hay, cái
đẹp, cái tốt, cái đúng, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại thói hư, tật xấu,
phản văn hố, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân…đó chính là phân biệt được
đâu là tốt, đâu là xấu. Thông qua cuộc đấu tranh bảo vệ cái đẹp, cái đúng, cái tốt
chống lại cái sai, cái xấu, những việc làm thiếu văn hố, …để xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp có giá trị thẩm mỹ cao trong quan hệ giữa con người với con người, giữa
cá nhân với cộng đồng xã hội. Vấn đề nay Hồ Chí Minh khẳng định các báo chí
phải khuyến khích người tốt, việc tốt và thẳng thắn, phê bình những điều xấu: lười
biếng, tham ơ, lãng phí, quan liêu; đối với những người có thói hư tật xấu đó phải
phê bình rất nghiêm khắc, làm cho xã hội ngày càng lành mạnh tốt đẹp hơn. Theo
Hồ Chí Minh, ca ngợi, đề cao những việc làm giàu tính thẩm mỹ hay phê phán

nghiêm khắc những hành động phản nhân văn đều nhằm mục tiêu “làm cho cái đẹp
nảy nở như hoa mùa xuân, cái xấu mất dần đi” và tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi
trong đời sống xã hội. Để khuyến khích, động viên, tạo điều kiện cho con người
27


×