Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Ths CTH sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở thành phố cần thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.7 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu........................................................................3
2.1. Nghiên cứu chung về phụ nữ, giới và phát triển, bình đẳng giới..................3
2.2. Nghiên cứu chung về công tác cán bộ, sự tham gia lãnh đạo, quản lý của
phụ nữ trong hệ thống chính trị...........................................................................4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................7
3.1. Mục đích nghiên cứu...................................................................................7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................7
4.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................7
4.2. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu..........................................8
7. Kết cấu của luận văn........................................................................................8
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ........................9
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM..................................................................................9
1.1.1. Khái niệm về lãnh đạo, quản lý.................................................................9
1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị...................................................................11
1.1.3. Khái niệm lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.............................12
1.1.4. Khái niệm sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống chính
trị cấp cơ sở.......................................................................................................13
1.2. SỰ CẦN THIẾT THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA PHỤ NỮ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ.................................................16
1.2.1. Sự cần thiết theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.................................................................................................................16
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về sự cần thiết
tham gia chính trị của phụ nữ............................................................................22
1.3. NỘI DUNG VÀ CHẤT LƯỢNG THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA
PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ......................................................28


1.3.1. Về số lượng và cơ cấu phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị............................................................................................................. 28
1.3.2. Chất lượng thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý...................................30


1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ..............................................31
1.4.1. Đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện của phụ nữ........................................31
1.4.2. Nhận thức, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán liên quan đến phụ
nữ và bình đẳng giới.........................................................................................32
1.4.3. Điều kiện kinh tế - xã hội........................................................................34
1.4.4. Văn hoá tổ chức và thái độ của giới lãnh đạo, quản lý............................35
Chương 2 THỰC TRẠNG THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA PHỤ
NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ THÀNH PHỐ CẦN THƠ
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY......................................................37
2.1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ THÀNH PHỐ
CẦN THƠ.........................................................................................................37
2.1.1. Yếu tố địa lý, tự nhiên.............................................................................37
2.1.2. Yếu tố kinh tế - xã hội.............................................................................38
2.1.3. Yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán......................................................39
2.1.4. Đặc điểm của phụ nữ thành phố Cần Thơ..............................................40
2.2. THỰC TRẠNG THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA PHỤ NỮ TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ THÀNH PHỐ CẦN THƠ.......................46
2.2.1. Nội dung tham gia lãnh đạo, quản lý.......................................................47
2.2.1.1. Tham gia cấp ủy cấp cơ sở........................................................47
2.2.1.2. Chính quyền cơ sở.....................................................................51
2.2.1.3. Các tổ chức chính trị - xã hội....................................................54
2.2.2. Về chất lượng tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở thành phố Cần Thơ..........................................................56

2.2.2.1. Ra quyết định lãnh đạo, quản lý của cá nhân..........................56
2.2.2.2. Tham gia vào việc hình thành quyết định, lãnh đạo quản lý..58
2.2.2.3. Tham mưu, tư vấn, thuyết phục..............................................59
2.2.2.4. - Huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện.................................59
2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ SỰ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ
CẦN THƠ.........................................................................................................64
2.3.1. Thiếu sự thống nhất về quyết tâm chính trị của cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương và cộng đồng..................................................................................65
2.3.2. Sự bất cập giữa chính sách và thực thi chính sách về phát huy vai trị của
phụ nữ............................................................................................................... 66


2.3.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu thực hiện chính sách với các điều kiện kinh tế văn hóa và xã hội để thực hiện..........................................................................68
2.3.4. Vấn đề đặt ra từ bản thân phụ nữ............................................................72
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỰ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY...................75
3.1. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ
NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP
CƠ SỞ VÀ GIẢI PHÁP VỀ SỰ VƯƠN LÊN CỦA BẢN THÂN PHỤ NỮ..........75
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH VỀ TẠO NGUỒN,
QUY HOẠCH, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ................................82
3.3. NHĨM GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÁC ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN...............85
3.4. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ...............................................................88
KẾT LUẬN............................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................94
PHỤ LỤC............................................................................................................... 99



DANH MỤC VIẾT TẮT
BCH
CNH, HĐH
ĐBSCL
HĐND
HTCT
LHPN
TP
UBND
VSTBPN

:
:
:
:
:
:
:
:
:

Ban chấp hành
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đồng Bằng Sơng Cửu Long
Hội đồng nhân dân
Hệ thống chính trị
Liên hiệp phụ nữ
Thành phố

Ủy ban nhân dân
Vì sự tiến bộ phụ nữ


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to
lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay
từ những buổi đầu lập nước, khi đất nước bị giặc ngoại xâm, bà Trưng, bà
Triệu đã dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi quân thù. Thế kỷ 20, qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ, lịch sử dân tộc lại ghi nhận hàng triệu tấm
gương phụ nữ không ngại gian khổ cống hiến cả cuộc đời cho độc lập, tự do
của Tổ quốc. Đảng, Bác Hồ đã phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng
“Anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đó khơng chỉ là sự khích lệ, động
viên mà còn là sự thừa nhận và đánh giá vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam.
Bước vào kỷ nguyên hội nhập quốc tế, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, phụ nữ Việt
Nam hiện nay năng động, sáng tạo góp phần vào sự phát triển chung của gia
đình và xã hội. Trong thời đại mới, bên cạnh vai trị quan trọng trong gia đình,
phụ nữ cịn tích cực tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngày càng
có nhiều người trở thành chính trị gia, nhà quản lý năng động và giữ những
chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn
tồn tại khoảng cách khá lớn về sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, đặc biệt là
trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia vào các vị trí ra
quyết định dường như còn khá khiêm tốn. Theo báo cáo của Liên minh Nghị
viện thế giới, tại thời điểm cuối 2011, tỷ lệ phụ nữ tham gia chính tại Việt
Nam đứng thứ 43 thế giới, giảm so với thứ 36 vào năm 2010 và 2009, thứ 33
năm 2008, thứ 31 năm 2007, thứ 25 so với năm 2006 và thứ 23 năm 2005.[1]
Thành phố Cần Thơ là thành phố trực thuộc trung ương, thuộc đồng

bằng Sông Cửu Long - vùng có q trình phát triển lâu đời về văn hóa và


2
truyền thống cách mạng, có sự phát triển khá cao về kinh tế, xã hội. Quán triệt
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về cơng tác cán bộ nữ, trong những
năm qua thành phố Cần Thơ luôn luôn đẩy mạnh việc phát huy vai trò cán bộ
nữ tham gia vào đời sống chính trị. Kết quả là tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý ở cấp cơ sở có xu hướng tăng. Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt trung
bình khoảng 19,6% (tăng 2,6%). Theo báo cáo của Ban VSTBPN thành phố, tỷ
lệ nữ được bầu vào cấp ủy nhiệm kỳ 2015 - 2020 cấp thành phố đạt 15,09%
(tăng 0,55 % so với nhiệm kỳ 2010-2015), cấp quận, huyện đạt tỷ lệ 21,02%
(tăng 5,83 %), cấp cơ sở chiếm 22,71% (tăng 3,39%). Tỷ lệ nữ là đại biểu
HĐND nhiệm kỳ 2011- 2016 cấp thành phố chiếm 23,64% (giảm 9,69%); cấp
quận, huyện đạt tỷ lệ 29,07% (tăng 4,59%), cấp xã 26,30% (tăng 4,96%) [2].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất cơ bản trong quá trình tiến tới
sự bình đẳng giới thì vai trị, vị thế của phụ nữ Cần Thơ trong nền chính trị
hiện đại vẫn còn hạn chế nhất định cả về số lượng và chất lượng so với nhiều
tỉnh, thành khác trong khu vực như: Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long,…
Số lượng, vị trí, chức vụ, năng lực và vai trị lãnh đạo, quản lý giữa nam và nữ
trong hệ thống chính trị vẫn còn chênh lệch khá lớn. Hơn nữa, bản thân đội
ngũ nữ cán bộ trong hệ thống chính trị cũng chưa phát huy được hết khả năng
của mình ở các vị trí lãnh đạo, quản lý. Tình trạng này ảnh hưởng không nhỏ
tới chất lượng nguồn nhân lực, ảnh hưởng tới việc bình đẳng giới. Điều này
có nghĩa là vấn đề bình đẳng giới trong hệ thống chính trị đang cần tiếp tục
quan tâm. Mặt khác, trên địa bàn TP.Cần Thơ chưa có một đề tài hoặc một dự
án nào đề cập đến với tư cách là một công trình nghiên cứu khoa học về sự
tham gia lãnh đạo, quản lý của nữ giới trong hệ thống chính trị. Đây là vấn đề
cần được giải đáp về mặt lý luận và phải được giải quyết trong hoạt động thực
tiễn nhằm nâng cao sự tham gia của phụ nữ vào cơng tác lãnh đạo, quản lý

trong hệ thống chính trị.
Vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở Thành phố Cần Thơ hiện nay” làm đề tài


3
luận văn tốt nghiệp nhằm góp phần nhỏ vào sự nghiệp bình đẳng giới trong lĩnh
vực lãnh đạo, quản lý ở địa phương nói riêng và của cả nước nói chung.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu chung về phụ nữ, giới và phát triển, bình đẳng giới
- Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng với cơng trình “Phụ nữ giới và phát
triển” [1] đã thực hiện nghiên cứu mối quan hệ giữa phụ nữ - giới và phát triển.
Các tác giả đi sâu phân tích vị trí, vai trò của phụ nữ trong đổi mới kinh tế - xã
hội gắn với vấn đề việc làm, thu nhập, sức khoẻ, học vấn chuyên môn; phụ nữ
quản lý kinh tế - xã hội; phụ nữ và gia đình; ảnh hưởng của chính sách xã hội đối
với phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới.
- Cơng trình nghiên cứu của Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch “Những
vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại” [31] đã nghiên cứu vấn đề giới từ tiếp
cận trong các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ
Chí Minh; đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam;
vấn đề giới trên một số phương tiện thông tin đại chúng. Đây chính là căn cứ
lý luận và thực tiễn về thực trạng quan hệ giới ở nước ta hiện hay.
- Cơng trình nghiên cứu “Khoa học giới - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch [54] đã cung cấp một bức
tranh lịch sử về sự phát triển của khoa học giới, đồng thời cơng trình
nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách tiếp cận trong các lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội (Chính trị, kinh tế, giáo dục, gia đình…).
Lê Thi với cơng trình nghiên cứu “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi
mới ở Việt Nam hiện nay” [49] đã vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước
để xem xét các vấn đề có liên quan đến bình đẳng giới thơng qua khảo sát, thu

thập thơng tin từ thực tiễn. Việt Nam là một nước đang xây dựng, phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về cơ bản nhà nước ta đã quan tâm và
tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển. Giải phóng phụ nữ không thể chỉ hiểu


4
đơn giản là vấn đề chính sách mà nó cịn ở cuộc sống thực tiễn. Theo tác
giả, nhiều nghiên cứu gần đây đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa nam và
nữ trong bộ máy lãnh đạo các cấp đồng thời bước đầu chỉ ra quan niệm,
định kiến giới của một số cán bộ chính quyền và người dân đối với việc
phụ nữ tham gia lãnh đạo. Sự hạn chế của phụ nữ trong giáo dục đào tạo,
việc bố trí sử dụng cán bộ nữ và việc giữ gìn, phát triển tiềm năng của phụ
nữ, tác động của phân công lao động bất bình đẳng hiện nay đến việc
nâng cao năng lực và trao quyền cho phụ nữ được tác giả đánh giá là có
nguyên nhân liên quan đến sự phân công lao động. Trên cơ sở này, tác giả
cũng đã nêu lên một số chính sách xã hội cần thiết nhằm xây dựng bình đẳng
giới trong tình hình mới.
2.2. Nghiên cứu chung về công tác cán bộ, sự tham gia lãnh đạo,
quản lý của phụ nữ trong hệ thống chính trị
Về cơng tác cán bộ trong HTCT Việt Nam nói chung có khá nhiều
cơng trình nghiên cứu:
- Võ Thị Mai với cơng trình “Vai trị của nữ cán bộ quản lý nhà nước
trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá” [41] đã làm rõ thực trạng và
xu hướng biến đổi vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Bên cạnh đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước trong giai đoạn
hiện nay.
- Cơng trình “Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý”, của Đỗ Minh
Cương [19] tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng u

cầu của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố; phân tích thực trạng và chỉ ra
ngun nhân của những yếu kém cần khắc phục, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong tình hình mới.


5
Trong khi đó, cơng trình “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ
trong hệ thống chính trị” của Đỗ Đức Hạt [27] lại góp phần làm sáng tỏ
những luận cứ khoa học, thực tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trị, năng lực
lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ trong HTCT ở Việt Nam trong tình hình mới;
đồng thời nhấn mạnh vấn đề quan tâm giải quyết nâng cao năng lực lãnh đạo
của cán bộ nữ trong HTCT, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
- Trần Thị Vân Anh với cơng trình “Những trở ngại đối với sự phấn
đấu của nữ lãnh đạo” [2] đã cung cấp những bằng chứng định tính về những
trở ngại chính đối với sự phấn đấu của nữ cán bộ lãnh đạo, bao gồm ảnh
hưởng của người có trách nhiệm, việc tạo nguồn và kiểm tra, đánh giá công
tác cán bộ nữ, trở ngại từ các quy định chính sách và ảnh hưởng của định kiến
và chuẩn mực cũ.
- Cơng trình nghiên cứu,“Những rào cản đối với phụ nữ khi tham gia
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân” của Phạm Thu Hiền [27] đã chỉ rõ
những rào cản đối với phụ nữ trong quá trình tham gia ứng cử vào Hội đồng
nhân dân các cấp như: Nhận thức, năng lực, cách thức và thủ tục bầu cử, văn
hố và lối suy nghĩ truyền thống.Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm
tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Phạm Thị Thu Hà với cơng trình nghiên cứu “Định kiến giới đối với
nữ giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý” [25] cũng đã chỉ ra những vấn đề
định kiến giới ẩn sâu trong văn hóa, hành vi và thái độ ứng xử của các cá
nhân từ gia đình tới xã hội. Đồng thời tác giả cững đề xuất một số giải pháp
và kiến nghị nhằm thay đổi nhận thức, hành vi và thái độ đối với phụ nữ, nhất

là trong quá trình tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ.
- Cơng trình nghiên cứu “Sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản
lý ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay” của Lê Thị Bích Tuyền [55] đã nhận diện
những yếu tố tác động đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh của phụ nữ
ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay. Từ sự phân tích từ góc độ tiếp cận quyền (cơ sở


6
pháp lý) đến sự chủ động của phụ nữ trong tiếp cận, hưởng lợi quyền tham gia
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; Chỉ ra các nguyên nhân dẫn tới
thực trạng tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ các cấp cịn thấp, từ đó nêu
các biện pháp khắc phục tình trạng này là bên cạnh việc tạo cơ hội, điều kiện
từ phía thể chế, nam giới, gia đình và cộng đồng thì bản thân phụ nữ cần khắc
phục khó khăn, rào cản, chủ động hơn nữa trong q trình tham chính.
Ngồi ra, cịn các báo cáo nghiên cứu có liên quan đến chủ đề giới ở
Việt Nam cũng nêu ra vấn đề sự tham gia hoạt động chính trị của phụ nữ.
Trong số các báo cáo đó phải kể đến báo cáo của Ủy ban Quốc gia vì sự tiến
bộ của phụ nữ (NCFAW 2000, 2003) [58]. Trong báo cáo “Phân tích tình hình
và đề xuất chính sách nhằm tăng cường tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới
ở Việt Nam” (2000) và “Hướng tới bình đẳng giới ở Việt Nam thơng qua chu
trình chính sách quốc gia có trách nhiệm giới” (2003), NCFAW đã xem xét
thực trạng phụ nữ Việt Nam tham gia lãnh đạo chính trị và vấn đề bất bình
đẳng giới trong lĩnh vực này. Ủy ban đã nêu ra một số ngun nhân dẫn đến
bất bình đẳng giới trong chính trị, chủ yếu là các vấn đề mang tính văn hóa,
nhưng lại không đề cập đến các bằng chứng minh họa cho những nguyên
nhân đó. Các can thiệp về mặt thể chế đã được đề cập nhưng các báo cáo này
chưa lý giải được một cách thuyết phục về mối liên hệ giữa các nguyên nhân
và giải pháp cho thực trạng bất bình đẳng đó, do khơng đưa ra những cơ sở lý
luận phù hợp.
Ngoài ra, một số tổ chức tài trợ như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế

giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, DFID, CIDA… cũng xuất bản các báo
cáo định kỳ về tình hình giới ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề phụ nữ trong
lãnh đạo chính trị chỉ được đề cập rất ít trong các báo cáo này.
Các cơng trình nghiên cứu với các nhóm đề tài nêu trên đã đề cập đến
vấn đề giới, vai trò của bình đẳng giới đối với sự phát triển xã hội nói chung
trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hố, xã hội, gia đình... Song chưa làm sáng tỏ


7
những luận cứ khoa học và thực tiễn về vị trí, vai trị, năng lực lãnh đạo, quản
lý của cán bộ nữ trong HTCT đặc biệt là ở cấp cơ sở, chưa phân tích sâu sắc
vấn đề định kiến giới đối với cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, nhất là ở
địa bàn thành phố Cần Thơ. Vì vậy, tác giả cho rằng đây là một khía cạnh mới
trong nghiên cứu về sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong trong xây
dựng và củng cố HTCT cấp cơ sở hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ
thống chính trị và phân tích thực trạng sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ
nữ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở thành phố Cần Thơ, luận văn đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở của phụ nữ thành phố Cần Thơ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ
nữ trong hệ thống chính trị;
- Phân tích thực trạng tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở Thành phố Cần Thơ và những vấn đề đặt ra;
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm tăng quy mô và chất lượng tham gia
của phụ nữ vào lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Thành
phố Cần Thơ hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở ở Thành phố Cần Thơ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu cán bộ nữ đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
hoặc trong diện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống chính trị cấp cơ sở.


8
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu sự tham gia lãnh đạo,
5.
6. Cơ
Ý nghĩa
sở lý khoa
luận và
họcphương
và thựcpháp
tiễn của
nghiên
đề tài
cứunghiên cứu
quản lý của phụ nữ trong HTCT cấp cơ sở trên địa bàn Thành phố Cần Thơ.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong HTCT cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) ở Thành phố Cần Thơ từ năm 2006
đến 2016 (dựa trên kết quả khảo sát một số xã, phường ở thành phố Cần thơ).
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phụ nữ lãnh đạo, quản lý.
- Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng,

chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp cơ bản như: lơgíc - lịch sử,
phân tích - tổng hợp. Ngồi ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê,
điều tra xã hội học.
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong
HTCT cấp cơ sở ở thành phố Cần Thơ hiện nay. Qua đó, đề xuất những giải
pháp tăng tỷ lệ và nâng cao chất lượng tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ
trong HTCT cấp cơ sở ở Cần Thơ.
- Luận văn góp phần cung cấp những luận cứ thực tiễn cho việc hoạch
định, thực hiện chính sách về phụ nữ, bình đẳng giới, đặc biệt là chính sách
cán bộ nữ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở thành phố Cần Thơ.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến vấn đề phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý, bình đẳng
giới... chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các ngành khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn


9
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 12 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Khái niệm về lãnh đạo, quản lý
Hoạt động lãnh đạo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp
hay lao động chung nào tiến hành trên quy mơ tương đối lớn, thì ít nhiều cũng
cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa hoạt động của các cá nhân và thực hiện
những chức năng, nhiệm vụ chung. Người đứng đầu - chỉ huy giữ vai trò quyết

định đến hiệu quả của hoạt động chung đó.
Về khái niệm lãnh đạo, cho đến nay có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa
khác nhau.
Trong một số từ điển, khái niệm lãnh đạo được giải thích như sau: Đại từ
điển tiếng Việt, lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể
(lãnh đạo cuộc đấu tranh); cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả năng
tổ chức dẫn dắt phong trào [63, tr.979]. Từ điển tiếng Việt, lãnh đạo là: "đưa
đường chỉ lối cho người khác hành động; đưa ra ý kiến, định ra phương pháp
hành động để huy động lực lượng quần chúng, đưa quần chúng từ chỗ rời rạc
đến chỗ có tổ chức, có sức mạnh, để quần chúng tự giác thực hiện chủ trương
của mình" [47, tr.707].
Trong các khoa học chuyên ngành, khái niệm lãnh đạo được giải thích:
Tập bài giảng Khoa học giới, nhóm tác giả của Viện Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: lãnh đạo là sự


10
"dẫn lối, chỉ đường" cho một nhóm, một cộng đồng hoạt động để đi đến mục
tiêu đề ra. Lãnh đạo có chức năng vạch ra đường hướng, chiến lược tổng thể cho
hoạt động của cộng đồng, xã hội.
Trong khoa học chính trị, lãnh đạo là sự dẫn dắt xã hội bằng chính trị và
đạo đức của người đứng đầu; là một chức năng cơ bản của đảng cầm quyền, lãnh
tụ quốc gia nhằm đưa đất nước tới các mục tiêu nhất định bằng cương lĩnh,
đường lối chính trị, các chiến lược phát triển, công tác tổ chức - cán bộ; chủ thể
lãnh đạo là những cá nhân, tổ chức có quyền lực cao nhất trong một HTCT, thể
chế; chủ thể lãnh đạo có thẩm quyền cao hơn, lớn hơn các chủ thể quản lý.
Trong khoa học quản lý, khái niệm lãnh đạo được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa
hẹp, lãnh đạo là một chức năng của quản lý, cùng các chức năng có tính nghề
nghiệp khác là hoạch định (dự báo, lập kế hoạch), chức năng tổ chức (nhân lực, vật
lực, tài lực) và chức năng kiểm tra, giám sát. Theo nghĩa rộng, lãnh đạo được hiểu

là thẩm quyền, chức năng của nhà quản lý đứng đầu một tổ chức, người chịu trách
nhiệm toàn bộ và cuối cùng về hoạt động của tổ chức đó.
Từ đó cho thấy, trên các phương diện nghiên cứu khác nhau, khái niệm lãnh
đạo có nội hàm khơng hồn tồn đồng nhất, điểm chung trong các quan niệm lãnh
đạo đó là sự dẫn dắt hoạt động xã hội của một cá nhân, tập thể nhằm đạt những mục
tiêu đề ra.
Từ góc độ chính trị - xã hội, theo tác giả luận văn, lãnh đạo là việc tổ
chức và định hướng chung cho hoạt động của con người trong một tập thể, cộng
đồng bằng năng lực, phẩm chất của các chủ thể nhằm liên kết thực hiện các chủ
trương, đường lối đã xác định để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Về khái niệm quản lý: có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau
khi bàn về khái niệm quản lý.
Trong các từ điển, khái niệm quản lý được giải thích như sau: Từ điển
tiếng Việt, quản lý là trơng coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định; tổ chức
và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định (người quản lý) [47,


11
tr.772]. Đại từ điển tiếng Việt, quản lý là: Tổ chức, điều khiển hoạt động của
một đơn vị, một cơ quan (cán bộ quản lý); trơng coi, giữ gìn và theo dõi việc gì
[63, tr.1363].
Trong các khoa học chuyên ngành, khái niệm quản lý được giải thích:
Nhóm tác giả của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh trong Tập bài giảng Khoa học giới cho rằng: quản lý là
hoạch định, tổ chức, chỉ đạo và kiểm sốt cơng việc, khai thác các nguồn lực
nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý có chức năng xây dựng cách thức, biện
pháp hoạt động cụ thể để thực hiện đúng hướng mà lãnh đạo đã vạch ra.
Từ phương diện chính trị - xã hội, theo tác giả, Quản lý là việc điều hành
và kiểm soát thực hiện các hoạt động trong tổ chức theo yêu cầu nhất định nhằm
đạt được mục tiêu mà lãnh đạo đã đề ra.

1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị bao gồm tồn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để
thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị.
Trong chế độ dân chủ, các thành viên của xã hội cũng như các tổ chức xã
hội đều được tham gia ở mức độ nhất định hoạt động chính trị. Nhưng khơng
phải vì thế mà các tổ chức xã hội đó đều được gọi là các tổ chức chính trị. Chỉ
những tổ chức được lập ra chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị thì mới gọi
là tổ chức chính trị. Tổ chức chính trị có thể thực hiện các hoạt động khác nhưng
đó khơng phải nhiệm vụ cơ bản của nó.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong
xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp
với lợi ích của giai cấp cầm quyền.


12
Trong các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực chính trị, tổ chức và quản lý
xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị.
1.1.3. Khái niệm lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
Lãnh đạo, quản lý trong HTCT là hai khái niệm có mối quan hệ biện
chứng với nhau, vừa có những điểm tương đồng, vừa có những điểm khác biệt.
Điểm tương đồng giữa lãnh đạo và quản lý: lãnh đạo và quản lý gắn chặt
với nhau trong hoạt động của HTCT. Quản lý mà không theo đúng phương
hướng, mục tiêu của lãnh đạo vạch ra sẽ mất phương hướng, dẫn đến sự rối loạn
xã hội; ngược lại thiếu sự quản lý một cách khoa học, không có hiệu lực, hiệu
quả thì những mục tiêu do lãnh đạo vạch ra sẽ không trở thành hiện thực.

Xét về chủ thể hoạt động, sự đồng nhất giữa lãnh đạo và quản lý ở chỗ
một nhà lãnh đạo cũng có thể là một nhà quản lý, đồng thời một nhà quản lý cấp
cao có thể được coi là một nhà lãnh đạo, do vậy trong thực tế chúng ta thường
dùng khái niệm lãnh đạo, quản lý để chỉ chung cho người lãnh đạo.
Trong HTCT, lãnh đạo và quản lý giống nhau ở chỗ là đều phải ra các
quyết định, hình thành mạng lưới liên kết các cá nhân trong tổ chức và xây dựng
các mối quan hệ nhằm thực hiện các đường lối, chủ trương, mục tiêu đã đặt ra,
sau đó tổ chức điều hành và giám sát thực hiện công việc trên thực tế theo mục
tiêu đã định. Hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý đều phải được thực hiện
trên cơ sở khoa học và mang tính nghệ thuật. Xét đến tính mục đích thì cả hai
khái niệm lãnh đạo và quản lý lại có điểm tương đồng đó là đều phục vụ mục
tiêu cuối cùng của tổ chức.
Điểm khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý đã được hiến định ở Hiến pháp
nước ta, trong đó xác định rõ cơ chế lãnh đạo, quản lý tổng thể ở Việt Nam là
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó có nghĩa là chức
năng lãnh đạo thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam với nhiệm vụ là vạch ra
đường lối, xác định đường đi nước bước trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và


13
phát triển đất nước; chức năng quản lý thuộc về Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với nhiệm vụ là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng
thành hệ thống pháp luật và chính sách để điều hành đất nước trong tiến trình
phát triển chung, nhân dân là chủ thể trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện mọi
quyền và nghĩa vụ của mình trong xã hội thông qua Đảng và Nhà nước. Sự
khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý còn biểu hiện cụ thể ở nội dung và tính chất
cơng việc.
Về mặt lý thuyết, sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý chỉ là tương đối,
bởi vì nó tùy thuộc vào góc độ và những lát cắt tiếp cận nghiên cứu khác nhau.
Có người là lãnh đạo một đơn vị nhưng cũng là cán bộ quản lý dưới quyền của

lãnh đạo cấp trên. Điểm phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý chính là ở chỗ người
lãnh đạo tập trung nhiều vào những mục tiêu, kế hoạch dài hạn, đưa ra các định
hướng, các chiến lược thay đổi ở tầm vĩ mô, đồng thời chỉ cho các cá nhân thấy
được ý nghĩa của sự thay đổi cũng như thu hút sự cố gắng của mọi người trong
việc thừa nhận, ủng hộ những thay đổi đó. Trong khi đó, người quản lý thường
tập trung vào những mục tiêu ngắn hạn và trung hạn, phát triển các kế hoạch và
hành động cho phép các cá nhân có liên quan biết họ cần làm gì và làm như thế
nào, ai sẽ làm cái gì, quá trình thực hiện công việc sẽ được giám sát như thế nào
và cách thức giải quyết vấn đề phát sinh.
1.1.4. Khái niệm sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở
Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn ở nước ta hiện nay được hiểu
theo nghĩa là cấp thấp nhất của HTCT. Khái niệm "cấp cơ sở" và "hệ thống
chính trị cấp cơ sở" được xem xét trên quan điểm xã hội học chính trị và quản
lý xã hội. Cấp cơ sở không được hiểu là một đơn vị cơ sở bất kỳ nào như cơ
quan, công sở, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu hay gia đình mà được
hiểu với tư cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành
chính nhà nước bốn cấp hiện hành. Cấp cơ sở chính là xã, phường, thị trấn, là


14
cấp cuối cùng của quản lý nhà nước. Phường là cấp cơ sở ở đô thị, được đặc
trưng với cách thức quản lý đô thị, xã và thị trấn là cấp cơ sở ở khu vực nông
thôn. Đây là một địa bàn rộng lớn, chiếm đa số trong tổng số đơn vị cấp cơ sở
ở nước ta. Khi nói đến cấp cơ sở, chúng ta cần nhấn mạnh đến những đặc
trưng sau: [12, tr.177].
Thứ nhất, cấp cơ sở là nơi sát nhất và gắn liền với dân. Cơ sở là cấp
thấp nhất trong các cấp quản lý của hệ thống chính quyền Nhà nước nhưng lại
là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội.
Thứ hai, là nơi diễn ra cuộc sống của người dân, nơi chính quyền và

các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và triển khai các phong trào của
cộng đồng dân cư để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ
của mình. Có thể nói, "quan hệ và thái độ của dân đối với thể chế ở cơ sở cho
thấy rõ nhất hiện trạng của thể chế nói chung". Do vậy, "mấu chốt của cơ sở là
chất lượng cán bộ, là hiệu quả hoạt động của HTCT sao cho giữ được dân,
làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, sinh sống, cố kết cộng đồng, quan tâm
và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội, phát triển sức dân" [12, tr.177-178].
Thứ ba, cấp cơ sở là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô
phải tác động tới. Đường lối, nghị quyết và luật pháp có đi vào cuộc sống hay
khơng là phụ thuộc vào cơ sở. Đó là nơi quyết định sự thành cơng hay khơng
của mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Đối với cơ sở cần phải nhận được sự đặc biệt quan tâm một cách thường
xuyên, không xao lãng. "Thực chất của mất cơ sở là mất dân mà khởi đầu của
sự mất dân là do cán bộ xa dân" [12, tr.179]. Do vậy, công tác cán bộ ở cơ sở
càng đặc biệt quan trọng.
Thứ tư, cơ sở không phải là cấp hoạch định đường lối, chính sách mà là
cấp hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết, chính sách vào
cuộc sống. Vì vậy, năng lực và vai trị của cán bộ cơ sở là năng lực, vai trò
thực hành, tổ chức công việc và thường xuyên tuyên truyền, vận động, giáo


15
dục quần chúng.
Sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống chính trị
cấp cơ sở là nói đến đội ngũ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong
HTCT ở xã, phường, thị trấn. Họ là cơng dân Việt Nam (giới tính nữ), có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được bổ nhiệm hoặc được bầu ra để giữ
một chức vụ nhất định; có quyền hạn và trách nhiệm trong khối các cơ
quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương thực
hiện chức năng lãnh đạo, quản lý các hoạt động trong tổ chức mình và quy

tụ sức mạnh của tập thể để thực hiện mục tiêu chung đã đề ra.
Có thể hiểu phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong HTCT cấp cơ sở là
những cán bộ được giao một chức trách cụ thể, có chức năng, nhiệm vụ triển
khai thực hiện chủ trương, nghị quyết của cấp trung ương xuống đến cơ sở; chịu
trách nhiệm tham gia xây dựng các chủ trương, kế hoạch cũng như kiểm tra,
giám sát mọi lĩnh vực hoạt động diễn ra trên địa bàn cơ sở theo đúng định hướng
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhằm hoàn thành các nhiệm vụ chính trị ở
địa phương. Qua đó, tổng hợp, đúc kết và phát hiện những vấn đề mới nảy sinh
từ thực tiễn sinh động ở cơ sở để giúp cấp trên hoạch định, bổ sung, hoàn thiện
đường lối, chủ trương lãnh đạo, quản lý cho phù hợp với thực tế sinh động và
luôn biến đổi của đời sống ở địa phương, cơ sở.
Sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong HTCT cấp cơ sở ở thành
phố Cần Thơ là nữ giới có trình độ chun mơn, nghiệp vụ được bổ nhiệm hoặc
được bầu ra để giữ một chức vụ nhất định; có quyền hạn và trách nhiệm trong
khối các cơ quan Đảng, Chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở
xã/phường/thị trấn trên địa bàn thành phố Cần Thơ thực hiện chức năng lãnh
đạo, quản lý các hoạt động trong tổ chức mình và quy tụ sức mạnh của tập thể để
thực hiện mục tiêu chung đã đề ra.
Những cán bộ này có trách nhiệm chỉ huy, điều hành, tổ chức mọi hoạt
động theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó ln phát huy


16
sức mạnh đoàn kết ở đơn vị, địa phương, phát huy trí tuệ của tập thể cùng góp
phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phịng, trật
tự an tồn xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa
bàn. Đồng thời, là người đại diện cho địa phương chịu trách nhiệm trước cấp
trên về mọi hoạt động, sự đóng góp theo nghĩa vụ của địa phương với cấp
trên.
Sự nghiệp CNH, HĐH ở thành phố Cần Thơ phụ thuộc rất lớn vào trình

độ, năng lực, kỹ năng tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ của đội ngũ
cán bộ trong vùng nói chung, phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong HTCT
cấp cơ sở nói riêng. Vì vậy, địi hỏi phải xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ năng
lực, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, trình độ chun mơn, chun
nghiệp cao, có tư duy đổi mới và tầm nhìn năng động - nhạy bén, kiên quyết,
sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, tận tụy phục vụ nhân dân. Từ đó mới thực
hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ của HTCT cấp cơ sở và của mỗi tổ chức thành
1.2. SỰ CẦN THIẾT THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA PHỤ NỮ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ

1.2.1. Sự cần thiết theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trị của phụ nữ
trong lĩnh vực chính trị - xã hội
Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, lồi người muốn tồn tại và phát
triển trước hết phải sản xuất ra của cải vật chất. Phụ nữ là một lực lượng quan
trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động. Bằng lao động của mình,
phụ nữ khơng những đã góp phần tạo ra của cải vật chất và tinh thần, mà cịn
tham gia tích cực vào cơng cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, các
phong trào nổi dậy của những người bị áp bức bóc lột. Trên mọi bình diện của
đời sống xã hội, phụ nữ đều có vai trị to lớn.


17
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: "Trong lịch sử nhân loại, không một
phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà khơng có phụ nữ tham
gia, phụ nữ lao động là những người bị áp bức nhất trong những người bị áp
bức" [14, tr.60], vì vậy, khơng bao giờ họ đứng ngồi và cũng khơng thể đứng
ngồi các cuộc đấu tranh.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải

phóng dân tộc và giải phóng con người. Nếu dân tộc đã được giải phóng rồi,
phụ nữ có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời phụ nữ phải có trách nhiệm phát triển kinh tế - xã hội. Nói cách khác,
theo Ăngghen: "giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đều
khơng thể có được và mãi mãi khơng thể có được, chừng nào mà phụ nữ vẫn
cịn bị gạt ra ngồi lao động sản xuất xã hội, cịn phải bị bó hẹp trong cơng
việc riêng tư của gia đình" [15, tr.116].
Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ:
Trong xã hội có đối kháng, phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của sự áp bức giai
cấp và sự bất bình đẳng trong gia đình và ngồi xã hội. Sự ra đời của chế độ
tư hữu dẫn đến tình trạng áp bức, nơ dịch của giai cấp có của đối với giai cấp
khơng có của, từ đây, trong gia đình người phụ nữ trở nên hồn tồn lệ thuộc
vào kinh tế, phải phục tùng tuyệt đối quyền lực của người chồng.
Như vậy, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, xã hội cần phải giải
phóng phụ nữ khỏi sự ràng buộc gia đình, phải làm cho phụ nữ và nam giới
bình đẳng bằng cách lơi cuốn phụ nữ tham gia công việc xã hội. Phụ nữ là
nguồn nhân lực quan trọng để phát triển xã hội. Sự tiến bộ của một quốc gia
cịn thể hiện ở chỗ vị trí của phụ nữ trong quốc gia đó được xem xét, đánh giá
như thế nào. Bên cạnh đó, các ơng đã đánh giá cao vai trò của những người
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội: Tất cả
mọi người lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên


18
quy mơ tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều
hòa những hoạt động cá nhân...
Lênin đánh giá rất cao tiềm năng, vai trò của phụ nữ trong cách mạng:
"Một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thành công nếu không có
một phần phụ nữ lao động tham gia rộng rãi" [59, tr.18], "không thể nào xây
dựng được ngay cả chế độ dân chủ - chứ đừng nói đến chủ nghĩa xã hội nữa,

nếu phụ nữ không tham gia công tác xã hội, đội dân cảnh, sinh hoạt chính
trị..." [60, tr.418]; "Nếu một phần lớn phụ nữ lao động không tham gia một
cách tích cực thì khơng thể có cách mạng xã hội chủ nghĩa được" [62, tr.220].
Theo Lênin, công cuộc giải phóng phụ nữ là hết sức khó khăn và phức tạp. Thực
hiện cơng cuộc giải phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia của người dân trong
đó có phụ nữ vào quản lý đất nước, quản lý xã hội chính là để phát huy vai trị, vị
thế của phụ nữ trong gia đình cũng như ngồi xã hội. Bởi vì, khả năng của họ có
ảnh hưởng rất quan trọng đến nguồn lực cách mạng, có mối liên quan mật thiết
với sức mạnh nhân dân: "Không lôi kéo được phụ nữ vào cơng việc chính trị thì
khơng thể lơi kéo được quần chúng nhân dân vào cơng việc chính trị được" [59,
tr.13]. Từ đó, Người cũng xác định rõ trách nhiệm của Đảng, Nhà nước là phải
lôi cuốn, thúc đẩy mọi phụ nữ tham gia chính trị, quản lý nhà nước Xô - viết:
"Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho chính trị trở thành cơng việc mà mỗi
người phụ nữ lao động đều có thể tham dự" [61, tr.101].
Trong bức thư "Gửi nữ công nhân" viết năm 1920, Lênin tố cáo pháp
luật tư sản giành đặc quyền cho nam giới và đặt phụ nữ vào tình trạng khơng
bình đẳng với nam giới. Do đó, để tiến tới giải phóng phụ nữ thì một trong
những bước đầu tiên phải thực hiện là chính quyền Xơ Viết hủy bỏ tất cả pháp
luật tư sản và đưa pháp luật tôn trọng bình đẳng nam và nữ. Song theo Lênin
như thế vẫn chưa đủ, cần phải tạo bình đẳng trên thực tế, tức là: "Bình đẳng
về mặt pháp luật vẫn chưa phải là bình đẳng trong thực tế đời sống... Muốn
vậy, phải làm sao cho nữ công nhân ngày càng tham gia nhiều hơn nữa vào


19
cơng việc quản lý các xí nghiệp cơng cộng, vào quản lý nhà nước" [62, tr.182183]. Lênin tin tưởng rằng "Trong khi quản lý, phụ nữ sẽ học tập nhanh chóng
và đuổi kịp nam giới". Do vậy, Người yêu cầu mọi người cần ủng hộ phụ nữ
tham gia quản lý nhà nước nếu họ có đức, có tài.
Lênin đánh giá cao khả năng vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa vì theo Người, kinh nghiệm của tất cả các phong trào

giải phóng chứng tỏ rằng cách mạng muốn thắng lợi là tùy thuộc vào mức độ
tham gia của phụ nữ. Bởi vậy, trên thực tế chính quyền xơ - viết đã làm hết
sức mình để lôi cuốn phụ nữ tham gia công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội nhằm từng bước giải phóng phụ nữ. Ngồi ra, Lênin cịn nhấn mạnh: Phụ
nữ chỉ được giải phóng, được phát triển khi họ nhận thức được vị trí, vai trị,
khả năng của mình và có ý chí phấn đấu cho sự nghiệp cao cả ấy, việc giải
phóng lao động nữ phải là việc của bản thân phụ nữ. Để thực hiện được sự
nghiệp giải phóng, chính bản thân phụ nữ phải ra sức học tập, nâng cao trình
độ, nhanh chóng đuổi kịp nam giới. Chỉ có học tập với trình độ cao thì phụ nữ
mới thực hiện tốt vai trò và phát huy tốt khả năng của mình trong gia đình và
ngồi xã hội.
1.2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của phụ nữ trong tham gia
đời sống chính trị
Là học trị xuất sắc của C.Mác và Lênin, am hiểu lịch sử dân tộc và trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
rằng: "Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt
thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" [33, tr.432].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm tới phụ nữ cũng như vai
trị của cơng tác cán bộ nữ. Người coi đây là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược,
quyết định sự thành bại của Đảng, của cách mạng.
Trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến, những luật lệ hà khắc và cổ hủ đã
trói buộc thân phận người phụ nữ Việt Nam, khiến họ không có vị trí trong xã


20
hội cũng như trong gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất thấu hiểu và cảm
thông sâu sắc với nỗi khổ đau của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ xã hội cũ:
"Dưới chế độ phong kiến và thực dân, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài xã hội thì
phụ nữ bị xem khinh như nơ lệ. Ở gia đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích
tam tịng" [33, tr.661]. Chính vì vậy, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người

ln coi trọng sự bình đẳng với nam giới về vị trí cũng như quyền lợi của phụ nữ
Việt Nam. Trong tư tưởng của Người, giải phóng phụ nữ - bản thân nó cũng là
một cuộc cách mạng. Nhiệm vụ của cách mạng không chỉ là giành độc lập cho
dân tộc, ruộng đất cho nông dân nghèo, các sản nghiệp lớn cho công nhân, các
quyền tự do dân chủ cho nhân dân, mà còn nhằm "thực hiện nam nữ bình
quyền".
Người chỉ rõ sự tham gia ngày càng đông đảo và hiệu quả của phụ nữ
cùng với nam giới là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của cách
mạng, đẩy nhanh sự phát triển tiến bộ của xã hội. Người luôn đặt niềm tin vào
vai trò của phụ nữ Việt Nam: "Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là
khơng có đàn bà, con gái tham gia" và "An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới
tham gia mới thành cơng" [28, tr.289].
Hồ Chí Minh đánh giá cao lực lượng và khả năng của phụ nữ Việt
Nam. Người chỉ rõ, với truyền thống đấu tranh anh dũng kiên cường chống
lại sự xâm lược của kẻ thù, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản
xuất, hy sinh cho cuộc sống gia đình, ý chí nỗ lực vươn lên trong cơng tác,
phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh bảo
vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước.
Để thu hút phụ nữ tham gia cơng việc xã hội, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp cách mạng, theo Người phải thực hiện giải phóng phụ nữ, thực
hiện nam nữ bình quyền, quan tâm đặc biệt đến cơng tác cán bộ nữ. Giải
phóng phụ nữ là nhằm phát triển năng lực cá nhân phụ nữ, giải phóng phụ
nữ gắn với giải phóng xã hội. Đây là cuộc cách mạng to và khó, cho nên


21
phải gắn với sự tiến bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật ở nước ta.
Theo Người, "Muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao động
của phụ nữ. Nói phụ nữ là phân nửa xã hội. Nếu khơng giải phóng phụ nữ thì
khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây

dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa" [32, tr.523].
Người rất quan tâm đến vấn đề xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ nữ,
bởi vì cán bộ nữ là sợi dây gắn liền Đảng với quần chúng phụ nữ, là người hiểu
rõ tâm tư, tình cảm của phụ nữ. Họ là những người tạo được sức thuyết phục cao
trong giáo dục, động viên phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng và
Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc giúp đỡ để ngày
càng có thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo.
Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến
quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ" [32, tr.504].
Đánh giá về khả năng tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: phụ nữ có nhiều ưu điểm, những ưu điểm này xuất phát từ
đặc điểm tâm lý, đức tính tốt đẹp của phụ nữ là cẩn thận, chu đáo, tiết kiệm trong
tiêu dùng, gần gũi hịa mình với phong trào quần chúng. Trong các cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, một mặt chị em phụ nữ cùng chồng con, cha anh
mình nổi dậy đấu tranh; mặt khác họ hăng say trong sản xuất, đảm bảo chăm lo
thu vén cho gia đình và cung cấp nhu yếu phẩm cho chiến trường.
Trong các hội nghị, Người luôn quan tâm đến số lượng, tỷ lệ đại biểu nữ,
động viên chị em phát biểu ý kiến. Thấy cán bộ nữ trưởng thành, Người động
viên khuyến khích kịp thời. Ở địa phương, ngành nào chưa quan tâm chú ý đến
chị em phụ nữ, có những tư tưởng hẹp hịi, khơng đánh giá đúng khả năng của
phụ nữ, Người đã phê phán: "Cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót. Các đồng
chí phụ trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là
thiếu sót chung ở trong Đảng. Nhiều người cịn đánh giá khơng đúng khả năng
của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai" [32, tr.208].


×