Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bảo hiểm xã hội của nhật bản và một số gợi ý chính sách cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.96 KB, 24 trang )

MỤC LỤ

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................1
2..Tình hình nghiên cứu đề tài...........................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI..............................4
1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội......................................................................4
1.2. Phân loại bảo hiểm xã hội........................................................................4
1.3. Vai trò của báo hiểm xã hội......................................................................5
Chương 2 TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ
HỘI Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY.....................................................................7
2.1. Các chế độ bảo hiểm xã hội cơ bản của Nhật Bản...................................7
2.2. Những điểm bất cập trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản. .8
2.3. Nhận xét chung về bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản.....................................9
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM VỀ CHÍNH SÁCH BẢO
HIỂM XÃ HỘI CHO VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM NHẬT BẢN..........11
3.1. Thực trạng về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam...........................................11
3.2. So sánh bảo hiểm xã hội Nhật Bản và Việt Nam...................................13
3.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ Nhật Bản trong việc xây dựng và thực
hiện bảo hiểm xã hội.......................................................................................15
KẾT LUẬN....................................................................................................20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................21


MỞ ĐẦU



1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước trước những
nhóm dân cư, cộng đồng người bị rủi ro, mất thu nhập vì một lí do nào đó.
Đảm bảo an sinh là một quyền cơ bản của con người, mức độ đảm bảo an sinh
là một tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển của một quốc gia, dân tộc.
Trong đó, bảo hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội của
mỗi nước. Việt Nam bước vào quá trình hội nhập và phát triển, có nhiều vấn
đề, mục tiêu cần phải phấn đấu giải quyết, không thể thiếu mục tiêu thực hiện
tốt vấn đề an sinh xã hội cho tồn dân. Dó đó để đảm bảo ổn định phát triển
kih tế - xã hội đất nước, cần đẩy mạnh và nghiên cứu một hệ thống bảo hiểm
xã hội có hiệu quả, cần chú trọng phân tích và học tập mơ hình bảo hiểm từ
các nước trên thế giới.
Nhật Bản được đánh giá là một cường quốc từ sau thế chiến thứ hai, là
quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ, có nền ki h tế đứng thứ 3
Thế giới tính theo tổng sản phẩm nội địa. Vì vậy, Nhật Bnả có đủ điều kiện để
phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện với độ bao phủ rộng khắp đến các
thành viên trong xã hội. Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội ở Nhật Bản bao
gồm các hệ thống cứu trợ xã hội nhằm đảm bảo mức sống cho tất cả những
người gặp khó khăn trong cuộc sống bằng các hỗ trợ về chăm sóc ý tế, chi phí
giáo dục, nhà ở, đào tạo nghề, ký túc xá cho người nghèo...; hệ thống phúc
lợi xã hội cho người tàn tật, người gì và trẻ em...;bảo hiểm xã hội với hệ thống
lương hưu công cộng đảm bảo an ninh thu nhập cho người già... một thành
công của Nhật Bản là đã xây dựng và duy trì được mơ hình cơng tư trong an
sinh xã hội. Trong đó, một phấn an sinh xã hội là lấy từ ngân sách Nhà nước,
cịn lại là nguồn cung cấp đến từ các cơng ty và tập đồn kinh tế. Nhờ đó,
nguồn lực thực hiện an sinh xã hội hết sức to lớn, mở rộng mức độ bao phủ
rộng khắp các thành viên trong xã hội. Những thành tựu trong lĩnh vực an
1



sinh xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng đã cung cấp cơ sở thực
tiễn và bài học quý báu đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Vậy bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản được thực hiện như thế nào? Bảo hiểm
xã hội Việt Nam có gì khác với bảo hiểm xã hội Nhật Bản? Nước ta có thể
học tập và rút kinh nghiệm gì từ mơ hình bảo hiểm xã hội của Nhật Bản để
xây dựng bảo hiểm xã hội hiệu quả? Đó là những vấn đề cấp thiết cần nghiên
cứu để phát triển hệ thống xã hội ở Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn
đề tài “Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số gợi ý chính sách cho Việt
Nam”.
2..Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, nước ta đã có một số bài viết, cơng trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài nghiên cứu như:
 Dương Phú Hiệp, Nguyễn Duy Dũng(1998), “Một số vấn đề phúc lợi
của xã hội và Việt Nam”, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản. Cuốn sách được
biên tập dựa trên cơ sở tập hợp 17 báo cáo nghiên cứu và sâu sắc của tác giả
trong và ngoài trung tâm về các vấn đề phúc lợi của Nhật Bản và Việt Nam.
 Đỗ Thiên Kính(2005), “Kinh nghiệm Nhật Bản trong việc xây dựng
hệ thống phúc lợi xã hội “, đề tài cấp Viện – Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
Đề tài đã hân tích được hệ thống phúc lợi của Nhật Bản và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng các chinh sách phúc lợi.
 Nhật Bản cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu mang tính hệ thống
về an sinh xã hội của đất nước, ví dụ như: Shuzo nishimura(2011) “An sinh
xã hội ở Nhật Bản”, Viện dân số an sinh và xã hội Nhật Bản; Toshiaki
Tachibanaki(2006) “ Cải cách an sinh xã hội Nhật Bản trong thế kỷ 21”, đại
học Tokyo.
Tuy vậy, việc nghiên cứu chuyên biệt vê hệ thống bảo hiểm xã hội ở
Nhật Bản làm cơ sở định hướng để hát triển hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam vẫn chưa có, do vậy vẫn cần đặt ra nhiều câu hỏi nghiên cứu với đề tài
này, đó là:

2


 Nhật Bản đã xây dựng và phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội như thế
nào? Việc thực hiện các chế độ BHXH ở Nhật Bản có những ưu, nhược điểm gì?
 Việt Nam có thể học tập được những kinh nghiệm gì từ Nhật Bản
trong việc xây dựng hệ thống BHXH nói chung và hoạch định chính sách đối
với BHXH nói riêng
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá hệ thống BHXH Nhật Bản, chỉ rõ những ưu điểm,
hạn chế trong việc thực hiện các chính sách BHXH cua Nhật Bản. Trến cơ sở
đó, rút ra được những kinh nghiệm cho Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Phân tích, đánh giá về BHXH của Nhật Bản
 Phân tích sự tương đồng, khác biệt giữa hệ thỗng BHXH ở Nhật Bản và
Việt Nam, chỉ ra những điều kiện và khả năng có thể vận dụng kinh nghiệm có
thể học tập từ việc xây dựng hệ thống BHXH ở Nhật Bản vào Việt Nam.
 Đưa ra một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: hệ thống các bảo hiểm xã hội của Nhật Bản
 Phạm vi nghiên cứu: tình hình các chế độ cơ bản của báo hiểm xã hội
Nhật Bản từ năm 2000 đến nay. Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam và khả
năng vận dụng kinh nghiệm Nhật Bản trong việc thực hiện chính sách về bảo
hiểm ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân tích các đặc điểm của hệ


thống bảo hiểm xã hội Nhật Bản, tổng hợp các phân tích đó để đưa ra một số
gợi ý chính sách cho BHXH ở Việt Nam
 Phương pháp phân tích số liệu thống kê: phân tích các số liệu có được
về việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản.

3


4


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.

Khái niệm bảo hiểm xã hội

BHXH là một bộ phận cấu thành của an sinh xã hội. Theo Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO), an sinh xã hội (social security) là sự bảo vệ của xã hội
đối với mọi thành viên của mình thơng qua một loạt biện pháp cơng cộng
nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị
giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, bệnh
tật, tuổi già và chết, đồng thời bảo đảm y tế và trợ cấp cho các gia đình đông
con. Ngày nay, an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là sự bảo vệ
mà xã hội cung cấp cho các thành viên không may bị lâm vào cảnh yếu thế
trong xã hội, thông qua các biện pháp phân phối lại tiền bạc, tiền bạc và của
cải trong xã hội. Theo cách hiểu này thì an sinh xã hội được chia làm hai bộ
phận cơ bản là bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Trong đó, bảo hiểm xã hội (
social insurance ) là bộ phận quan trọng và chủ yếu nhất trong hệ thống an

sinh xã hội.
Có khá nhiều khái niệm về BHXH, nhưng khái quát lại, ta có thể hiểu
BHXH như sau: BHXH là phương pháp san sẻ rủi ro được thực hiện thơng
qua việc tạo lập quỹ tài chính BHXH, nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do
ốm đau, thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết.
1.2. Phân loại bảo hiểm xã hội
Thứ nhất, phân theo loại hình BHXH của người tham gia BHXH :
BHXH được chia làm 2 loại: BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc.
Trong đó, BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm mà người lso động, người sử
dụng lao động bắt buộc phải tham gia tho quy định của pháp luật. Về mức phí
5


BHXH bắt buộc, người tham gia có trách nhiệm hàng tháng phải đóng một
khoản tiền nhất định, do pháp luật quy định, tương ứng vơi một tỷ lệ tiền
lương của người lao động cho quỹ BHXH. BHXH tự nguyện là loại bảo hiểm
mà người lao động quyết định có tham giá hay khơng, được lựa chọn mức
đóng, phương thức đóng, hưởng phù hợp theo quy định của pháp luật
Thứ hai, phân loại theo thời gian cân đối và hạch toán quỹ BHXH
Theo cách này, BHXH được chia thành BHXH ngắn hạn và BHXH dài
hạn. Trong đó BHXH ngắn hạn thường được dùng để chỉ nhóm các chế độ
BHXH có thời hạn ngắn, trong khoảng một năm, chủ yếu trên cơ sở tương trợ
cộng đồng của những người tham gia bảo hiểm. BHXH dài hạn thường được
dùng để chỉ các nhóm chế độ BHXH dài hạn, từ khi người lao động bắt đầu
tham gia cho đến khi quan hệ BHXH kết thúc, theo hình thức lập quỹ tiết
kiệm bắt buộc, có kết hợp với tương trợ cộng đồng.
Ngoài hai cách cơ bản trên, cịn có thể phân loại BHXH theo những tiêu
thức khác như: căn cư vào các trường hợp được nhận bảo hiểm có thể phân

BHXH thành các chế độ cụ thể như chế độ BHXH khi ốm đau, tử tuất, hưu
trí, tai nạn nghề nghiệp, thai sản...; căn cứ vào tần suất chi trả BHXH có thể
phân thành bảo hiểm một lần, bảo hiểm một thời kỳ và bảo hiểm thường
xuyên; căn cứ vào đối tượng hưởng BHXH có thể phân thành BHXH cho
người lao động và BHXH cho thân nhân người lao động...
1.3. Vai trò của báo hiểm xã hội
1.3.1. Đối với người lao động
Trong cuộc sống hàng ngày, mọi rủi do đều có thể xảy ra với bất cứ
người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào và gây ra cho họ khó khăn cả về
vật chất lẫn tinh thần, gây mất hoặc giảm thu nhập. Là một trong những chính
sách kinh tế - xã hội của Nhà Nước, BHXH góp phần trợ giúp cho người lao
động gặp phải khó khăn thơng qua các khoản trợ cấp BHXH. Đó khơng chỉ là
nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi
cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi
6


ốm đau, tai nạn, tuổi già,...nhờ có BHXH mà cuộc sống của những thành viên
trong gia đình người lao động như người già, trẻ em, người tàn tật...cũng được
đảm bảo an toàn hơn.
1.3.2. Đối với tổ chức sử dụng người lao động
Nêu khơng có BHXH, khi người lao động gặp các rủi ro, khơng có
nguồn thu nhập, khơng có tài chính để trang trải cuộc sống dẫn đến đời sống
của họ bị ảnh hưởng, chất lượng lao động bị ảnh hưởng thì tất yếu sẽ kéo theo
năng suất lao động giảm. BHXH góp phần làm cho lực lượng lao động trong
các tổ chức ổn định, sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, mối quan hệ
giữa người lao động và người sử dụng lao động được gắn kết bền chặt hơn.
1.3.3. Đối với nền kinh tế xã hội
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã hội, BHXH giải
quyết những trục trặc, rủi ro xảy ra với người lao động, đảm bảo cho việc

phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự đảm bảo
này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, từ đó
nâng cao năng suất lao động xã hội.
Mặt khác, với vị trí là quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động tới hệ thống
tài chính thơng qua hoạt động đầu tư, bảo tồn và phát triển quỹ. Hoạt động
này tác động không nhỏ tới việc phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tạo ra
những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần tạo cơng ăn
việc làm cho người lao động. Ngồi ra, BHXH cịn góp phần thực hiện cơng
bằng xã hội, là cơng cụ phân phối lại nguồn thu nhập giữa những người tham
gia đóng BHXH.

7


Chương 2
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở
NHẬT BẢN HIỆN NAY
2.1. Các chế độ bảo hiểm xã hội cơ bản của Nhật Bản
2.1.1. Chế độ hưu trí
Hiện nay, bảo hiểm hưu trí là chế độ quan trọng nhất trong chính sách
bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản. Đây là chế độ đa tầng, với hai dạng cơ bản là
hưu trí Nhà nước và hưu trí tư nhân, được phân chia và xác định theo ba dạng
khác nhau:
 Hưu trí cơ bản(cung cấp mức tiền hưu như nhau đối với mọi đối tượng
mà không căn cứ vào thu nhập, đóng góp hay quốc tịch): tất cả những cá nhân
trong độ tuổi từ 20 đến 60 tuổi, bất kể quốc tịch, đang cư trú tại Nhật Bản đều
có nghĩa vụ phải tham gia
 Hưu trí cho người làm công ăn lương ( áp dụng với tất cả những người
làm cơng ăn lương và mức thanh tốn căn cứ vào thu nhập cũng như đóng
góp của người đó)

 Hưu trí tự nguyện (do các cơng ty tư nhân đóng góp cho cơng nhân
hoặc những quỹ hưu trí tập thể đóng cho những người làm ăn cá thể)
2.1.2. Chế độ bảo hiểm việc làm
Chức năng cơ bản của chế độ này là hỗ trợ tiền (lợi ích thất nghiệp) cho
người làm công ăn lương trong trường hợp bị mất việc làm và giúp duy trì
việc làm ổn định trong xã hội. Quỹ bảo hiểm việc làm của Nhật Bản được
hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động , chủ sử dụng lao động và
ngân sách Nhà nước
2.1.3. Chế độ bảo hiểm y tế
Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách này thơng qua hai hình thức
chủ yếu: chế độ bảo hiểm y tế phổ cập và chế độ bảo hiểm chăm sóc lâu dài.
Nhà nước Nhật Bản quy định người dân phải tham gia vào một trong hai loại
8


hình bảo hiểm này. Phí bảo hiểm được tính dựa vào mưc lương và việc chi trả
chế độ phải căn cứ vào từng loại hình bảo hiểm. Mức chi trả sức khỏe bình
dân vào khoảng 22% lương trung bình tháng, cộng thêm 1% chi phí nếu trên
mức quy định đối với mỗi người bệnh. Chính phủ Nhật Bản cũng quy
địnhmức đóng bảo hiểm thấp hơn đối với những gia đình có thu nhập thấp và
cao đối với những gia đình có thu nhập cao.
2.1.4. Bảo hiểm điều dưỡng
Đây là chế độ bảo hiểm dành cho người cao tuổi, người cần sự chăm sóc.
Người trên 40 tuổi có nghĩa vụ đóng bảo hiểm này. Với bảo hiểm này, người
đóng bảo hiểm sẽ được hưởng những dịch vụ điều dưỡng như điều dưỡng tại
gia hay sử dụng các thiết bị phúc lợi, viện dưỡng lão. Đối với người 65 tuổi,
tiền bảo hiểm này sẽ tách riêng với bảo hiểm y tế, và sẽ tự động trừ vào tiền
lương hưu hàng năm.
2.1.5. Chế độ bảo hiểm chăm sóc lâu dài
Là chế độ bảo hiểm dành cho người lao động trong trường hợp tai nạn,

thiên tai và bị thương, bệnh tật hay tử vong. Người đóng bảo hiểm sẽ nhận
được khoản trợ cấp ngắn hạn hoặc trợ cấp hàng năm, gia đình họ cũng sẽ
được hỗ trợ hoặc người lao động bị thương sẽ được hỗ trợ để hòa nhập với
cộng đồng.
2.2. Những điểm bất cập trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội ở
Nhật Bản
Nhật Bản được đánh giá là quốc gia có hệ thống an sinh xã hội nói chung
và hệ thống bảo hiểm xã hội nói riêng tương đối tốt trong khu vực. Mức sống
của người dân nhìn chung ổn định và tương đối cao. Thế nhưng bên trong hệ
thống tưởng chừng như vững chắc ấy vẫn còn một số lỗ hổng khó khắc phục.
Đầu tiên phải kể đến những vấn đề trong q trình vận hành của chế độ
hưu trí. Để tăng số tiền lưu trữ, chính phủ đầu tư vào công trái và công phiếu,
tuy nhiên điều này lại dẫn đến thua lỗ. Cứ tưởng tượng chế độ hưu trí giống
như một khoản tiền đặt cọc trong q trình lúc đi làm cịn trẻ để khi về già có
9


thể nhận lại, thế nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu khoản tiền này bị hao hụt?
Chính vì khơng có gì chắc chắn nên những người trẻ tuổi ở Nhật khơng muốn
đóng bảo hiểm hưu trí. Thực tế hiện nay, gần 40% dân Nhật Bản khơng đóng
tiền hưu trí. Trong đó, học sinh, sinh viên và những người có thu nhập thấp
được miễn trừ. Cứ như thế số tiền hưu trí khơng đủ trong khi tỷ lệ người cao
tuổi ở Nhật ngày càng cao.
Đối với chế độ bảo hiểm việc làm, quỹ bảo hiểm việc làm của người
Nhật hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao
động và ngân sách nhà nước. Trong những năm gần đây, do suy thoái, quỹ
bảo hiểm việc làm của Nhật Bản gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với tình
trạng tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tình trạng mất cân đối giữa người đóng góp và
người hưởng lợi, giữa người già thất nghiệp và người trẻ.
Đối với chế độ chăm sóc y tế, hiện nay, do những thay đổi về cơ cấu dân

số, đặc biệt số lượng người cao tuổi tăng khiến chi phí hằng năm dành cho
bảo hiểm chăm sóc sức khỏe của Nhật Bản tăng mạnh, ảnh hưởng đến sự bền
vững của chế độ an sinh xã hội của Nhà Nước nõi chung và quỹ bảo hiểm y tế
của Nhật Bản nói riêng.
2.3. Nhận xét chung về bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản
Những thành tựu đạt được trong chính sách an sinh xã hội nói chung và
bảo hiểm xã hội nói riêng của Nhật Bản đã giúp cho nước này là một trong
những hình mẫu cho nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công nổi bật của việc
thực hiện bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản góp phần quan trọng vào việc duy trì
sự ổn định, thúc đẩy tiến bộ xã hội và qua đó tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển kinh tế.
Để giải quyết tốt hơn nữa vấn đề an sinh xã hội nói chung và BHXH nói
riêng và thúc đẩy kinh tế dài hạn, chính phủ Nhật Bản cần tiến hành cải cách
hệ thống an sinh xã hội, như phát riển chính sách thị trường lao động nhằm
khuyến khích thu hút tạo việc làm cho người lao động; đổi mới hệ thống hưu

10


trí, sử dụng hệ thống tài khoản cá nhân để giảm bớt gánh nặng ngân sách, quỹ
an sinh, đồng thời bảo đảm được thu nhập lâu dài cho người nghỉ hưu...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hệ thống an sinh xã hội bao gồm
cả hệ thống bảo hiểm xã hội cũng gặp khơng ít khó khăn, thách thức. Chi phí
để vận hành chính sách an sinh xã hội ở mức cao (năm 2012: tổng chi phí an
sinh xã hội của Nhật Bản ước tính khoảng 105,9 nghìn tỷ n, chiếm 22,8 %
GDP; năm 2014 là 112,1 nghìn tỷ yên; năm 2017 là 32,4 nghìn tỷ yên). Đây
vừa là gánh nặng trong ngân sách Nhà nước, vừa tạo sức ì trong xã hội, khơng
khuyến khích nâng cao năng suất lao động. Xây dựng được hệ thống BHXH
bền vững trong tương lai là cả một thách thức về chính trị đối với chính phủ
và các đảng phái Nhật Bản. Dân số đang già hóa nhanh chóng ở Nhật Bản ảnh

hưởng lớn đến hệ thống BHXH ở quốc gia này. Mặc dù chi phí chăm sóc y tế
và điều dưỡng đang tăng lên, nhưng dân số trong độ tuổi lao động – nhóm
người đóng góp chính vào hệ thống an sinh xã hội qua thuế và các laoij bảo
hiểm sẽ giảm, gây nghi ngờ về tính bền vững của hệ thống. Trong một thập kỷ
qua, Nhật Bản đã phải “vật lộn” để tìm ra cách đối phó với kịch bản này. Điều
này cũng thúc đẩy chính phủ phải cung cấp các khoản trợ cấp với hiệu quả
cao hơn, đồng thời điều chỉnh cách thức đóng thuế và phí bảo hiểm xã hội của
người dân. Bên cạnh đó, hệ thống bảo hiểm xã hội tập trung hơn vào người
già và cung cấp lợi ích nhiều hơn cho thế hệ trẻ.

11


Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM VỀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ
HỘI CHO VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM NHẬT BẢN
3.1. Thực trạng về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
3.1.1. Những thành tựu đạt được
 Nhận thức, chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà
Nước về BHXH ngày càng rõ và thống nhất, coi BHXH là một trong những
trụ cột quan trọng của hệ thống ASXH đa tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ
nhau. BHXH được từng bước đổi mới và hồn thiện hơn, có tính chia sẻ giữa
Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và
giữa các thế hệ.
 Chính sách BHXH được xây dựng theo hướng đa dạng, đồng bộ và
toàn diện bao gồm BHXH bắt buộc với 5 chế độ, BHXH tự nguyện với 2 chế
độ, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp với
phạm vi đối tượng dần được mở rộng. Chính sách BHXH trong q trình hội
nhập đã dần tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, từng bước nội luật hóa các cơng
ước quốc tế. Chính sách BHXH cơ bản phù hợp với trình độ phát triển kinh tế

- xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực theo nguyên tắc đóng
hưởng, có sự hỗ trợ của Nhà nước, có sự chia sẻ, đồng thời thường xun
được bổ sung và hồn thiện.
 Chính sách BHXH đã và đang phát huy tác dụng tích cực trong đời
sống xã hộ. Đối tượng tham gia BHXH tăng. Theo báo cáo của BHXH Việt
Nam, tính đến ngày 31 – 12 – 2017, tổng số đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc đạt 13,59 triệu người, tăng gấp khoảng 6 lần so với năm 1995 và 1,95
lần so với năm 2007. Quỹ BHXH không ngừng gia tăng, năm 2016 số thu
tăng gấp 7 lần so với năm 2007. Giai đoạn 2010 – 2017 tổng kết dư quỹ hưu
trí, tử tuất trên 400 nghìn tỷ đồng, tốc độ gia tăng kết dư quỹ này bình quân
trên 20% năm. Nguồn chi ngân sách Nhà nước cho chế độ hưu trí, tử tuất
12


trong tổng chi hưu trí, tử tuất giảm dần, nếu năm 2007 chiếm 56,2% thì đến
năm 2017 giảm chi cịn chiếm 24,5%.
 Trách nhiệm của Nhà nước về tạo khung pháp lý đảm bảo vận hành hệ
thống BHXH hiêu quả được thể hiện rõ. Nhà nước đã từng bước thể chế hóa
hệ thống chính sách, pháp luật BHXH phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế - xã hội phù
hợp trong từng giai đoạn.
3.1.2. Hạn chế trong hệ thống BHXH ở Việt Nam
 Hệ thống BHXH vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa thật gắn kết chặt chẽ hữu
cơ với hệ thống các tầng ASXH (việc làm, thu nhập và giảm nghèo bền vững,
trợ giúp xã hội và các dujch vụ xã hội tối thiểu) và trong mối quan hệ giữa
người đóng góp và những người hưởng lợi từ ngân sách Nhà nước.
 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực BHXH chưa đảm
bảo thống nhất vào một đầu mối, chun mơn hóa và chun nghiệp, hiện đại
trên cơ sở áp dụng công nghệ cao. Năng lực cán bộ còn bất cập, chuyên gia
đầu ngành ít.

 Đối tượng tham gia BHXH có xu hướng tăng nhưng vẫn chưa đạt
được yêu cầu, mục đích đề ra. Đến tháng 12 – 2017 mới có 36,5% số doanh
nghiệp đang hoạt động và 80% số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt
buộc tham gia BHXH bắt buộc. Nông dân và khu vực phi chính thức, khơng
có quan hệ lao động có khoảng 40 triệu lao động, nhưng sau 10 năm triển
khai chính sách BHXH tự nguyện, số người tham gia chỉ khoảng 300 nghìn
người. Tổng thế, độ bao phủ của BHXH cịn thấp. Tính đến năm 2017 độ bao
phủ BHXH chiếm khoảng 30,35% trong tổng 48,2 triệu lao động, còn nếu so
với tổng lực lượng lao động là 54,8 triệu người thì tỷ lệ này chỉ chiếm 24,85%
 Diện bao phủ của BHXH theo quy định của pháp luật cũng như quy
mô tham gia BHXH trên thực tế cịn thấp, chưa hướng đến bao phủ tồn dân.
Hệ thống BHXH vể cơ bản còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa BHXH với

13


các chính sách xã hội khác chưa đồng bộ, chặt chẽ. BHXH bắt buộc cịn bỏ
sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia
 Tình trạng vi phạm pháp luật, trốn đóng, nợ đóng BHXH, nhất là khu
vực doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến, chậm khắc phục. Nhận thức của một
số bộ phận người lao động và người sử dụng lao động về BHXH cịn chưa
đầy đủ. Cơng tác thơng tin, tun truyền, phổ biến chính sách, pháp luật hiệu
quả cịn chưa cao.
3.2. So sánh bảo hiểm xã hội Nhật Bản và Việt Nam
Về cơ bản, BHXH của Việt Nam cũng có các chế dộ bảo hiểm giống với
của Nhật Bản ( như bảo hiểm y tế, bảo hiểm hưu trí, chế độ bảo hiểm việc
làm...)
Đối với chế độ hưu trí, ở Việt Nam khơng hồn tồn bắt đóng bảo hiểm
hưu trí, chỉ bắt buộc với các cá nhân đã kí hợp đồng lao động với doanh
nghiệp và làm từ một tháng trở lên (theo chính sách mới áp dụng từ 1/1/2018)

và BHXH tự nguyện với những cá nhân từ độ tuổi 15 đến 60 (hoặc 55 đối với
nữ) đang trong độ tuổi lao động. Cịn ở Nhật Bản thì chế độ hưu trí có quỹ
lương hưu cơ bản trong chế độ hưu trí mà bắt buộc tất cả mọi người trong độ
tuổi từ 20 đên 60 đều phải đóng kể cả những cá nhân đang cư trú tại Nhật
Bản. Nếu người lao động đangblàm tại một công ty hay doanh nghiệp nào đó
mà phải đóng bảo hiểm hưu trí bắt buộc đối với người lao động thì họ vẫn
phải đóng thêm quỹ bảo hiểm cơ bản trên. Tức là họ đồng thời phải đóng hai
loại bảo hiểm cùng lúc.
Đối với chế độ BHYT, người dân Nhật Bản phải đóng góp vào hệ thống
bảo hiểm bắt buộc rất lớn như bảo hiểm y tế quốc dân và bảo hiểm y tế phúc
lợi. Tất cả người dân và người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại
Nhật Bản đều phải đóng loại bảo hiểm này. Bảo hiểm này sẽ thực hiện trả chi
phí điều trị y tế trong trường hợp bị thương và tính theo nhân khẩu. Cịn ở
Việt Nam thì khơng bắt buộc tất cả mọi người dân phai mua bảo hiểm y tế
(chỉ những đối tượng được quy định trong pháp luật mới cần đóng BHYT bắt
14


buộc, nếu khơng nằm trong diện các đối tượng đó thì việc đóng BHYT là
hồn tồn tự nguyện). ở Nhật Bản, khi các cá nhân ở các doanh nghiệp tư
nhân bị bệnh hay bị thương ngoài giờ làm việc. Người lao động phải chịu
30% chi phí điều trị. Phí bảo hiểm do doanh nghiệp tiếp nhận và người lao
động cùng trả. Cịn tại Việt Nam, người lao động chỉ dóng 1,5% và doanh
nghiệp, người sử dụng lao động đóng 3%. ở bên Nhật,BHYT thì tùy vào từng
độ tuổi mà mức độ hỗ trợ khác nhau. ở Việt Nam, mức 80% là mức hỗ trợ thấp
nhất cho những nhóm tham gia như hộ gia đình. Vì thế, BHYT là bắt buộc với
người lao động, chưa kể người nước ngoài, du học sinh chưa bị bắt đóng; người
cao tuổi, người dân tộc, người thiểu số, người nghèo...được hỗ trợ đóng 100% và
hưởng 100%. Đặc biệt, ở Nhật Bản có chế độ bảo hiểm điều dưỡng mà ở Việt
Nam chưa có, đây là chế độ bảo hiểm bắt buộc phải đóng với những người có độ

tuổi từ 40 tuổi trở lên, ban đầu số tiền phải đóng vẫn tính vào BHYT nhưng khi
người đóng 65 tuổi trở lên thì khoản này sẽ tách riêng ra, số tiền này sẽ bị trừ
vào lương hưu hàng năm của người lao động.
Còn đối với chế độ bảo hiểm việc làm cho người lao động thì cả ở Việt
Nam và Nhật Bản đều không áp dụng bắt buộc với tất cả người dân mà chỉ
bắt buộc với những người lao động trong các doanh nghiệp. Còn đối với
những các nhân khơng thuộc diện đối tượng đóng bảo hiểm việc làm thì có
thể đóng hoặc khơng dựa trên sự tự nguyện.
Nhìn chung, BHXH ở Nhật Bản bắt buộc nhiều hơn so với ở Việt Nam,
hệ thống BHXH ở Nhật Bản đa tầng với phạm vi và độ bao phủ rộng hơn, tất
cả mọi người dân ở Nhật Bản và phần lớn người lao động đều có nghĩa vụ
phải đóng một số BHXH bắt buộc và nhận được quyền lợi từ việc đóng các
chế độ bảo hiểm đó. Cịn ở Việt Nam thì bảo hiểm xã hội phần lớn chưa bắt
buộc với tất cả người dân và người lao động, mức đọ bao phủ chưa được rộng
lắm, BHXH chủ yếu bắt buộc đối với công viên chức nhà nước và những
người làm trong các doanh nghiệp Nhà nước, còn nhiều người dân vẫn có ít
cơ hội tiếp cận với BHXH.
15


3.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ Nhật Bản trong việc xây dựng và
thực hiện bảo hiểm xã hội
Ở Nhật Bản vẫn còn sự cách biệt về bảo hiểm y tế giữa các vùng/miền,
giữa nông thôn và thnahf thị mặc dù tỷ lệ dân số nông thôn chiếm tỷ lệ thấp.
Đặc biệt ở nơng thơn, sự già hóa nhanh hơn ở đơ thị và người già opwr nơng
thơn có thói quen chăm sóc tại nhà hơn những người ở đơ thị. Do vậy, gánh
nặng chăm sóc người già trở thành một trong những vấn đề đặt ra ở nông thơn
Nhật Bản. Ngồi ra, hệ thống trợ giúp lẫn nhau đã hoạt động rất tốt trong các
khu vực nông thôn. Hệ thống này đã giúp đỡ những người nghèo ở nơng thơn
và ngăn chặn sự di dân có qy mơ rộng lớn từ nơng thơn ra thành thị.

Nguồn tài chính cho hoạt động BHXH gồm 3 nguồn chủ yếu: nhà nước,
địa phương và các tổ chức tư nhân. Nguồn Nhà nước đóng vai trị chủ đạo
trong hoạt động phúc lợi. Trong nguồn ngân sách ở cấp trung ương, khoản
chi tiêu dành cho phúc lợi chiếm khoảng từ 17% đến 20%. Trong đó phần
chi dành cho bảo hiểm xã hội chiếm tỷ lệ lớn nhất vào khoảng 60%. Ngồi
ra cịn có ngân sách địa phương cũng có khoản chi cho hoạt động này,
chiếm khoảng 10% ngân sách hàng năm. Riêng nguồn tài chính tư nhân bị
hạn chế về số liệu thống kê, nhưng đây lại là nét rất độc đáo trong việc huy
động các nguồn lực xã hội đóng góp vào hoạt động phúc lợi nói chung và
bảo hiểm xã hội nói riêng.
Nhật Bản thực hiện khá tốt trong việc phủ rộng đối tượng nhận và
đóng BHXH, phạm vi rộng, nhiều người tham gia
Kinh nghiệm của Nhật Bản đã ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế mà
không đầu tư cho phúc lợi xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng
trong thời kỳ những năm 1960 – 1973. Bởi vì đây là thời kỳ quan trọng để
đẩy mạnh tăng trưởng GDP của Nhật Bản. Nếu chia sẻ ngân sách đầu tư vào
bảo hiểm xã hội thì sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP. Quan niệm thống trị
của Nhật Bản thời kỳ này là nếu khơng có tăng trưởng về kinh tế thì cũng
khơng có tăng trưởng về phúc lợi cũng như bảo hiểm xã hội, và tư tưởng chủ
16


đạo của thời kỳ này là hãy làm cho “chiếc bành GDP” to ra rồi cùng chia đều
cho mọi người. Như vậy, Nhật Bản đã tập trung vào phát triển kinh tế và hi
sinh việc phát triển xã hội. Kết quả dẫn đến là sự mất cân bằng nghiêm trọng
giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Sự mất cân đối này dẫn đến sự
giảm tăng trưởng của kinh tế. Điều này có nghĩa là nếu khơng có những chính
sách về bảo hiểm xã hội đảm bảo đời sống của con người thì cũng khơng có
sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế. Từ bài học này, Việt Nam nên chú
trọng phát triển kinh tế hài hòa với phát triển xã hội ( tức là chú ý đến an sinh

xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng) để tránh tình trạng như đã từng
xảy ra ở Nhật Bản giai đoạn 1960 – 1973. Do vậy, Việt Nam nên cụ thể đường
lối phát triển kinh tế này bằng cách phát triển hài hịa nó với an sinh xã hội
nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng để đảm bảo cơng bằng xã hội
Về mơ hình “nhà nước phúc lợi kiểu Nhật Bản” là phù hợp với nền
văn hóa phương Đơng ở Nhật Bản. Việt Nam cũng là một nước phương Đơng
nên có thể áp dụng và rút ra được nhiều bài học trong mô hình “nhà nước
phúc lợi kiểu Nhật Bản”trong việc xây dựng hệ thống BHXH cho cả quốc gia.
Chẳng hạn, xây dựng hệ thống BHXH ở Việt Nam trước hết nên đề cao trách
nhiệm cá nhân, trợ giúp của gia đình, sau đó là các tổ chức tư nhân và sau
cùng mới đến Nhà nước. Nhà nước có chính sách tổng thể trong hệ thống bảo
hiểm xã hội.
Một số gợi ý về chính sách để hồn thiện hệ thống BHXH cơ bản của
Việt Nam
 Xây dựng và phát triển hệ thống BHXH đa tầng hướng tới mục tiêu
BHXH toàn dân
Xây dựng và phát triển hệ thống BHXH đa tầng, gắn kết bền vững với hệ
thống ASXH, theo nguyên tắc đóng – hưởng, có chia sẻ, theo hai hướng: một
là mở rộng độ bao phủ nhằm bảo đảmt quyền của công dân, người lao động
tham gia BHXH (bao phủ đại bộ phận lực lượng lao động). Toàn bộ người lao
động tham gia trong độ tuổi lao động theo luật định đều đăng ký tham gia
17


BHXH. Hai là nâng cao chất lượng các chính sách, chế độ BHXH đáp ứng
yêu cầu tham gia ngày càng tăng của người hưởng lợi
 Điều chỉnh các tham số đóng(DC) – hướng (DB) bảo hiểm hưu trí và
tử tuất
 Có thể giữ mức đóng bảo hiểm hưu trí và tử tuất cho người lao động
loại 1 như hiện nay là 22%. Tuy nhiên, cần xem xét bảo đảm công bằng tỷ lệ

đóng giữa người sử dụng lao động và người lao động khi mức lương và thu
nhập của người lao động đóng BHXH tăng lên, quan hệ này có thể là: người
sử dụng lao động đóng 12%(nay đang đóng 14%) và người lao động đóng
10%(nay đang đóng 8%). Đối với lao động loại 2 cần tính tốn đến khả năng
đóng và khi nghỉ hưu có lương hưu bảo đảm mức sống thấp nhất cũng bằng
mức sống tối thiểu.
 Công thức tính lương hưu được điều chỉnh theo hướng vừa đảm bảo
nguyên tắc đóng – hưởng, vừa bảo đảm nguyên tắc chia sẻ giữa những người
tham gia BHXH
 Điều chỉnh tăng lương hưu dựa trên chỉ số tăng giá sinh hoạt và một
phần tăng trưởng kinh tế thể hiện ở khả năng quỹ BHXH và ngân sách nhà
nước
 Phát triển quỹ BHXH bảo dảm cân đối trong dài hạn, nhất là quỹ hưu
trí và tử tuất
 Điều chỉnh các thơng số đóng (DC) và hưởng (DC), tăng độ tuổi được
hưởng lương hưu...đẻ đảm bảo cân đối quỹ ngay trong thiết kế chính sách
BHXH
 Mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trên cơ sở chính thức
hóa việc làm khu vực phi chính thức, nền kinh tế chia sẻ; quy định chặt chẽ
điều kện hưởng BHXH một lần để hạn chế tối đa số đối tượng đã tham gia
vào BHXH sớm ra khỏi hệ thống

18


 Quy định chính sách ưu đãi đặc biệt đối với đầu tư quỹ BHXH nhàn
rỗi vào những lĩnh vực, dự án có hiệu quả, sinh lời cao nhưng ít rủi ro để tăng
trưởng quỹ
 Hoàn thiện tổ chức quản lý và quản trị BHXH tinh gọn, chun mơn
hóa, chun nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả và hội nhập quốc tế

 Tổ chức, sắp xếp lại bộ máy quản lý Nhà nước tập trung vào một đầu
mối, phát triển nguồn nhân lực quản lý BHXH trình độ và năng lực cao, hiện
đại hóa cơng nghệ quản lý BHXH yển cơ sở xây dựng chính phủ điện tử
 Phát triển hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam tinh gọn, theo vùng,
chuyên nghiệp, hiện đạ và hội nhập quốc tế.Chuyển BHXH sang mơ hình
cung cấp dịch vụ cơng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, lấy khách hàng làm trung
tâm phục vụ, khơng hành chính hóa, cơng chức hóa và bao cấp.
 Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu BHXH thống nhất và
nối mạng quốc gia liên thông trên phạm vi cả nước; phát triển hệ thống quản
lý đối tượng tham gia BHXH, quản lý quỹ BHXH trên cơ sở áp dụng công
nghệ cao.
 Hệ thống bảo hiểm đa tầng có thể gồm: tầng 1, lương hưu xã hội cho
người cao tuổi khơng có lương hưu; tầng 2 là bảo hiểm hưu trí cơ bản, người
lao động phải đóng theo tỷ lệ do Nhà nước quy định và được hạch toán vào
quỹ bảo hiểm chung để chia sẻ. Tầng 3 là tầng bảo hiểm hưu trí bổ sung hoặc
tự nguyện do người lao động hoặc người sử dụng lao động tự nguyện đóng
góp trên cơ sở thỏa thuận. Cần linh hoạt thời gian, điều kiện hưởng BHXH
một lần để người lao độngchủ động tham gia.
 Cần tạo ra văn hóa đóng BHXH, các chính sách bảo hiểm hưu trí nên
tách ra thành ngắn và dài hạn. Đồng thời thiết kế chính sách hưu trí phải thích
ứng với chính sách già hóa dân số của Việt Nam.
 Cần phải điều chỉnh nâng dần tuổi nghỉ hưu, đây là một xu hướng tất
yếu và phù hợp với xu hướng tất yếu và phù hợp với khả năng, điều kiện lao

19


động, sức khỏe của người lao động nói chung; nhằm tận dụng và phát huy khả
năng đóng góp của lực lượng lao động mới trong bối cảnh già hóa dân số. So
với cơ cấu dân số và tuổi thọ của người dân thì tuổi nghỉ hưu chính thức 55

đối với nữ và 60 đối với nam như hiện nay là thấp. Trên thế giới, nhiều nước
đã và đang nâng dần tuổi nghỉ hưu và trong nhiều trường hợp quy định tuổi
nghỉ hưu giống nhau cho cả nam và nữ

20


KẾT LUẬN

Bảo hiểm xã hội Nhật Bản đã thực hiện khá tốt, đem lại nhiều lợi ích cho
những người dân ở Nhật Bản. Tuy nhiên, BHXH ở Nhật Bản cũng có những
mặt hạn chế. Cùng là những nước Á Đơng với những điều kiện tự nhiên, vị trí
địa lí và đặc điểm văn hóa có những nét tương đồng nhất định. Việt Nam có
thể rút ra kinh nghiệm từ những mặt hạn chế và học tập những điều đã làm
được của nước Nhật.
Cải cách BHXH là một trong ba đề án quan trọng được Hội nghị TW
khóa XII tập trung, thảo luận, xem xét. Trong suốt thời kỳ thực hiện đổi mới,
đặc biệt là giai đoạn từ năm 1995 đến nay, thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị,
kết luận của Ban chấp hành TW,Bộ chính trị, chính sách BHXH đã được thể
chế hoastheo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về chế dộ, chính sách, về cơ
chế quản lý, cơ chế tài chính, ngày càng phufnhowpj với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần quan trọng vào thúc đẩy
ASXH, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội. Bên cạnh đó thì hệ thống
BHXH ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều điểm hạn chế và bất cập chưa
khắc phục được.
Chính vì vậy, Việt Nam cần xem xét, phân tíchvà học hỏi từ những nước
có hệ thống BHXH được cho là tốt trên thế giới, để từ đó phát triển hệ thống
BHXH của Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện đại và gắn liền với tăng
trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội.


21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Thị Thục Anh, “Giáo trình Chính sách xã hội”, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội
2. Mai Ngọc Cường(2009) “Xây dựng và hồn thiện hệ thống chính
sách an sinh xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phăn Văn Cừ (2008) “Một số quan điểm, phương hướng xây dựng và
phát triển hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
knh tế phát triển số 10, tr.12
4. Nghị quyết của Đại hội trung ương 7 khóa XII bàn về định hướng
phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay
5. Dương Phú Hiệp, Nguyễn Huy Dũng (1998), “Một số vấn đề phúc
lợi của xã hội Nhật Bản và Việt Nam”, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Hà
Nội
6. Đỗ Thiên Kính (2005), “Kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc xây
dựng hệ thống phúc lợi xã hội”, Đề tài cấ viện – Vie4ẹn khoa học xã hội Việt
Nam
7. Trần Thị Nhung (2008), “Đảm bảo xã hội trong nền kinh tế Nhật Bản
hiện nay”, Nxb. Từ điển bách khoa
8. Lê Thị Hoài Thu (2007), “Nghiên cứu pháp luật an sinh xã hội một
số nước trên thế giới”, Tạp chí bảo hiểm xã hội, số 9, tr.15
9. justino Patricia (2006), “Khuôn khổ xây dựng tổng thể quốc gia về
an sinh xã hội ở Việt Nam”, Tài liệu của UNDP Việt Nam
10. Hoàng Mạnh Cừ, Đồn Thị Thu Hương (2011), “Giáo trình bảo
hiểm xã hội”, Nxb. Trường đại học kinh tế
11.
12.

13.
14. www.baohiemxahoi.gov.vn

22



×