Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.23 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




HOÀNG THỊ HẠNH




BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN
VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





HOÀNG THỊ HẠNH



BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN
VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP



Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Phạm Thị Hồng Điệp.
Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.


Tác giả luận văn


Hoàng Thị Hạnh







MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG i
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 7
1.1. Bản chất và vai trò của bảo hiểm xã hội 7
  7
 11
 13
1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội 15
1.2.1.  15
 16
1.3. Hệ thống chế độ bảo hiểm xã hội 19
 19
1.3.2. 
 22
1.3.3 25
CHƢƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ
HỘI Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY 34

2.1. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Nhật Bản 34
2.2. Các chế độ cơ bản của bảo hiểm xã hội Nhật Bản 36
 36
 40
 43
 46
2.3. Những vấn đề tồn tại và xu hướng cải cách trong thực hiện các chế độ
bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản hiện nay 48


 48
 53
 60
 62
2.4. Một số nhận xét về các chế độ BHXH của Nhật Bản 65
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý VỀ CHÍNH SÁCH CHO BẢO HIỂM XÃ
HỘI VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM NHẬT BẢN 68
3.1. Một vài nét về thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với BHXH Việt
Nam hiện nay 68
 68
 71
 72
3.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa BHXH Việt Nam với BHXH Nhật
Bản 76
3.3. Một số kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc xây dựng và thực hiện
các chế độ BHXH 77
3.4. Một số gợi ý về chính sách để hoàn thiện các chế độ BHXH cơ bản của
Việt Nam 80
     - 





















 80
3.3.2. 



  

























 83
3.3.3. 

- 





 85


 88
KÊT LUẬN .89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội xuất phát từ trách nhiệm của nhà nước trước những
nhóm dân cư, cộng đồng người bị rủi ro, mất thu nhập vì một lý do nào đó.
Mô hình bảo hiểm xã hội đầu tiên ra đời cách đây khoảng 200 năm ở châu Âu
với nhiều nỗ lực của nhà nước Phổ nhằm khắc phục những bất bình đẳng
trong thu nhập, điều hòa rủi ro, tạo điều kiện cho nhóm dân cư nghèo được
thụ hưởng những điều kiện tối thiểu. Ngày nay, bảo đảm an sinh là một quyền
cơ bản của con người, mức độ đảm bảo quyền an sinh là một tiêu chí quan
trọng đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, dân tộc. Trong đó, bảo
hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi nước. Việt
Nam mới bước vào quá trình hội nhập và phát triển, có nhiều vấn đề, mục tiêu
cần phải phấn đấu giải quyết, trong đó không thể thiếu mục tiêu thực hiện tốt
vấn đề an sinh xã hội cho toàn dân. Do đó, để ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội đất nước, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu nhằm xây dựng một hệ thống
bảo hiểm xã hội có hiệu quả, trong đó cần chú trọng tới việc phân tích và học
tập mô hình bảo hiểm xã hội của các nước trên thế giới.
Nhật Bản được đánh giá là một cường quốc về kinh tế kể từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai, là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ,
có nền kinh tế đứng thứ ba toàn cầu tính theo tổng sản phẩm nội địa chỉ sau
Hoa Kỳ và Trung Quốc. Với tiềm lực kinh tế đó, Nhật Bản có điều kiện phát
triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện với mức độ bao phủ rộng khắp đến các
thành viên trong xã hội. Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản bắt đầu hình thành

từ việc ban hành Quy định cứu trợ nghèo đói vào năm 1874, sau đó lần lượt
các luật liên quan đến vấn đề an sinh xã hội ra đời như: Luật Hưu trí, Luật
Bảo hiểm y tế, Luật Phúc lợi xã hội, Luật Vô gia cư…Hiện nay, hệ thống an
sinh xã hội ở Nhật Bản bao gồm các hệ thống cứu trợ xã hội nhằm bảo đảm
mức sống tối thiểu cho tất cả những người gặp khó khăn trong cuộc sống



2
bằng các hỗ trợ về chăm sóc y tế, chi phí giáo dục, nhà ở, đào tạo nghề,
xây dựng cơ sở phục hồi chức năng, ký túc xá cho người nghèo…; hệ
thống phúc lợi xã hội cung cấp cho những người người tàn tật, người già,
trẻ em…; bảo hiểm xã hội với hệ thống lương hưu công cộng đảm bảo an
ninh thu nhập cho người già; bảo hiểm y tế với hệ thống y tế công cộng
chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng bệnh vì mục tiêu sống khỏe mạnh
cho người dân Nhật Bản Một thành công của Nhật Bản là đã xây dựng
và duy trì được mô hình hợp tác công tư trong thực hiện an sinh xã hội.
Trong đó, một phần chi tiêu cho an sinh xã hội lấy từ ngân sách nhà nước,
còn lại nguồn cung cấp chính là các công ty và tập đoàn kinh tế. Nhờ đó,
nguồn lực cho thực hiện an sinh xã hội ở Nhật Bản hết sức to lớn, tạo điều
kiện cho mở rộng mức độ bao phủ của lưới an sinh. Những thành tựu của
Nhật Bản trong lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội nói
riêng đã cung cấp cơ sở thực tiễn và bài học kinh nghiệm quý báu đối với
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vậy hệ thống bảo hiểm
xã hội Nhật bản được thực hiện như thế nào? Bảo hiểm xã hội Việt Nam
có gì khác so với bảo hiểm xã hội Nhật Bản? Nước ta có thể học tập gì và
học tập như thế nào từ kinh nghiệm của Nhật Bản để xây dựng một hệ
thống bảo hiểm xã hội hiệu quả? Đó là những vấn đề cần thiết nghiên cứu
để phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Xuất phát từ lý do
trên, tác giả lựa chọn đề tài “Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số

gợi ý chính sách cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, nước ta đã có nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo đảm xã hội và vận dụng bài học kinh
nghiệm của các nước phát triển trong xây dựng hệ thống an sinh xã hội
nói chung, hệ thống bảo hiểm xã hội nói riêng. Có thể kể đến một số công
trình như:



3
- Dương Phú Hiệp, Nguyễn Duy Dũng (1998), “
 Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản. Cuốn
sách được biên tập trên cơ sở tập hợp 17 báo cáo nghiên cứu tương đối toàn
diện và sâu sắc của các tác giả trong và ngoài Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
về các vấn đề phúc lợi xã hội ở Nhật Bản và Việt Nam.
- Đinh Công Tuấn (2008), 
 Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Trên cơ sở
nghiên cứu hệ thống an sinh xã hội của một số nước EU điển hình như
Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển… tác giả Đinh Công Tuấn đã phân tích, đánh
giá những thành công và hạn chế của các hệ thống đó, từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm cho việc hoạch định hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam
trong thời gian tới.
- Đỗ Thiên Kính (2005),       
, Đề tài cấp Viện – Viện Khoa học xã hội
Việt Nam. Đề tài đã phân tích hệ thống phúc lợi của Nhật Bản và rút ra
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển các
chính sách phúc lợi xã hội.
Mới đây, một cuộc hội thảo với chủ đề “Bảo đảm an sinh xã hội – Kinh

nghiệm Nhật Bản” do Viện Khoa học xã hội Việt Nam (VASS) và Cơ quan
Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) phối hợp tổ chức tại Hà Nội đã cung cấp
nhiều kinh nghiệm quý báu của Nhật Bản trong thực hiện các chính sách bảo
hiểm xã hội làm cơ sở thực tiễn cho việc vận dụng vào Việt Nam.
Nhật Bản cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu mang tính hệ thống
về an sinh xã hội của đất nước, điển hình là: Shuzo Nishimura (2011), 
, Viện Dân số và An sinh xã hội Nhật Bản; Toshiaki
Tachibanaki (2006), , Đại
học Kyoto. Tuy vậy, việc nghiên cứu một cách chuyên biệt về bảo hiểm xã



4
hội của Nhật Bản để làm cơ sở thực tiễn cho xây dựng và phát triển hệ thống
bảo hiểm xã hội ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập. Do vậy,
vẫn còn câu hỏi đặt ra đối với việc nghiên cứu vấn đề này, đó là:
: Nhật Bản đã xây dựng và phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội
như thế nào? Việc thực hiện các chế độ BHXH cơ bản của Nhật Bản có
những ưu, nhược điểm gì?
: Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm gì từ Nhật Bản trong
việc xây dựng hệ thống BHXH nói chung, và hoạch định chính sách đối với
từng chế độ BHXH nói riêng?
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá hệ thống bảo hiểm xã hội Nhật Bản, chỉ rõ những
ưu điểm và hạn chế trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội của
Nhật Bản. Trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm có thể học tập trong xây
dựng hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của vấn đề bảo hiểm xã hội.

- Phân tích, đánh giá hệ thống bảo hiểm xã hội của Nhật Bản.
- Phân tích sự tương đồng và khác biệt về vấn đề bảo hiểm xã hội giữa
Việt Nam và Nhật Bản, chỉ ra điều kiện và khả năng vận dụng những kinh
nghiệm từ Nhật Bản về chính sách bảo hiểm xã hội.
- Đưa ra một số gợi ý về chính sách trong xây dựng hệ thống bảo hiểm
xã hội Việt Nam từ kinh nghiệm Nhật Bản.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-    : Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
của Nhật Bản.
- : tình hình các chế độ cơ bản của bảo hiểm xã hội
Nhật Bản giai đoạn 2000 – 2011. Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam và khả
năng vận dụng kinh nghiệm Nhật Bản trong thực hiện các chính sách về bảo
hiểm xã hội.



5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu kinh tế chính trị trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa Duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy
vật lịch sử.
Các phương pháp cụ thể là:
- : Logic kết hợp với lịch sử nhằm
khám phá ra bản chất và quy luật nội tại chi phối sự phát triển của lịch sử,
đồng thời còn phản ánh được một cách khái quát lịch sử sự vật ở những nét
chủ yếu. Trong phạm vi luận văn, phương pháp logic kết hợp với lịch sử thể
hiện rõ ở việc phân tích bảo hiểm xã hội Nhật Bản trong giai đoạn 2000 –
2011 để chỉ ra nét tương đồng, khác biệt giữa Việt Nam và Nhật Bản về thực
hiện chính sách bảo hiểm xã hội làm cơ sở cho sự vận dụng vào Việt Nam.
- : Quá trình nhận thức là quá trình

sử dụng kết hợp, xen kẽ giữa phân tích và tổng hợp. Phân tích cho ta nhận
thức cụ thể về các mặt riêng lẻ của vấn đề nghiên cứu. Tổng hợp cho ta nhận
thức về sự hoàn chỉnh, thống nhất của vấn đề trên cơ sở kết hợp một cách
biện chứng các kết quả nghiên cứu của phân tích. Đây cũng là một trong
những phương pháp nghiên cứu cơ bản của luận văn. Trên cơ sở phân tích các
đặc điểm của hệ thống bảo hiểm xã hội Nhật Bản, luận văn tổng hợp các kết
quả nghiên cứu đó để đưa ra một số gợi ý về chính sách cho bảo hiểm xã hội
Việt Nam.
-        : luận văn sử dụng các
phương pháp của khoa học thống kê để phân tích các số liệu có được về việc
thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội của Nhật Bản.
6. Những đóng góp của luận văn
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các chế độ cơ bản của bảo
hiểm xã hội Nhật Bản giai đoạn 2000 – 2011.



6
- Chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt giữa Bảo hiểm xã hội Việt
Nam và Bảo hiểm xã hội Nhật Bản.
- Đề xuất một số gợi ý về chính sách cho bảo hiểm xã hội Việt Nam từ
những kết quả nghiên cứu bảo hiểm xã hội Nhật Bản.
7. Bố cục luận văn
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội
Chƣơng 2. Hệ thống bảo hiểm xã hội Nhật Bản
Chƣơng 3. Một số gợi ý về chính sách cho bảo hiểm xã hội Việt Nam
từ kinh nghiệm Nhật Bản







7
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Bản chất và vai trò của bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm và phân loại bảo hiểm xã hội

BHXH là một bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống
an sinh xã hội trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong quá
trình phát triển và hoàn thiện. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), an sinh
xã hội (Social Security) là sự bảo vệ của xã hội đối với mọi thành viên của
mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó
khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết,
đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Ngày nay, khái niệm an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là
sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên không may bị lâm vào
cảnh yếu thế trong xã hội, thông qua các biện pháp phân phối lại tiền bạc,
của cải và dịch vụ xã hội. Theo cách hiểu này, hệ thống an sinh xã hội bao
gồm 2 bộ phận cơ bản là bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Trong đó, bảo
hiểm xã hội (Social Insurance) là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất
trong hệ thống an sinh xã hội.
Có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH được nêu ra trong các tài liệu
tùy theo phương diện tiếp cận của tác giả. Trong số đó, khái niệm bảo hiểm
xã hội nêu ra trong Từ điển Bách khoa Việt Nam và trong Luật Bảo hiểm xã
hội Việt Nam đ ược coi là phù hợp nhất với đối tượng nghiên cứu về bảo
hiểm xã hội Việt Nam.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “BHXH là sự bảo đảm thay thế

hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu



8
nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật,
thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp
của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp
luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng
thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [17].
Theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [16].
Như vậy, có thể khái quát về BHXH như sau: 
           
 


1.1.1.2. Phân loại Bảo hiểm xã hội
BHXH là một vấn đề kinh tế xã hội tổng hợp có thể tiếp cận, nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Từ đó có nhiều cách, nhiều tiêu chí phân loại,
tạo ra những kết quả phân loại khác nhau. Trong lý luận cũng như trong thực
tế, BHXH thường được phân loại theo các tiêu thức cơ bản sau:
.
Theo cách phân loại này, BHXH được chia thành hai loại: BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện. Cách phân loại này nhằm xác định đối tượng tham gia và
điều kiện tổ chức, mở rộng các loại hình BHXH một cách hợp lý. Trong đó,
BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm mà người lao động, người sử dụng lao
động bắt buộc phải tham gia theo quy định của pháp luật. Loại BHXH này

được hình thành khi Nhà nước đã đứng ra lo liệu với tư cách là người tổ chức,
quản lý BHXH. Việc tổ chức BHXH bắt buộc chủ yếu để thực hiện mục đích



9
ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động nhằm
ổn định nguồn thu, chi để phát triển BHXH bền vững. Thông qua đó có thể
đảm bảo đời sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội nói chung.
Thông thường phạm vi bảo hiểm bắt buộc rộng hay hẹp phục thuộc vào trình
độ, khả năng quản lý rủi ro, quản lý đối tượng tham gia của nhà nước. Khi
mới ban hành các chính sách, chế độ BHXH bắt buộc, các nước thường bắt
đầu từ phạm vi hẹp, đó là những lao động làm việc có hưởng lương tương đối
ổn định. Ngay cả các đối tượng này, ban đầu cũng có những giới hạn nhất
định về ngành nghề, thành phần kinh tế hay khu vực tham gia. Sau đó,
phạm vi tham gia ngày càng được mở rộng hơn, trên cơ sở trình độ,
phương tiện và kinh nghiệm quản lý đạt được. Về mức phí BHXH bắt
buộc, người tham gia có trách nhiệm hàng tháng phải đóng một khoản tiền
nhất định, do pháp luật quy định, tương ứng với một tỉ lệ tiền lương của
người lao động cho quỹ BHXH.
BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm mà người lao động có quyền tự
quyết định tham gia hay không tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương
thức đóng, hưởng phù hợp theo các quy định của pháp luật. Xuất phát điểm
của BHXH là sự tự nguyện của cộng đồng những người lao động cùng có
nguy cơ gặp một số rủi ro và cùng có nhu cầu chia sẻ các rủi ro đó. Việc nhà
nước phải đứng ra tổ chức quản lý BHXH theo hình thức bắt buộc cũng
chứng tỏ rằng nếu BHXH thuần túy chỉ là sự tự nguyện của người lao động
thì hoặc là không bền vững, hoặc là không hiệu quả, rủi ro chỉ được quản lý,
chia sẻ trong những cộng đồng nhỏ hẹp, ít chuyên nghiệp… Vì vậy, để có hệ
thống bảo hiểm tự nguyện hiệu quả cũng cần có sự tổ chức, quản lý của Nhà

nước. Tuy nhiên các nước không lựa chọn điều chỉnh loại hình này ngay từ
khi bắt đầu tổ chức BHXH. Bởi vì, những lao động không thuộc đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc thường không có sự chia sẻ từ phía người sử dụng



10
lao động. Từ đó, nhu cầu tham gia bảo hiểm của các đối tượng này cũng
không ổn định. Nếu không có các biện pháp quản lý hữu hiệu thì quỹ bảo
hiểm tự nguyện khó có điều kiện duy trì bền vững. Đối với những nước mà
khu vực phi chính thức và các lao động tự tạo việc làm chiếm tỉ trọng lớn thì
việc quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện cực kỳ khó khăn. Cơ
quan bảo hiểm thường ít có thông tin về các đối tượng này để kiểm soát thu
sao cho đủ và xác định căn cứ chi trả sao cho quỹ không bị lạm dụng.
            .
Theo cách này, BHXH được phân loại thành BHXH ngắn hạn và BHXH dài
hạn. Cách phân loại này chủ yếu giúp các tổ chức BHXH lựa chọn phương
thức quản lý quỹ BHXH cho cả hệ thống hay cho từng loại chế độ, thống kê
xác suất rủi ro trong phạm vi bao phủ của quỹ, làm cơ sở để xác định công
thức đóng hưởng và thời hạn chi trả bảo hiểm. Trong đó, BHXH ngắn hạn
thường dùng để chỉ nhóm các chế độ BHXH có thời hạn ngắn, trong khoảng
một năm, chủ yếu trên cơ sở tương trợ cộng đồng giữa những người tham gia
bảo hiểm. Đối tượng hưởng BHXH ngắn hạn thường là những người lao động
trong độ tuổi lao động. Việc hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn chủ yếu là trợ
cấp một lần hoặc trong một thời gian ngắn.
BHXH dài hạn thường được dùng để chỉ nhóm các chế độ BHXH dài
hạn, từ khi người lao động bắt đầu tham gia cho đến khi quan hệ BHXH kết
thúc, theo hình thức lập quỹ tiết kiệm bắt buộc, có kết hợp với tương trợ cộng
đồng. Như vậy, yếu tố thời gian đóng BHXH được coi là một trong các điều
kiện cơ bản để xác định để xác định quyền hưởng bảo hiểm và mức hưởng

của loại chế độ bảo hiểm xã hội. Đối tượng hưởng BHXH dài hạn chủ yếu là
người lao động đã kết thúc quan hệ lao động, nghỉ việc hưởng BHXH sau một
thời gian dài đóng góp hoặc để lại phần đóng góp cho thân nhân như một
khoản thừa kế, hoặc cần phải tương trợ nuôi thân nhân… Do đó, bên cạnh



11
một số ít trường hợp chi trả một lần, BHXH dài hạn thường chi trả trợ cấp
trong khoảng thời gian dài, khó xác định rõ thời gian hưởng ở từng đối tượng.
Quỹ được thu và quản lý trong thời gian dài nên rất phức tạp trong việc tính
toán, cân đối đóng, hưởng hợp lý và bảo tồn giá trị trong điều kiện lạm phát
và nhu cầu sống ngày càng tăng do kinh tế phát triển.
Ngoài hai cách phân loại cơ bản trên, còn có thể phân loại BHXH theo
những tiêu thức khác, như: căn cứ vào các trường hợp được bảo hiểm có
thể phân BHXH thành các chế độ cụ thể như chế độ BHXH khi ốm đau,
thai sản, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, hưu trí, tử tuất…; căn cứ vào
tần suất chi trả bảo hiểm có thể phân BHXH thành các loại bảo hiểm một
lần, bảo hiểm một thời kỳ và bảo hiểm thường xuyên; căn cứ vào đối
tượng hưởng BHXH có BHXH cho người lao động và BHXH cho thân
nhân người lao động… [3, tr.17-19].
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội
Đặc điểm của BHXH thể hiện qua một số khía cạnh sau:
BHXH là hoạt động chia sẻ rủi ro của cộng đồng theo nguyên tắc “số
đông bù số ít” và nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”.
Theo nguyên tắc “số đông bù số ít”, rủi ro của một hoặc một số người
sẽ được chia sẻ cho nhiều người tham gia BHXH cùng gánh chịu. Theo cách
đó, những rủi ro trong cuộc sống như: đau ốm, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, chết sớm… là gánh nặng của bản thân và gia đình của số ít
những người không may sẽ trở nên nhẹ bớt khi được san sẻ cho nhiều người.

Nói cách khác, đó chính là sự thể hiện tính tương hỗ của cộng đồng – những
thành viên trong xã hội thông qua việc bù trừ rủi ro qua quỹ BHXH.
Theo nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”, người tham gia BHXH phải “để
dành” một khoản thu nhập bằng việc đều đặn góp khoản để dành đó vào quỹ
BHXH lúc có thu nhập để được hưởng trợ cấp lúc tạm thời hoặc vĩnh viễn
mất khả năng lao động.



12
BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên trong xã
hội theo chiều dọc và chiều ngang (hay theo không gian và thời gian).
Phân phối theo chiều dọc và sự phân phối giữa những người khỏe mạnh
cho những người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa
những người không sinh đẻ và người sinh đẻ; giữa những người có thu nhập
cao và người có thu nhập thấp… Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu
nhập theo không gian. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo chiều dọc này,
quỹ BHXH ngoài việc được hình thành từ sự đóng góp của người lao động,
còn hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và có thể còn
được bù dắp sự thiếu hụt bằng Ngân sách Nhà nước. Đến lượt mình, quỹ
BHXH lại được sử dụng để thay thế hoặc bù đắp thu nhập cho người lao động
bị mất, giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm…
Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người
lao động theo thời gian, là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và
quá trình không làm việc. Khi thực thi chính sách BHXH cũng tức là sử dụng
nguồn tài chính chung của một bên là những người đóng góp đều đặn vào quỹ
BHXH, còn bên kia là những người được hưởng theo quy định.
Mục tiêu cơ bản của BHXH là nhằm đảm bảo an toàn – hiệu quả xã hội.
BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm
trong nước để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an

toàn xã hội. BHXH thực hiện nhằm các mục tiêu: thay thế hoặc bù đắp cho
người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống
thiết yếu của họ và gia đình; chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật; bảo
đảm điều kiện sống tối thiểu để người lao động không lâm và cảnh túng quẫn,
góp phần bảo đảm hạnh phúc gia đình và an toàn xã hội.
BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc có đóng, có hưởng.
Quỹ BHXH hình thành các nguồn tài chính từ các khoản đóng góp của
các bên tham gia và có một hệ thống hoạt động nhằm bảo đảm lợi ích cho
người lao động tham gia đóng góp vào quỹ này. Quyền được hưởng trợ cấp



13
BHXH được bảo đảm bởi chính việc đóng góp vào quỹ BHXH. Nói cách
khác, người lao động muốn được hưởng chế độ BHXH thì cần phải tham gia
đóng góp vào quỹ này theo quy định của pháp luật. [3, Tr.10-13].
1.1.3. Vai trò bảo hiểm xã hội
1.1.3.1. 
Trong cuộc sống hàng ngày, mọi rủi ro đều có thể xảy ra đối với bất cứ
người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào và gây cho họ những khó khăn
cả về vật chất và tinh thần, gây mất hoặc giảm thu nhập. Là một trong những
chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, BHXH góp phần trợ giúp cho người
lao động gặp phải rủi ro khắc phục những khó khăn thông qua các khoản trợ
cấp BHXH. Tham gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả
trong chi dùng cá nhân, giúp họ tiết kiệm được những khoản tiền nhỏ, đều đặn
để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi già cả hay mất sức lao động…
Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to
lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ ổn định về tâm lý,
giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già… Nhờ có BHXH, cuộc sống
của những thành viên trong gia đình người lao động, nhất là trẻ em, những

người tàn tật, góa bụa… cũng được đảm bảo an toàn hơn.
1.1.3.2. 
BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động nói chung, các doanh nghiệp
nói riêng, ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua việc phân phối
các chi phí của người lao động một cách hợp lý. Nếu không có BHXH, khi
người lao động gặp các rủi ro, không có nguồn thu nhập, không có tài chính
để trang trải các chi phí y tế và các chi phí khác dẫn đến đời sống của họ bị
ảnh hưởng, chất lượng lao động cũng sẽ bị ảnh hưởng và tất yếu sẽ kéo theo
hệ quả năng suất lao động giảm.



14
BHXH góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định,
sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên trong quan hệ lao động
gắn bó với nhau hơn. BHXH tạo điều kiện để người tổ chức sử dụng có trách
nhiệm với người lao động, không chỉ khi người lao động còn đang tham gia
lao động mà ngay cả khi người lao động đã già yếu, không còn khả năng tham
gia lao động nữa. Qua đó, người lao động gắn kết bền chặt hơn với người sử
dụng lao động và chất lượng lao động cũng được đảm bảo. Mặt khác, BHXH
giúp các tổ chức sử dụng lao động ổn định nguồn chi, ngay cả khi các rủi ro
lớn xảy ra cho người lao động.
1.1.3.3.  - 
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà
nước, BHXH giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với những
người lao động, đảm bảo cho việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng
tạo của sức lao động. Sự bảo đảm này tác động trực tiếp đến việc nâng cao
năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần vào việc nâng cao năng suất
lao động xã hội. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng, làm
tăng sự tiêu dùng cho xã hội, đồng thời góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.

Mặt khác, với vị trí là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động tới hệ
thống tài chính thông qua hoạt động đầu tư, bảo tồn và phát triển quỹ. Hoạt
động đầu tư của quỹ BHXH tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm
mới, góp phần quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao
động, từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, tăng thu
nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc dân
nói chung. Ngoài ra, vai trò đối với xã hội của BHXH còn được thể hiện qua
việc BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại
thu nhập giữa những người tham gia BHXH. [3, tr.14-16].



15
1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội
1.2.1. Lịch sử bảo hiểm xã hội thế giới
Để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, con người cần phải
lao động. Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào
cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác
để có một cuộc sống hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải
những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, già yếu, thiếu việc làm do những
ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các
tác nhân xã hội khác. Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu
của cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại còn tăng lên, thậm chí xuất hiện
nhiều nhu cầu mới. Bởi vậy, để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt
khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người
lao động cần sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.
Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức
khác nhau. Trong quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là sau cuộc cách
mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát

triển. Quá trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ người làm công ăn lương
tăng lên, cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào thu nhập do lao động làm thê đem
lại. Sự hẫng hụt về tiềng lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, mất
việc làm, già yếu… đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường
của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Điều
đó đòi hỏi phải có sự tương thân, tương ái giữa những người lao động, đồng
thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu
cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật.
Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham
gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro



16
nghề nghiệp, tuổi già, tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra
hướng mới với cơ chế ba bên: người lao động, giới chủ và Nhà nước. Mô hình
này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, Bắc Mỹ,
Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai,
BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và
vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An
sinh xã hội, được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền cơ bản
của của con người.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề
của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày
càng được nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện
hoặc không may gặp phải những rủi ro của người lao động ngày càng hoàn
thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp
cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và có hiệu

quả nhất. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi
thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH
và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi
của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một
trong những quyền cơ bản của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền
của Đại Hội động Liên hợp quốc đã nêu. [3, tr. 35-38].
1.2.2. Lịch sử bảo hiểm xã hội Việt Nam
BHXH Việt Nam ra đời, phát triển gắn liền với lịch sử ra đời và phát
triển của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945). BHXH được coi là
lĩnh vực có quá trình phát triển lâu đời nhất trong hệ thống An sinh xã hội ở
Việt Nam. Trong những năm qua, các chế độ BHXH đã đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm xã hội cho người lao động, đặc biệt là công nhân
viên chức làm việc trong khu vực nhà nước.



17
Cơ sở đầu tiên cho sự ra đời của BHXH ở Việt Nam là Hiến pháp năm
1946. Trên cơ sở của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành các sắc lệnh nhằm
thực hiện chính sách BHXH như: Sắc lệnh số 20/SL ngày 16/02/1947 do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ban hành quy định về chế độ “Hưu bổng thương tật” và
“Tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”; Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 về các
quan hệ làm công giữa các chủ nhân Việt Nam hay người ngoại quốc đối với
công nhân Việt Nam… Trong giai đoạn này, do khó khăn về kinh tế, Chính
phủ Việt nma chior áp dụng chính sách BHXH với phạm vi đối tượng hạn hẹp
là cán bộ, công chức Nhà nước và quân nhân.
Bước tiến tiếp theo về cơ sở pháp lý của BHXH được thể hiện trong
Hiến pháp năm 1959, trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền Nam
– Bắc. Điều 32, Hiến pháp năm 1959 thừa nhận quyền của người lao động
được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Tuy

nhiên, phải đến năm 1962, quỹ BHXH mới bắt đầu được hình thành trên cơ
sở “Điều lệnh tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước”
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn ngày 14/12/1961 kèm theo Nghị
định số 218/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 27/12/1961 thay thế
các quy định về BHXH trước đó. Mức đóng góp được Chính phủ quy định
như sau: trích 1% từ quỹ lương để chi trả chế độ hưu trí, mất sức lao động và
trợ cấp tuất cho công nhân viên khi chết; trích 3,7% từ quỹ lương để chi cho
chế độ ốm đau, thai sản, lao động và bệnh nghề nghiệp, nghỉ dưỡng và quản
lý quỹ BHXH. Riêng đối với quân nhân phục vụ trong lực lượng vũ trang thì
không thu BHXH nhưng vẫn thuộc đối tượng hưởng BHXH. Nhà nước bao
cấp phần chênh lệch giữa thu và chi. Theo Điều lệ BHXH ban hành kèm theo
Nghị định 218/CP, quỹ BHXH là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước.
Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam) được
giao nhiệm vụ quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH. Tiền quỹ
BHXH gửi Ngân hàng Nhà nước, chịu sự quản lý tiền mặt của Ngân hàng.



18
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước, ngày 23/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định
tạm thời chế độ BHXH thay thế cho Nghị định 218/CP. Nội dung của Nghị
định đã bao hàm những cải cách lớn về BHXH như: Mở rộng đối tượng và
phạm vi áp dụng chế độ BHXH, làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp xây
dựng quỹ BHXH của người sử dụng lao động và người lao động. Nâng mức
thu quỹ BHXH lên 20% quỹ lương, trong đó người lao động đóng 5%; người
sử dụng lao động đóng 15%, quỹ hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.
Có thể nói Nghị định 43/CP là bước đệm cho một cuộc cải cách thực sự của
hệ thống BHXH ở nước ta. Trong tiến trình cải cách kinh tế - xã hội, hệ thống
chính sách, chế độ BHXH trước đây không còn phù hợp nữa, nó đã và đang

được đổi mới cơ bản về chất cho phù hợp với bản chất của BHXH trong nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngày 223/6/1994 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoa IX đã thông qua Bộ
Luật lao động (có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995), xác lập và bảo vệ quyền
lợi hợp pháp và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động trong
việc tham gia BHXH (chương XII – Bộ Luật lao động). Đây là sự kiện pháp
lý có ý nghĩa to lớn đối với lĩnh vực BHXH và đây là lần đầu tiên ở nước ta
pháp luật về BHXH được quy định ở hình thức cao nhất trong một bộ luật. Cụ
thể hóa các điều khoản của Bộ luật Lao động về BHXH, Chính phủ ban hành
Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH và Nghị định
19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. Từ đây, quỹ
BHXH Việt Nam đã thực sự hình thành và dần đi vào quỹ đạo chung mang
tính quy luật. Quỹ có cơ quan quản lý, dần tách ra khỏi ngân sách Nhà nước,
được quản lý thống nhất, hạch toán độc lập, có sự hỗ trợ của Nhà nước. Điều
này sẽ phát huy đầy BHXH đủ quyền và lợi ích của người lao động, không ỷ
lại vào ngân sách nhà nước, xóa chế độ bao cấp, mở đường cho sự nghiệp
BHXH phát triển.



19
Ngày 29/06/2006, “Luật BHXH của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam số 71/2006/QH11” đã chính thức được ban hành và có
hiệu lực thi hành từ 01/01/2007. Với 11 chương và 141 điều, Luật BHXH đã
kế thừa và hoàn thiện những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động BHXH,
theo đó phạm vi BHXH cũng được mở rộng, hoàn thiện theo hướng sát với
các tiêu chuẩn về BHXH mà Tổ chức Lao động thế giới đã đề ra. [3, 19].
1.3. Hệ thống chế độ bảo hiểm xã hội
1.3.1. Các chế độ BHXH theo khuyến cáo của Tổ chức Lao động quốc tế
Tại kỳ họp thứ 35, Hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động quốc tế

(ILO) được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại
Giơnevơ ngày 04/6/1952, sau khi quyết định chấp thuận một số đề nghị về
các quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, ngày 28/6/1952, ILO đã thông qua
Công ước số 102 – Công ước về an toàn xã hội (quy phạm tối thiểu), đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng về BHXH trên thế giới. Nội dung của Công
ước số 102 về BHXH bao gồm một hệ thống 9 chế độ như sau: 1- Chế độ
chăm sóc y tế; 2 - Chế độ trợ cấp ốm đau; 3- Chế độ trợ cấp thất nghiệp; 4-
Chế độ trợ cấp tuổi già; 5- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp; 6- Chế độ trợ cấp gia đình; 7- Chế độ trợ cấp thai sản; 8- Chế độ trợ
cấp tàn tật; 9- Chế độ trợ cấp tử tuất. [18]
Công ước số 157 được thông qua ngày 21/6/1982, gọi là Công ước về
duy trì các quyền về an toàn xã hội, tiếp tục khẳng định 9 nhánh an toàn xã
hội như trên. Sau đó, vẫn còn một số các công ước và khuyến nghị khác liên
quan đến các chế độ BHXH nhưng nội dung chủ yếu vẫn theo tinh thần của
Công ước 102.
Trong các công ước quốc tế, mỗi chế độ BHXH đều được cụ thể hóa
bằng những điều, những mục vừa cụ thể, vừa mang tính định hướng để các
nước vận dụng. Nếu nhìn nhận một cách khái quát, mỗi chế độ đều được kết
cấu bởi các nội dung sau:



20
- Mục đích thực hiện chế độ;
- Đối tượng được bảo hiểm;
- Điều kiện được trợ cấp;
- Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH.
Mục đích trợ cấp theo từng chế độ BHXH sẽ giúp người lao động và
người sử dụng lao động nhận thức rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình khi
tham gia BHXH. Đồng thời, còn thể hiện rõ quan điểm định hướng và mục

tiêu của chính sách BHXH ở từng nước. Trên phương diện xã hội, mục đích
trợ cấp còn phản ánh vai trò của từng chế độ và tạo thêm niềm tin cho người
lao động đối với chính sách BHXH. Một khi người lao động và người sử dụng
lao động đã nhận thức được đầy đủ vấn đề này thì việc mở rộng đối tượng
tham gia BHXH sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Đối tượng được bảo hiểm thể hiện phạm vi của chính sách BHXH
trong từng chế độ. Tùy theo từng loại chế độ mà đối tượng này có thể khác
nhau. Có chế độ đối tượng được trợ cấp chính là bản thân người lao động
tham gia BHXH; có chế độ đối tượng trợ cấp lại là một số thành viên trong
gia đình của người lao động (vợ, chồng, con cái và bố mẹ của người lao động
có thể được trợ cấp trong chế độ trợ cấp tiền tuất). Có chế độ đối tượng được
bảo hiểm nằm trong quá trình lao động (chế độ trợ cấp thai sản); có chế độ đối
tượng trợ cấp lại nằm ngoài quá trình lao động (chế độ trợ cấp tuổi già)… Xác
định chính xác đối tượng được trợ cấp bảo hiểm trong mỗi chế độ sẽ giúp cơ
quan BHXH chi trả đúng đối tượng, đúng mục đích, hạn chế tối đa những
hiện tượng nhầm lẫn và tiêu cực phát sinh.
Điều kiện được trợ cấp cũng là một nội dung rất quan trọng khi thiết kế
các chế độ BHXH. Nhìn chung các chế độ BHXH khác nhau thì điều kiện
được trợ cấp cũng khác nhau, bởi vì việc giới hạn điều kiện trợ cấp xuất phát
từ các rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm liên quan đến từng chế độ. Có những rủi

×