Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

phan tích danh gia quy dinh cua bo luat to tung 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.43 KB, 16 trang )

ĐỀ TÀI
Phân tích, đánh giá những điểm mới BLTTDS
năm 2015 về khởi kiện vụ án dân sự


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Với trình độ phát triển của cuộc cách mạng 4.0, mối quan hệ giữa con người
với con người càng phát sinh nhiều hơn, mà càng nhiều mối quan hệ làm thì tranh
chấp, xâm hại lợi ích của nhau càng lớn, mâu thuẫn càng nhiều. Mỗi một chủ thể
có thể tự lựa chọn cách giải quyết vấn đề cho bản thân mình tự mình hịa giải,
thương lượng hoặc có thể nhờ đến cơ quan tòa án giải quyết theo yêu cầu của
mình. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền đưa ra u cầu của mình đến Tịa án giải
quyết để buộc người có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình chấm dứt
hành vi vi phạm, bồi thường một khoản thiệt hại (nếu có). Như vậy ta có thể thấy
rằng cơ sở làm phát sinh thủ tục giải quyết vụ án dân sự đó là từ việc có yêu cầu
của đương sự - việc đưa ra yêu cầu này gọi là khởi kiện vụ án dân sự theo thủ tục
giải quyết Tòa án tại cấp sơ thẩm. Trong phạm vi bài làm của em, em xin chọn đề
tài “Phân tích, đánh giá những điểm mới BLTTDS năm 2015 về khởi kiện vụ án
dân sự”, để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề khởi kiện vụ án dân sự ở từng giai đoạn có
sự khác nhau hay không? Lý giải tại sao lại phải thay đổi so với luật cũ? Thay đổi
như vậy mang lại ý nghĩa gì? Bài làm của em cịn nhiều thếu sót, mong q thầy cơ
góp ý kiến để bài làm được hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !


NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO
BLTTDS 2015.


1.1. khái niệm của khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là một thủ tục có tính truyền thống lâu đời của tố
tụng dân sự, tuy nhiên trước khi khởi kiện đến Tòa án nhằm để bảo vệ tối đa quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì địi hỏi người khởi kiện phải là người có
quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật nhằm để tránh tình trạng một người
khơng có quyền khởi kiện nhưng vẫn khởi kiện xâm phạm đến quyền và lợi ích của
chủ thể khác.
Theo Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại
Chương II Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã quy định
tại Điều 14(1). Như vậy chúng ta thấy Hiến pháp đã ghi nhận quyền dân sự có ý
nghĩa rất quan trọng, theo đó cơng dân được phép xử sự theo một cách nhất định,
được yêu cầu người khác thực hiện những hành vi nhất định để bảo vệ quyền và lợi
ích cho mình.
Khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động tố tụng của các cá nhân, tổ chức, cơ
quan có quyền, tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp của mình đưa
vấn đề tranh chấp ra tịa án có thẩm quyền giải quyết thèo trình tự, thủ tục pháp
luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hặc của người
khác, lợi ích cơng cộng hoặc lợi ích nhà nước.
1.2. Đặc điểm:
Là hoạt động tố tụng làm tiền đề phát sinh những giai đoạn tiếp theo, hoạt
động khởi kiện vụ án dân sự có những đặc điểm cụ thể sau:
Thứ nhất, là cơ sở phát sinh thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự tại Tịa.
Được thực hiện thơng qua hành vi nộp đơn khởi kiện đến tịa án có thẩm quyển để
giải quyết, nếu khơng có hành vi này sẽ khơng có các giai đoạn tiếp theo.


Thứ hai, là hoạt động do các chủ thể có quyền thực hiện theo quy định của
pháp luật
Quy định như vậy hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong TTDS,
không cho phép người khác không phải là chủ thể có quan hệ pháp luật lợi dụng

quyền khởi kiện để xâm phạm quyền và lợi ích của người khác.
Thứ ba, là hoạt động tố tụng mà các đương sự tự do định đoạt trong việc
bảo vệ mình
Xuất phát từ việc khởi kiện là sự tự nguyện, tự do của mỗi người, tự do thỏa thuận
của mỗi người.
Thứ tư, được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sư quy
định.
2. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BLTTDS NĂM 2015 VỚI BLTTDS 2004 VỀ
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ.
Quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự là một trong những quyền tố tụng quan
trọng nhằm tới mục đích bảo vệ quyền con người liên quan đến lĩnh vực dân sự,
hơn nhân gia đình, lao động, thương mại. quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự là
quyền tự định đoạt, từ quyết định của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc yêu
cầu tòa án nhân danh quyền lực nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân,
BLTTDS năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2004 theo hướng hồn
thiện, chặt chẽ hơn.
2.1. Chủ thể có quyền khởi kiện
Cở sở pháp lý: khoản 2, khoản 3, khoản 4 điều 187 BLTTDS năm 2015,
khoản 2 điều 162 BLTTDS năm 2004.
Thứ nhất, tại khoản 2 điều 162 BLTTDS 2004 quy định “Cơng đồn cấp
trên cơng đồn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động do pháp luật quy định”. Tại


BLTTDS 2015 quy định chủ thể trong lĩnh vực này có sự thay đổi về mặt tên gọi
của chủ thể khởi kiện, cụ thể “Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi
kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của
pháp luật”. Sự thay đổi này trước tiên nhằm đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ với

quy định của Bộ luật Lao động 2012.
Khoản 4 điều 3 Bộ luật Lao Động năm 2012 quy định: Tổ chức đại diện tập
thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành cơng đồn cơ sở hoặc Ban chấp hành
cơng đồn cấp trên trực tiếp cơ sở nơi chưa thành lập cơng đồn cơ sở. Theo quy
định mới này, ta có thể hiểu rằng Ban chấp hành cơng đồn cơ sở được thừa nhận
là tổ chức đại diện tập thể của người lao động và là chủ thể có quyền khởi kiện để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động, cho từng cá nhân
người lao động khi được ủy quyền hợp pháp. Cịn trong tinh thần của BLTTDS
2004 ta có thấy rằng Ban chấp hành cơng đồn trực tiếp chỉ được đại diện khởi
kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể lao động trong trường hợp tại
nơi người lao động làm việc chưa thành lập cơng đồn cơ sở.
Ý nghĩa của việc thay đổi:
Có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn áp dụng để xác định chủ thể nào có
quyền khởi kiện và quyền tham gia tố tụng của chủ thể khởi kiện. Cơ sở đánh giá
tính hợp pháp của q trình tố tụng của các vụ án dân sự giải quyết tranh chấp bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động.
So với chủ thể trong BLTTDS “Cơng đồn cấp trên của Cơng đồn cơ sở”
thì “Tổ chức đại diện tập thể lao động” - thể hiện gần gũi với tập thể người lao
động, nắm rõ các quyền cũng như lợi ích, nhu cầu của người lao động từ đó có
điều kiện tốt hơn trong việc khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập
thể người lao động.


Thứ hai, liên quan đến việc khởi kiện nhằm bảo vệ lợi ích cho người tiêu
dùng được quy định tại khoản 3 điều 187 BLTTDS 2015, đây là một điều khoản
mới mà trong BLTTDS 2004 không đề cập đến, theo quy định tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diên cho người tiêu dùng khởi
kiện để bảo vệ quyền và lợi ích cho người tiêu dùng hoặc người tiêu dùng tự mình
khởi kiện vì lợi ích cơng cộng theo quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Mặc
dù, quyền khởi kiện của tổ chức xã hội này đã được quy định trong luật bảo vệ

người tiêu dùng năm 2010, song đây lại là một chủ thể có quyền khởi kiện mới
được bổ sung vào BLTTDS năm 2015 nhằm phù hợp với điều kiện thực tế khi nhu
cầu tiêu dùng của con người ngày càng gia tăng, sự biến động ngày càng phức tạp
của thị trường cung cầu trong và ngoài nước dẫn đến quyền lợi của người tiêu dùng
có thể bị ảnh hưởng, từ đó đặt ra vấn đề cần được bảo vệ một cách nhanh chóng,
kịp thời. Trên thực tế, đại đa số các cá nhân tham gia quan hệ mua bán sản phẩm,
tiêu thụ sản phẩm với tư cách là người tiêu dùng. Do đó khi có trường hợp người
tiêu dùng bị ảnh hưởng đến lợi ích, ngồi tự bản thân họ có quyền tự khởi kiện ra,
cịn được tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi cho mình. Hơn nữa các tổ chức
xã hội này tự mình khởi kiện với mục đích nhằm đảm bảo lợi ích chung của cộng
đồng.
Ý nghĩa của việc bổ sung:
Một là nhằm tạo tính nhất quán, chặt chẽ với quy định về người khởi kiện tại
điều 41 của Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010.
Hai là quy định như vậy đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cho người tiêu
dùng về việc bảo vệ quyền và lợi ích cho họ lịng tin cho người tiêu dùng, làm cho
người tiêu dùng an tâm trong việc sử dụng các sản phẩm trong đời sống sinh hoạt.
Thứ ba, Trong lĩnh vực hôn nhân gia đình quy định tại khoản 5 điều 187
BLTTDS 2015, đây cũng là một điều khoản mới được bổ sung trong BLTTDS


2015, “cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hơn nhân và gia đình để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.”
Cá nhân có quyền khởi kiện theo luật Hơn nhân và gia đình để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp được quy định tại: khoản 2 điều 51, khoản 5 điều 84, khoản 2 điều
86, điều 92, khoản 3 điều 102, khoản 2 điều 1191. Chủ thể có quyền khởi kiện
trong trường hợp này cũng là sự bổ sung mới của BLTTDS 2015 với mục đích để
đảm bảo quyền lợi của người vợ hoặc chồng bị mất NLHVDS chịu ảnh hưởng
nghiêm trọng của hành vi bảo lực gia đình mà từ các hành vi đó đe dọa trực tiếp
đến tình mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Các cá nhân có quyền khởi kiện ở đây

cịn được hiểu cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.
* Ý nghĩa của việc bổ sung:
- Việc bổ sung thêm chủ thể có quyền khởi kiện trong BLTTDS đảm bảo quyền và
lợi ích cơ bản con người, quyền cơng dân trong q trình hội nhập và phát triển
kinh tế.
=> Việc mở rộng này đã đáp ứng được quyền tiếp cận công lý của các chủ thể tham
gia quan hệ dân sự nói chung và các chủ thể quan hệ dân sự nói riêng, bảo vệ tốt
hơn quyền con người, quyền công dân quy định theo Hiến Pháp 2013.
2.2. Hình thức khởi kiện vụ án dân sự
Cơ sở pháp lý: điều 189 BLTTDS 2015, điều 164 BLTTDS 2004 (sửa dổi bổ
sung 2011).
Thứ nhất, nếu như trong BLTTDS 2004, khoản 1 điều 164 “cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện” - ngồi quy định này ra ta thấy
khơng cịn thấy điều khoản nào quy định thêm. Nhưng đến BLTTDS 2015, hình
thức khởi kiện vụ án hình sự được viết lại hồn toàn theo cách mới theo hướng rõ
ràng hơn, bằng cách tách bạch cách làm đơn khởi kiện của cá nhân với cách làm
đơn khởi kiện của cơ quan, tổ chức đối với từng trường hợp cụ thể, lần lượt được
quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 189 BLTTDS 2015, cịn về phía BLTTDS


2004 ta thấy nhà làm luật khơng có sự tách và rõ ràng như BLTTDS hiện hành, cụ
thể:
Đối với cá nhân: Cách làm đơn khởi kiện đối với cá nhân được quy định cụ
thể tại khoản 2 điều 189 BLTTDS 2015 => Hướng dẫn một cách cụ thể, rõ ràng
phân rõ từng trường hợp. BLTTDS 2015 đã tạo điều kiện tốt nhất cho đương sự
trong việc thực hiện việc khởi kiện của mình ngay cả trong trường hợp cá nhân
chưa thành niên, khó khăn trong nhận thức, mất NLHVDS vẫn có thể được thực
hiện quyền của mình qua người đại diện để được bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp
pháp của mình khi có tranh chấp hoặc hành vi vi phạm.
Đối với cơ quan, tổ chức: Cách làm đơn khởi kiện đối với tổ chức được quy

định cụ thể tại khoản 3 điều 189 BLTTDS 2015. Việc khởi kiện của cơ quan, tổ
chức được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó,
người đại diện có thể tự mình làm đơn khởi kiện hoặc nhờ người khác làm hộ cho,
tuy nhiên sau cùng phải người đại diện phải ký tên và có dấu của cơ quan, tổ chức
đó.
Thứ hai, chúng ta thấy, theo đoạn 2 khoản 3 điều 164 BLTTDS 2004 (sửa
đối bổ sung 2011) có một yêu cầu đặt ra đó là “Yêu cầu người làm chứng phải ký
xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã”, để từ đó
người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã chứng nhận trước mặt người
khởi kiện và người làm chứng, tuy nhiên theo tinh thần của BLTTDS 2015 quy
định tại điểm c khoản 2 điều 189 BLTTDS 2015 chỉ quy định người làm chứng
phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện, chứ khơng cịn bắt buộc là người đó phải ký
xác nhận trước mặt người có thẩm quyền. Sự thay đổi này, cho thấy đây là một
điểm hoàn toàn phù hợp với đặc trưng và hoàn toàn tôn trọng, đề cao “quyền tự
định đoạt” của cá nhân, tránh mất thời gian, thủ tục rườm rà trải qua nhiều bước từ
đó tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện tại tòa.


Thứ ba, Nếu trong BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung 2011), người khởi kiện khi
nộp đơn khởi kiện phải gửi cho Tòa án tài liệu, chứng cứ “ban đầu”. Đến BLTTDS
2015, khi nộp đơn khởi kiện phải gửi kèm cho tịa án tài liệu chứng cứ, “hiện có”.
2.3. Phương thức nộp đơn khởi kiện.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 điều 166 BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung 2011), khoản
1 điều 190 BLTTDS 2015.
Khoản 1 điều 166 BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung 2011), có hai phương
thức khởi kiện là: nộp trực tiếp tại Tòa án và gửi đơn kiện đến Tịa án qua bưu điện
thì đến BLTTDS 2015, đã bổ sung thêm 01 hình thức mới bên cạnh 02 hình thức
quy định tại BLTTDS 2004 đó là hình thức “gửi đơn kiện trực tiếp bằng hình thức
điện tử thơng qua cổng thơng tin điện tử của Tịa án (nếu có)”, đây là điểm mới
nhằm tiến tới hiện đại hóa trong hoạt động của Tòa án và tạo mọi thuận lợi cho

người khởi kiện. Với sự bùng nổ của công nghệ thơng tin như hiện nay, hầu hết các
Tịa án đều có website riêng, nên việc bổ sung mới là điều kiện cần thiết.
Tiết kiệm được thời gian, chí phi đi lại, cơ sở cho việc cải cách hành chính
tại Tịa án theo hướng khởi kiện, cung cấp chứng cứ thông qua hộp thư điện tử …
Tùy thuộc và từng phương thức gửi đơn mà ngày khởi kiện cũng được xác định
khác nhau.
2.4. Nội dung khởi kiện vụ án dân sự
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 điều 164 BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung 2011), khoản
4 điều 189 BLTTDS 2015.
Trình bày nội dung trong đơn khởi kiện theo luật hiện hành được trình bày
rõ hơn, chi tiết hơn, bên cạnh các thông tin cần phải ghi như: tên; nơi cư trú; nơi
làm việc hoặc trụ sở của người khởi kiện … thì nay bổ sung thêm thơng tin như: số
điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử, đồng thời cho phép các bên có thể lựa chọn
địa chỉ khác với địa chỉ cư trú hoặc địa chỉ nơi làm việc để tịa án có thể liên hệ.
Quy định mới này tạo ra sự thuận lợi cho Tòa án trong việc thực hiện thủ tục tống


đạt hợp lệ và cũng tạo điều kiện cho các bên trong quá trình tố tụng thực hiện liên
hệ với tịa án từ đó đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng, tuân
thủ thủ tục tố tụng dân sự trong thủ tục gửi và tiếp nhận các tài liệu liên quan đến
vụ án.
2.5. Thủ tục nhận đơn và xử lý đơn khởi kiện.
Cơ sở pháp lý: Điều 167 BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung 2011), các điều
191,192, 194 BLTTDS 2015.
Thứ nhất, BLTTDS 2004 chỉ quy định Tòa án nhận đơn khởi kiện và ghi
vào sổ nhận đơn nhưng lại không quy định thủ tục cấp giấy cho người khởi kiện để
xác định việc tòa án đã chấp nhận đơn khởi kiện của họ. Chính vì khắc phục hạn
chế này ngay tại đoạn 2 khoản 1 điều 191 BLTTDS 2015 đã quy định đầy đủ về
việc tòa án có trách nhiệm cấp giấy xác nhận cho người khởi kiện khi nhận đơn
khởi kiện nộp trực tiếp tại tòa án. Cịn qua 02 hình thức là nhận đơn qua dịch vụ

bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày phải gửi thơng báo nhận đơn khởi kiện, qua
hình thức gửi trực tuyến thì tịa án phải thơng báo ngay việc nhận đơn qua Cổng
thông tin điện tử cho người khởi kiện.
Việc quy định mới cho thấy ý nghĩa quan trọng thể hiện sự làm việc chuyên
nghiệp của hệ thống tòa án, tạo cho đương sự được cảm giác an tâm khi được tòa
án tiếp nhận đơn khởi kiện kịp thời đồng thời khi tịa án thơng báo chấp nhận đơn
khởi kiện để từ đó đương sự chuản bị tâm lý cũng như sự chuẩn bị tài liệu liên
quan đến vụ kiện.
Thứ hai, khoản 2 điều 191 BLTTDS 2015, quy định mới về việc phân công
Thẩm phán xem xét và xử lý đơn khởi kiện
2.6. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện
Cơ sở pháp lý: Khoản 1,2,3 Điều 192 BLTTDS 2015; Điều 168 BLTTDS
2004 (sửa đổi bổ sung 2011).


Tại khoản 1 điều 192 BLTTDS 2015 đã bổ sung và quy định rõ một số
trường hợp khởi kiện. Đặc biệt BLTTDS 2015 đã bổ sung trường hợp trong đơn
khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị
kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan {....}.
Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo cho người khởi
kiện, có sự khác nhau về tên gọi ở BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung 2011), chỉ nếu
chung là “Tòa án” ngược lại ở BLTTDS 2015 đã nêu rõ “Thẩm phán” là người trả
lại đơn khởi kiện và phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn, đồng thời gửi cho
Viện Kiểm Sát cùng cấp. Một điểm mới trong BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2004
(sửa đổi bổ sung 2011), đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại
cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại tòa án để làm cơ sở giải quyết
khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
BLTTDS 2015 không thay đổi trường hợp đương sự có quyền nộp đơn khởi
kiện, mà chỉ thay đổi cụm từ “xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, xin thay đổi người
quản lý tài sản ...” thành cụm từ “yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, yêu

cầu thay đổi người quản lý tài sản”. => Từ việc thay đổi đó, nhằm khẳng định vai
trị quan trọng của Nhân dân theo tinh thần Hiến Pháp 2013.
2.7. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn
khởi kiện.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1,2,3,4,5,7 Điều 194 BLTTDS 2015, Điều 170
BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung 2011).
BLTTS 2015, kéo dài thời hạn được quyền khiếu nại, khởi kiện với thời hạn
là 10 ngày người khởi kiện có quyền khiếu nại, viện kiểm sát có quyền kiến nghị
với Tịa án, so với BLTTDS 2004 thì khoảng thời gian là 03 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, và người khởi kiện có quyền khiếu
nại với Chánh án Tịa án.


BLTTDS 2015 bổ sung quy định tại khoản 2, 3 Điều 194. Bỏ quy định thời
hạn Thẩm phán phải ra một quyết định giữ nguyên hoặc nhận lại.
BLTTDS 2015 kéo dài thời hạn được quyền khởi kiện, khiếu nại là 10 ngày,
so với trước đây chỉ là 07 ngày.
3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1 Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi
kiện vụ án dân sự.
3.1.1 Những kết quả đạt được
Trong những năm gần đây, qua số liệu thống kê các vụ án mà tịa đã thụ lý
có thể thấy việc người dân đã và đang ngày càng nhận thức rõ quyền của mình. Từ
năm 2016 đến năm 2017, các tòa đã giải quyết được hơn 400.000 đạt 83,5% trong
tất cả các lĩnh vực, trong đó số vụ việc trong lĩnh vực dân sự chiếm tỷ lệ cao nhất.
Các vụ việc hôn nhân gia đình 168.987 trong đó lý hơn do mâu thuẫn chiếm 65%
tổng số các vụ án lý hơn mà tịa án đã giải quyết, các vụ việc về KDTM là 12.475,
chủ yếu là tranh chấp trong mua bán hàng hóa, đầu tư tài chính ... Qua số liệu
thống kê năm 2017, ngành tòa án đã và đang nỗ lực phấn đấu nâng cao chất lượng

hoạt động, thời gian thụ lý rút ngắn để kịp thời bảo về quyền và lợi ích cho các chủ
thể. Qua số liệu trên ta có thể thấy việc thụ lý và giải quyết các vụ án dân sự theo
quy định của pháp luật ngày một tăng bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ, thống
nhất việc thực hiện quyền khởi kiện của các chủ thể.
3.1.2 Những hạn chế, bất cập về khởi kiện vụ án dân sự.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động của Tòa án trong những năm qua
cũng còn một số hạn chế, thiếu sót:
Số lượng tranh chấp khởi kiện ngày càng nhiều trong khi số lượng Thẩm
phán hạn chế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều
trường hợp cán bộ Tòa án trả lại đơn khởi kiện mà khơng thể giải thích được lý do
hoặc kéo dài thời gian nhận đơn khởi kiện, khiến người dân mất niềm tin.


Do trình độ dân trí, hiểu biết pháp lt chưa đồng đều, nên nhiều đơn khởi
kiện không đáp ứng đủ điều kiện mà pháp luật quy định.
Khó khăn, vướng mắc trong việc thực thi phương thức gửi đơn khởi kiện
thông qua cổng thơng tin điện tử của tịa. Song mạng lưới internet vẫn cịn hạn chế,
với những địa phương có địa hình hiểm trở thì phương thức này trở thành một trở
ngại lớn.
Khó khăn từ việc khởi kiện của chủ thể là người không biết chữ, người mất
NLLHVDS, trên thực tế ta hiểu người khơng biết chữ có nghĩa là người không biết
đọc, biết viết, tuy nhiên trên thực tế những người không biết chữ vẫn biết ký tên
của bản thân mình, nếuTịa án thụ lý giải quyết sẽ vi phạm thủ tục tố tụng.
3.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả khởi kiện vụ án dân sự.
Mặc dù có nhiều điểm mới tiến bộ hơn BLTTDS 2004, song qua thực tiễn thực
hiện BLTTDS 2015 vẫn còn bộc lộ những hạn chế. Do dó, để tiếp tục hồn thiện
pháp luật khởi kiện vụ án dân sự, cần thực hiện những nội dung:
Thứ nhất “quy định về đối tượng tranh chấp là bất động sản” còn khá mập
mờ, trong bối cảnh hiện nay vấn đề tranh chấp về lĩnh vực này ngày càng phức tạp
địi hỏi cần có sự hướng dẫn rõ ràng, cụ thể hơn.

Thứ hai, cần mở rộng quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết giữa các
đương sự.
Thứ ba, pháp luật cần có quy định về các điều kiện khởi kiện để người dân
dễ dàng nắm bắt và thực hiện.
Thứ tư, cần quy định rõ ràng về trường hợp mà bị đơn có nơi cư trú và nơi
làm việc khác nhau thì tịa án nơi bị đơn cư trú hay tòa án nơi bị đơn làm việc có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự.
Thứ năm, cần bổ sung thêm quy định cho phép người khởi kiện được trực
tiếp đến tịa án trình bày u cầu khởi kiện


KẾT LUẬN
Vấn đề khởi kiện vụ án dân sự là vấn đề luôn được các nhà nghiên cứu đặc
biết quan tâm. Ở Việt Nam hiện nay, các quy định pháp luật tố tụng dân sự về cơ
bản đã phần nào thể hiện được vấn đề này, tuy nhiên thì nhiều vấn đề còn chưa
được giải quyết trên phương diện lý luận, do đó nghiên cứu là vấn đề rất cần thiết.
Việc tiềm hiểu hệ thống pháp các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi
kiện vụ án dân sự liên hệ với pháp luật tố tụng các nước. Tuy nhiên bên cạnh
những mặt đạt được thì pháp luật tố tụng còn tồn tại khá nhiều bất cập, hạn chế. Vì
vậy, trong phạm vi bài làm của em dựa trên việc phân tích và đánh giá thực tiễn các
quy định của pháp luật hiện hành có những điểm nào mới, những điểm mới đó có ý
nghĩa gì, cịn hàn chế những vấn đề gì về khởi kiện vụ án dân sự. Để từ đó chỉ ra
những thiếu sót, chưa phù hợp khi thực hiện trên thực tế, từ đó đưa ra những giải
pháp thích hợp về khởi kiện vụ án dân sự.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công An nhân dân 2017,
(tr239-tr247)
2. Lê thu Hà (2005), Bình luận khoa học một số vấn đề pháp luật tố tụng dân sự và

thực tiễn áp dụng, NXB Tư Pháp- Hà Nội
3. PGS.TS Trần Anh Tuấn, Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân sự, NXB Tư
Pháp.
4. Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân sự, NXB Lao Động
5. PGS.TS Nguyễn Hồi Phương, Bình luận những điểm mới trong Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 (tr152-159)
6. Sách chuyên khảo bình luận khoa học về những điểm mới trong BLTTDS 2015
7. THS. Tạ Đình Tuyên, So sánh BLTTDS 2004 với BLTTDS 2015, NXB Lao
động
8. Trang web tham khảo:


/thongtinphapluatdansu.edu.vn/2018/05/27/nhung-diem-moi-cua-bo-luat-totung-dn-su-nam-2015



/>


/>


×