Công ty chứng khoán và những vấn đề cần quan tâm
Hầu hết mọi nơi trên thế
giới, các hình thức đầu tư
chứng khoán là một chủ đề
được nhiều người quan tâm. Và
cách tiếp cận thị trường chứng
khoán dễ dàng nhất là thông
qua các công ty chứng khoán.
Tuy nhiên, cách thức tiếp cận
trên cũng có rất nhiều vấn đề
cần được lưu ý, đặc biệt đối với
những nhà đầu tư nghiệp dư
lần đầu tiên làm quen với môi
trường này.
Có thể thấy tại các công ty chứng khoán, số lượng khách hàng đến mở tài
khoản giao dịch nói riêng hay lượng người quan tâm đến chứng khoán nói chung
ngày một tăng. Các công ty chứng khoán được làm đại lý phát hành chứng khoán
niêm yết cho các tổ chức phát hành; tự kinh doanh chứng khoán và nhiều dịch vụ
tư vấn đầu tư khác. Ngoài ra, những đơn vị này được thực hiện tư vấn cổ phần
hóa, xác định giá trị doanh nghiệp và cung cấp các dịch vụ tài chính khác.
Tìm hiểu những về một số thuật ngữ và hoạt động của các công ty
chứng khoán
Khi bắt đầu làm quen với việc kinh doanh chứng khoán, việc đầu tiên
chúng ta phải làm là mở tài khoản tại một công ty chứng khoán. Khi ấy, chúng ta
sẽ gặp một loạt các thuật ngữ “bí hiểm” như: full-service brokerage firms,
discount firms, wire houses, boutique firms… Vậy những thuật ngữ trên có ý
nghĩa như thế nào và chúng khác nhau ra sao?
Các công ty môi giới chứng khoán hiện nay trên thế giới được chia thành 2
nhóm chính (classified into two main categories): full-service brokerage firms
(tạm dịch là công ty tổng hợp) và discount firms (công ty chuyên doanh).
Khi quyết định sử dụng dịch vụ của một công ty chuyên doanh, các nhà đầu
tư chỉ có thể nhận được 2 loại dịch vụ duy nhất là thực hiện lệnh (order execution)
và thanh toán (clearance) khi lệnh mua/bán (buy/sell order) của nhà đầu tư đã
được “khớp” (matched) với 1 hoặc nhiều lệnh khác. Một trong những ưu điểm
chính của các công ty chuyên doanh” là phí hoa hồng (commissions) sẽ thấp hơn
khoảng từ 1/4 cho đến 2/3 so với trường hợp các công ty tổng hợp.
Các nhà đầu tư chỉ nên sử dụng dịch vụ của các công ty này khi đã là một
nhà đầu tư nhạy bén, có khả năng nắm bắt cũng như phân tích thông tin một cách
nhanh nhạy và chính xác. Một số công ty chuyên doanh hiện đang rất nổi tiếng
hiện nay là Charles Schwab, Lombard .
Trong khi đó, các công ty tổng hợp, ngoài việc cung cấp 2 loại dịch vụ kể
trên, còn cung cấp các dịch vụ khác như: phát hành các bản nghiên cứu tình hình
đầu tư (investment research reports) do các chuyên viên phân tích của phòng
nghiên cứu (research department analysts) soạn thảo; cung cấp dịch vụ quản lý tài
sản (asset management); tư vấn đầu tư (investment advice); giúp lập các dự toán
tài chính (financial planning); tư vấn các biện pháp giảm hoặc tránh thuế (tax
shelters) cho khách hàng.
Ngày nay, cụm từ “dịch vụ môi giới” (brokerage service) đang dần dần
được thay bằng thuật ngữ “các dịch vụ tài chính” (financial services) do các dịch
vụ mà nhà môi giới cung cấp cho khách hàng ngày càng được mở rộng. Các công
ty tổng hợp này được chia làm nhiều loại như sau:
-
Wire houses: là các công ty cung cấp rất nhiều loại hình công cụ đầu tư
cho khách hàng và đối tượng chủ yếu của các công ty này là những nhà đầu tư cá
nhân (individual investors). Mặc dù vậy, họ cũng phục vụ các nhà đầu tư có tổ
chức (institutional investors) và tiến hành mua bán cổ phiếu cho chính mình (trade
for their own inventories). Merrill Lynch, Dean Witter Reynolds,
Shearson/Hutton, Prudential Bache, Smith Barney là những công ty thuộc loại
này.
-
Specialized firms: là những công ty chỉ chuyên cung cấp dịch vụ liên quan
đến một hoặc một số rất ít các công cụ đầu tư. Lebenthal & Co. là một công ty rất
nổi tiếng chuyên cung cấp các dịch vụ liên quan đến trái phiếu đô thị (municipal
bonds).
-
Carriage trade houses: đây là từ chuyên dùng để chỉ các công ty “đóng
đô” tại thành phố New York (New York-based firms). Khách hàng của các công ty
này đều được lựa chọn kỹ càng và đều là khách “sộp”. Muốn mở tài khoản tại đây,
nhà đầu tư nhất thiết phải được sự giới thiệu của các khách hàng hiện tại
(recommendation of existing clients). Dịch vụ do các công ty này cung cấp đều
được cá nhân hóa cao độ để phù hợp với từng khách hàng. Các tên tuổi lớn như
Morgan Stanley, Donaldson Lufkin , Bear Stearns đều thuộc dạng này.
- Boutique firms: đây là từ dùng để chỉ các công ty vừa có đặc điểm của
một carriage trade firm vừa có đặc điểm của một wire house. Dịch vụ do các công
ty này cung cấp cũng mang tính chất cá nhân hóa như các carriage trade houses.
Đối tượng của các công ty này là những nhà đầu tư có thu nhập trung bình
(middle-income-bracket investors). Một số các công ty thuộc dạng này là
Grunthal, Butcher and Singer, F.S. Mosely.
Mỗi mô hình công ty chứng khoán đều có những ưu nhược điểm riêng.
Hiệu quả đạt được ở chỗ các nhà đầu tư vận dụng các mô hình này như thế nào
vào tình hình thực tế của công ty mình.
Tránh rủi ro khi giao dịch với công ty chứng khoán
Khi tiến hành tư vấn đầu tư chứng khoán trực tiếp cho khách hàng, các
công ty chứng khoán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của mình
và bồi thường thiệt hại cho khách hàng nếu vi phạm các cam kết. Trong trường
hợp thực hiện tư vấn cho doanh nghiệp trong việc niêm yết chứng khoán, các công
ty phải chịu trách nhiệm liên đới về nội dung trong hồ sơ xin niêm yết. Tuy nhiên,
vẫn có rất nhiều công ty chứng khoán lợi dụng những khe hở của pháp luật để tiến
hành các hành vi tiêu cực mà nếu không cẩn thận các nhà đầu tư rất dễ gặp rủi ro.
Dưới đây là một số hành vi trục lợi phổ biến nhất có thể xảy ra tại các công
ty chứng khoán:
Tư vấn vì lợi ích cá nhân
Do ý đồ cá nhân, công ty chứng khoán có thể sẽ tư vấn đầu tư không phù
hợp với nhu cầu, khả năng tài chính và mục tiêu của khách hàng. Do đó, các nhà
đầu tư cần nhận thức rõ ràng về những điều mình cần biết. Mỗi khoản đầu tư được
tư vấn đều cần có lời giải thích cặn kẽ, gồm cả việc khuyến cáo các rủi ro.
Vi phạm quy định giao dịch công bằng
Các hoạt động sau đây của các công ty chứng khoán bị xem là vi phạm
những quy định giao dịch công bằng:
- Đề nghị thực hiện việc đầu cơ chứng khoán mà không xem xét tình hình
tài chính của khách hàng và đảm bảo cho khách hàng bị rủi ro.
- Mở tài khoản khống thực hiện việc kinh doanh chứng khoán trái phép.
- Thực hiện các giao dịch ngoài thẩm quyền được giao.
- Đề nghị mua chứng khoán không thích hợp với khả năng chi trả của khách
hàng.
- Các hoạt động lừa đảo (chẳng hạn như giả mạo và cung cấp không đầy đủ
hoặc không cung cấp số liệu thực tế).
Giao dịch thái quá
Hành vi giao dịch thái quá có nghĩa là giao dịch thường xuyên và với số
lượng lớn trên tài khoản của khách hàng nhằm mục đích nhận hoa hồng mà không
nhằm đạt được các mục tiêu khách hàng đã đề ra. Đây là hành vi lạm dụng trách
nhiệm uỷ quyền của khách hàng.
Một trong những biện pháp để ngăn chặn hành vi lạm dụng này là nhà đầu
tư cần phải yêu cầu tất cả tài khoản mà mình uỷ quyền cho công ty chứng khoán
phải được giám sát viên của công ty chứng khoán xem xét thường xuyên.
Vay và cho vay tiền hoặc chứng khoán
- Vay tiền và vay chứng khoán của khách hàng: Các công ty chứng khoán
bị cấm vay tiền hay chứng khoán từ khách hàng trừ phi khách hàng là ngân hàng
hay các tổ chức tài chính có chức năng thực hiện việc cho vay tiền và chứng
khoán. Song nhiều công ty chứng khoán vẫn phớt lờ khi tiếp tục thực hiện hành vi
này.
- Cho khách hàng vay tiền và chứng khoán: Các công ty chứng khoán cũng
bị cấm cho khách hàng vay tiền hay chứng khoán. Quy định này không áp dụng
cho nghiệp vụ vay bảo chứng của các công ty chứng khoán hay việc các nhà môi
giới chứng khoán cho vay theo nghiệp vụ thông thường.
Xuyên tạc
Các công ty chứng khoán có thể xuyên tạc, nói không đúng về bản thân hay
về các dịch vụ của công ty mình đối với khách hàng tiềm năng. Do đó, theo quy
định, công ty chứng khoán không được phép xuyên tạc về:
- Trình độ, kinh nghiệm và học vấn.
- Loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng.
- Các loại phí.
Việc công bố không chính xác hay không công bố các sự kiện quan trọng
liên quan đến những vấn đề trên cũng bị coi là xuyên tạc. Các nhà đầu tư sẽ phải
khó khăn khi so sánh chất lượng dịch vụ giữa các công ty chứng khoán nếu họ
không được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác liên quan đến vấn đề chuyên
môn.
Sử dụng các báo cáo, công trình nghiên cứu của người khác
Trái với quy định, nhiều công ty chứng khoán vẫn sử dụng các nghiên cứu
phân tích hay đề nghị do cá nhân hay công ty khác tiến hành mà không công bố
rằng các báo cáo này không phải do chính họ thực hiện. Công ty chứng khoán có
thể sử dụng các kết quả nghiên cứu trong các báo cáo hay phân tích của người
khác nhưng không được tự nhận rằng, các báo cáo, nghiên cứu đó là của mình
khiến nhà đầu tư hiểu nhầm về họ.
Tổng kết một vài điều nhà đầu tư cần lưu ý khi giao dịch với các công
ty chứng khoán:
- Hãy yêu cầu công ty chứng khoán cho biết về tình hình thị trường hiện tại,
các nhà đầu tư cũng có thể yêu cầu họ cung cấp các tài liệu về tình hình của các
công ty niêm yết. Hãy quan tâm đến những quy định cơ bản về hoạt động của công
ty và thị trường như giới hạn khoản tiền mở tài khoản, mức phí môi giới, biên độ
dao động giá
- Cần thận trọng đối với những nhà tư vấn đầu tư cung cấp thông tin không
khớp với các thông tin trong tài liệu. Trong trường hợp có nhiều điểm không giống
hãy xin tư vấn dưới dạng văn bản về những gợi ý đầu tư và lý do đầu tư. Điều này
sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư trong trường hợp phát sinh các vấn đề sau khi được tư
vấn.
- Các công ty chứng khoán hứa hẹn lợi nhuận nhanh chóng và dễ dàng cũng
là điều các nhà đầu tư cần cân nhắc Hãy nhớ là điều gì quá tốt, quá thuận lợi đều
cần phải xem lại. Nên cân nhắc kỹ càng, nếu các nhà đầu tư còn băn khoăn điều gì
hãy tìm lời khuyên của người tư vấn khác.
- Đừng để bị thuyết phục dẫn đến những quyết định hấp tấp dựa trên các
thông tin “nội gián”, thông tin “tuyệt mật”, “khả năng hợp nhất” hoặc “bị thâu
tóm” hay những tin về “sản phẩm mới hấp dẫn”,
- Khi đầu tư vào chứng khoán, các nhà đầu tư nên hiểu rằng các điều kiện
cấp phép do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đặt ra là nhằm bảo đảm cho các công
ty chứng khoán được cấp phép có đủ khả năng hoạt động trong lĩnh vực được cấp
phép. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các loại giấy phép do Uỷ ban chứng
khoán nhà nước cấp sẽ đảm bảo tính trung thực đối với hành vi của người hoặc
đơn vị được cấp phép hay chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp.
Sau cùng, nhà đầu tư đến bất kỳ công ty chứng khoán nào cũng đều có thể
dễ dàng được tiếp cận với những thông tin thị trường, những lời khuyên của các
nhà môi giới, hoặc tư vấn của các chuyên gia Nhưng đó là tại những thị trường
lâu đời như phố Wall, Nhật, Hongkong. Còn tại thị trường chứng khoán mới và sơ
khai như thị trường Việt Nam, các chủ thể hoạt động vẫn trong giai đoạn vừa làm
vừa bổ sung và củng cố nên nhà đầu tư chưa thể đặt niềm tin tuyệt đối vào bất kỳ
một định chế tài chính nào.