Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Hồ sơ hành chính 14 ông Nguyễn Bá Sao khởi kiện quyết định khắc phục hậu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.21 KB, 14 trang )

PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG SỐ 14:
ÔNG NGUYỄN BÁ SAO KHIẾU KIỆN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI


I.

TĨM TẮT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Người khởi kiện: ơng Nguyễn Bá Sao
Người bị kiện: Chủ tịch UBND TP
Đối tượng khởi kiện:

-

(i)

Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 273/QĐ-KPHQ ngày
29/8/2019 đối với ông Nguyễn Bá Sao

(ii)

QĐ cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả số 152/QĐCCXP ngày 09/01/2020

(iii)

QĐ 2004/QĐ-UBND ngày 29/4/2020 về việc giải quyết đơn khiếu nại của
ông Sao, bác đơn khiếu nại của ông Sao, giữ nguyên nội dung cưỡng chế đối
với QĐ số 273 và QĐ 152.Nội dung vụ việc:


Từ năm 2002, Cơng đồn phường 7 ký HĐ th mặt bằng (kiots) với ơng Lợi (là
bố ơng Sao) gồm các HĐ:
• HĐ 01/2002 giữa Cơng đồn phường với ơng Lợi;
• HĐ 04/2004 giữa Cơng đồn phường với ơng Lợi;
• HĐ 08/2008 giữa Cơng đồn phường với ơng Lợi;
• HĐ 06/2010 giữa cơng đồn phường với với ơng Nguyễn Bá Sao (ơng Sao ký
HĐ từ năm 2010).

-

Các HĐ đều ký thời hạn 1 năm .

-

Ngày 31/12/2012, UBND phường tiến hành thanh lý HĐ và có Biên bản thanh lý
HĐ giữa UBND phường với ơng Sao và các hộ gia đình khác;

-

Ngày 30/8/2017, UBND phường ra thông báo về việc bàn giao mặt bằng sau khi
thanh lý HĐ;

-

Tháng 11/2017, ông Sao gửi đơn đến UBND phường 7 đề nghị xem xét cho ông
được hợp thức hóa đất và hỗ trợ bồi thường TS trên đất ki ốt 707 (ông Sao xác
định là đất của mình nên khơng bàn giao mặt bằng mà muốn hợp thức hóa)  lúc
này ơng Sao coi rằng đất của mình nên khơng xác định thời điểm này là vi phạm;



-

Ngày 12/1/2018, UBND phường 7 có VB 26/UBND trả lời đơn của ơng Sao về
việc từ chối hợp thức hóa đất vì đây là đất của HTX  thời điểm này UBND chưa
xác định là ơng Sao chiếm đất vì liên quan đến xác định quyền sử dụng đất;

-

Ngày 5/10/2018, UBND phương ban hành CV 384/CV-UBND về việc kiến nghị
UBND thành phố hỗ trợ san lấp mặt bằng đối với các hộ gia đình trong đó có ơng
Sao ở ki ốt 707 với diện tích là 43 m2 nhưng đo đạc thực tế là 83,32 m2 (  cho
đến thời điểm này vẫn đang kiến nghị hỗ trợ  chưa xác định là ơng Sao chiếm
đất). Trong q trình sử dụng UBND cho rằng ông Sao đã lấn phần đất cịn lại.
Cơng văn xác định hỗ trợ san lấp cho ông Sao 20.700.000đ.

-

Ngày 19/6/2019, UBND thành phố H có CV3227/TNMT đề nghị chủ tịch UBND
phường xem xét xử lý hành vi lấn chiếm đất nông nghiệp của ông Nguyễn Bá Sao
 thời điểm này chính là thời điểm UBND cho rằng ơng Sao có hành vi chiếm đất.

-

Ngày 26/6/2019, UBND phường lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông
Sao.

-

Ngày 29/8/2019, UBND thành phố H ban hành QĐ 273/KPHQ-UB về áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra (trên cơ sở BB ngày

26/6), buộc trả lại kiot cho nhà nước, vì hết thời hiệu VPHC nên không ra QĐ xử
phạt.

-

Ngày 9/1/2020, UBND thành phố H ban hành QĐ152/ CCXP-UB cưỡng chế thi
hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

-

Ngày 11/2/2020, ông Sao gửi đơn khiếu nại QĐ273 đến CT UBND thành phố H.

-

Ngày 29/4/2020, CT UBND thành phố H đã ban hành QĐ2004 giải quyết khiếu
nại lần đầu đối với Ông Sao với nội dung bác đơn khiếu nại của ông Sao.

-

Ngày 2/7/2020, ông Sao khởi kiện QĐ 273/2019/QĐ-CTUBND ngày 29/8/2019
về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả; Quyết định 152/2020/QĐ-CT UBND
ngày 9/1/2020 cưỡng chế thi hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả; Quyết định 2004/QĐ-CT UBND ngày 29/4/2020 về giải quyết khiếu nại của
ông Sao đối với QĐ 273/2019/QĐ-CT UBND;

-

Ngày 29/10/2020, ơng Sao có đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện yêu cầu TA buộc
UBND công nhận quyền sử dụng đất cho ông Sao.



-

Ngày 07/7/2020, Tịa án nhân dân tỉnh H ra thơng báo số 69/2020/TLST-HC thụ lý
vụ án hành chính.

-

Ngày 10/8/2020, TAND tỉnh H ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời buộc Chủ tịch UBND TP. H tạm đình chỉ việc thi hành quyết định số
152/QĐ-CCXP ngày 09/01/2020 về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả đối với ơng Sao.

-

Ngày 18/11/2020, Tịa án nhân dân tỉnh H ra quyết định số 92/2020/QĐXXST-HC
đưa vụ án ra xét xử.

-

Ngày 05/3/2021, Tòa án nhân dân Tỉnh H đưa ra bản án số 08/2021/HC-ST về
việc giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Sao. Hủy các Quyết định số 273/QĐ-KPHQ,
Quyết định số 152/QĐ-KPHQ; Quyết định số 2004/QĐ-CCXP.

II.

VBPL CẦN ÁP DỤNG
1. Luật Đất Đai 2003 (thời điểm ký hợp đồng);
2. Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (thời điểm chiếm đất);

3. Nghị định 102/2014 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai;
4. Nghị định 166/2013 cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính;
5. Luật Khiếu nại năm 2011.

III. ĐÁNH GIÁ VỤ ÁN
1. Về tố tụng
-

Thụ lý vụ án: đối tượng khởi kiện phù hợp Điều 30 Luật TTHC, ông Sao là người
có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng trực tiếp nên có quyền khởi kiện; ơng có đủ năng
lực hành vi tố tụng hành chính theo Điều 54, theo khoản 1 Điều 123 do đó Tịa án
thụ lý đúng, thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

-

Giai đoạn chuẩn bị xét xử: Chưa có Biên bản đối thoại (tuy nhiên có thể xem là do
hồ sơ), về Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: tạm đình chỉ thi hành
QĐ 273 và QĐ 152 là đúng pháp luật (xem *).
Như vậy chứng cứ, đối thoại và QĐ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhìn
chung là đang hợp pháp.


-

Về thủ tục bắt đầu phiên tịa, vì khơng có biên bản phiên tòa trong hồ sơ vụ án,
nên tạm hiểu là khơng có ngừng, hỗn phiên tịa.

-

Như vậy, nhìn chung về mặt tố tụng trong hồ sơ này không có gì vi phạm nghiêm

trọng về tố tụng.

2. Về nội dung
Tịa sơ thẩm đã chấp nhận u cầu của ơng Sao trừ yêu cầu buộc công nhận quyền
sử dụng đất. Tòa sơ thẩm cho rằng QĐ 273 là biện pháp xử lý quan hệ dân sự mà không
nêu được căn cứ pháp lý. Bên cạnh đó, Tịa cũng cho rằng QĐ 152, QĐ 2004 là bất hợp
pháp nhưng vẫn không khơng có căn cứ pháp lý.
Như vậy, theo tinh thần Luật TTHC, về mặt nội dung của hồ sơ này thì với cả 03
đối tượng khởi kiện và yêu cầu khởi kiện đều khơng được Tịa án đưa ra với căn cứ pháp
lý. Điều này thể hiện Tịa án khơng đánh giá về căn cứ pháp lý để ban hành các QĐ này,
TA cũng không đánh giá về thẩm quyền ra QĐ, không đánh giá về nội dung của QĐ này,
đặc biệt cũng không đánh giá về thủ tục của các QĐ này.
Đối với yêu cầu khởi kiện, TA không đưa ra được căn cứ pháp lý vì sao chấp nhận
u cầu khởi kiện, vì sao khơng chấp nhận u cầu khởi kiện. Như vậy, toàn bộ nội dung
của vụ án đang có dấu hiệu khơng được đánh giá trên cơ sở quy định của pháp luật mà
đánh giá bằng ý chí chủ quan. Việc nhận diện quan hệ thuê đất giữa cơng đồn phường
với ơng Sao là quan hệ dân sự cũng khơng có căn cứ pháp lý, nhận diện 273 là xử lý hành
chính với một quan hệ dân sự cũng khơng có căn cứ pháp lý, nhận định QĐ 152, QĐ
2004 là bất hợp pháp cũng không có căn cứ pháp lý. Tóm lại là về nội dung Tịa án đang
khơng có căn cứ pháp lý để xác định đối tượng khởi kiện là bất hợp pháp.
3. Về sự kiện khách quan của vụ án hành chính này
Các sự kiện khách quan được nêu ra trong hồ sơ vụ án bao gồm:
1. HĐ thuê đất giữa CĐ phường 7 với ơng Lợi và ơng Sao: và tồn bộ sự kiện về
nguồn gốc đất, vấn đề về mua bán đất, thuê đất, tiền sử dụng đất.
2. Thanh lý HĐ th đất giữa cơng đồn phường với ơng Sao và các hộ gia đình
khác: theo BB thanh lý, vấn đề bồi thường khi thanh lý HĐ thuê đất, văn bản
thông báo yêu cầu trả lại mặt bằng và hành vi đề nghị hợp thức hóa diện tích đất
kiot 707.



3. Sự kiện xử lý vi phạm hành chính: Cơng văn của ủy ban yêu cầu xử lý vi phạm
hành chính, có lập Biên bản vi phạm hành chính, có Quyết định áp dụng biện pháp
khắc phục hậu quả số 273; QĐ cưỡng chế thi hành số 152.
4. Giải quyết đề nghị và giải quyết khiếu nại: đơn khiếu nại của ơng Sao đến UBND
và có QĐ 2004 của Chủ tịch UBND giải quyết khiếu nại.
IV.

LUẬN CỨ TRONG BẢN ÁN SƠ THẨM
Tòa án sơ thẩm đã đưa ra các quan điểm sau để đi đến quyết định:
1. Tòa án coi hợp đồng thuê đất và thanh lý đất là hợp đồng dân sự, không đưa căn
cứ pháp lý.
2. Lập luận QĐ 273, QĐ 152 đã xử lý hợp đồng dân sự là trái pháp luật, cũng
không đưa căn cứ pháp lý.
3. Lập luận QĐ giải quyết khiếu nại là trái pháp luật, cũng không đưa căn cứ pháp
lý.
4. Trong bản án sơ thẩm khơng phân tích các luận cứ, chỉ nhận định khơng phân
tích, khơng đưa ra căn cứ pháp lý.

V.

CĂN CỨ KHÁNG CÁO
1. Việc tuyên án trong vụ án này còn thiếu tài liệu, chứng cứ: như là tài liệu, chứng
cứ chứng minh việc ban hành QĐ 273, QĐ 152 – trong hồ sơ vụ án phải có hồ sơ
xử lý vi phạm hành chính, hồ sơ áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, hồ sơ
cưỡng chế. Như vậy, đang thiếu tài liệu, chứng cứ cho các đối tượng khởi kiện.
2. Phần Quyết định của bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án,
cụ thể là tình tiết về thanh lý hợp đồng, tình tiết về xử lý vi phạm hành chính &
tình tiết về ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đã khơng được Tịa án áp
dụng tại phần quyết định của bản án mà hiện tại QĐ của bản án chỉ sử dụng 1 tình
tiết duy nhất là Hợp đồng thuê đất ký kết giữa UBND và ông Sao.

3. Áp dụng sai pháp luật: Coi quan hệ ký hợp đồng giữa cơng đồn phường với
người dân là quan hệ dân sự, trái với quy định tại luật đất đai.
Cụ thể:
Đối với QĐ 273


-

Việc ký hợp đồng thuê đất
Luật Đất Đai năm 2003 quy định:

Tại Điểm đ khoản 2 Điều 6 Luật đất đai 2003: “Quản lý việc giao đất, cho thuê
đất; thu hồi đất; chuyển mục đích sử dụng đất”
Trong Luật đất đai 2003 không sử dụng thuật ngữ thuê mặt bằng đất. Vậy việc cho
th Kiot giữa cơng đồn phường với ông Sao là cho thuê đất, và cho thuê đất chiếu
theo Điểm đ khoản 2 Điều 6 Luật đất đai 2003 là hoạt động quản lý hành chính nhà
nước về đất đai.
Tại Khoản 2 Điều 3 Luật đất đai 2003 quy định cho thuê đất khi có: “Nhu cầu
sử dụng đất” thể hiện trong đơn;
Tại Khoản 1 Điều 35 Luật đất đai 2003 quy định: nhà nước cho thuê đất thu tiền
sử dụng đất hàng năm.
Tại Điểm d khoản 1 Điều 35 Luật đất đai 2003 quy định: Hộ gia đình thuê mặt
bằng để kinh doanh…
Từ các quy định trên cho thấy, hợp đồng th đất giữa Cơng đồn phường & với
Ơng Lợi/ ơng Sao và các hộ gia đình là quan hệ pháp luật hành chính.
Như vậy, việc Tịa án cho rằng quan hệ trên là quan hệ dân sự là trái Điểm đ
khoản 2 Điều 6, Khoản 2 Điều 31, Khoản 1 Điều 35 LĐĐ 2003. Lẽ ra Tòa phải dựa
vào 3 điều khoản này để xác định đây là quan hệ hành chính.
(Phân tích sâu hơn thì có sai về thẩm quyền ký hợp đồng, ký hợp đồng thuê đất
thuộc về thẩm quyền của UBND phường chứ khơng phải cơng đồn, nhưng việc sai

này là sai về hợp đồng, khơng làm mất đi giá trị tính chất cho th này là hành chính
mà khơng phải dân sự).
-

Có việc thanh lý hợp đồng thuê đất năm 2012, sau đó có hàng hoạt các sự kiện
tiếp theo: thơng báo về việc bàn giao mặt bằng, đề nghị hợp thức hóa, CV trả lời từ
chối hợp thức hóa, CV hỗ trợ san lấp mặt bằng…

Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt
trong lĩnh vực đất đai có quy định:


Tại Điểm a khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định: Thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 2 năm đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai;
Tại Điểm b khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012: đối vi phạm
hành chính đang thực hiện thì thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
tính từ khi phát hiện ra vi phạm hành chính.
Ngày 31/12/2012, Cơng đồn thanh lý hợp đồng; ngày 26/6/2019 lập biên bản vi
phạm hành chính.
Thơng thường ngày phát hiện ra vi phạm là ngày lập Biên bản vi phạm hành
chính, thời hiệu xử phạt vẫn cịn, cơ quan có thẩm quyền phải ra Quyết định xử phạt,
nhưng xét thấy để đảm bảo nhẹ nhất cho người vi phạm, UBND đã không ra QĐ xử
phạt mà cho rằng hết thời hiệu xử phạt (tính từ thời điểm thanh lý hợp đồng)
Tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 102/2014/NĐ-CP quy định: Chiếm đất là trường
hợp người được cho thuê đất hết thời hạn trả đất mà không trả lại đất cho nhà nước.
Tại Khoản 2 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định về Biện
pháp khác phục hậu quả và nguyên tắc áp dụng theo đó: “Biện pháp khắc phục hậu
quả được áp dụng độc lập trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 65 của Luật
này”.

Tại Điểm b khoản 5 Điều 10 Nghị định 102/2014/NĐ-CP quy định: Buộc trả lại
đất đã lấn chiếm đối với hành vi được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
Như vậy, QĐ 273 được ban hành đúng pháp luật, tuy nhiên HĐXX sơ thẩm cần có
thêm kiến nghị về việc cần có biên bản được lập với nội dung để xác định thời hiệu
được tính từ ngày nào đến ngày nào, Biên bản này là biên bản xác định hết thời hiệu
xử phạt vi phạm hành chính, làm cơ sở để ban hành QĐ số 273.
-

Thẩm quyền cũng đúng theo quy định tại Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012

-

Thủ tục: Căn cứ ra QĐ cần kiến nghị về việc có thêm Biên bản xác định hết thời
hiệu như đã đề cập ở trên.


Tương tự dựa vào NĐ 166, Luật XLVPHC để lập luận về thẩm quyền, tính
hợp pháp, thủ tục của QĐ 152 và khẳng định QĐ 152 đúng, khi hết thời hạn ông
Sao không trả lại đất cho UBND phường
Dựa vào Luật KN 2011 để lập luận QĐ 2004 đúng thẩm quyền, nội dung bác
đơn khiếu nại đúng luật, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại hợp pháp và
khẳng định QĐ 2004 hợp pháp.
Kết luận lại:
Áp dụng sai pháp luật đất đai, thiếu căn cứ để tuyên về tính hợp pháp của đối
tượng khởi kiện
Kiến nghị thêm việc Cơng đồn phường khơng có thẩm quyền cho th đất mà
người có thẩm quyền là UBND phường. Tuy nhiên việc sai này là sai hợp đồng nhưng
bản chất đất thuộc nhà nước, không trả lại là chiếm đất theo NĐ 152, Luật Đất đai.
4. Xác định việc có vi phạm tố tụng hay không?

(*) Về vấn đề tố tụng như đã phân tích lúc đầu, chỉ cịn vấn đề cần xem xét là việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 10/8/2020 trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm có đúng luật hay không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 73 và khoản 3 Điều 15 Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012:
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định
Khoản 1 Điều 73 LXLVPHC: …“ Trường hợp cá nhân, tổ chức khiếu nại khởi
kiện quyết định xử phạt thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt trừ trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 15 Luật này…”
Khoản 3 Điều 15 LXLVPHC: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại khởi kiện nếu
xét thấy việc thi hành quyết định xử phạt bị khiếu nại, khởi kiện sẽ gây hậu quả khó
khắc phục thì người giải quyết khiếu nại, khởi kiện ra quyết định tạm đình chỉ thi hành
quyết định đó”
Từ 2 quy định trên cho thấy có thể áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời.
 Kết luận việc áp dụng BPKCTT trong hồ sơ này là đúng, không có vi phạm
nghiêm trọng tố tụng  khơng dùng căn cứ vi phạm tố tụng để kháng cáo


VI. BẢN LUẬN CỨ
Kính thưa Hội đồng xét xử;
Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát;
Vị Luật sư đồng nghiệp;
Và tất cả q vị có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay.
Tơi là Luật sư …….., thuộc Văn phịng luật sư ……, Đồn luật sư ………..
Tham gia phiên tịa phúc thẩm này với vai trò là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho Chủ tịch UBND TP H là người bị kiện, đồng thời là người kháng cáo trong vụ án
hành chính này.
Thưa Q Tịa, sau đây tơi xin phép được trình bày các u cầu kháng cáo của thân
chủ tơi cũng như các luận cứ bảo vệ như sau:
I. Về lý do và căn cứ kháng cáo

Tại Bản án số 08/2021/HC-ST ngày 05/03/2021 của TAND tỉnh H nhận định cho
rằng, hành vi vi phạm của ông Nguyễn Bá Sao được UBND thành phố H lập biên bản vi
phạm hành chính và ra Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 273/QĐKPHQ ngày 29/8/2019 là hành vi vi phạm trong quan hệ dân sự nhưng UBND TP H đã
dùng các quy phạm pháp luật hành chính để giải quyết là khơng đúng quy định pháp luật,
và theo đó làm cơ sở để Tòa án nhân dân Tỉnh H tuyên hủy các Quyết định số 152/QĐCCXP và Quyết định 2004/QĐ-UBND. Lập luận trên của TAND tỉnh H là không phù
hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
Căn cứ quy định tại Điều 204 Luật TTHC 2015, thân chủ tôi kháng cáo một phần
nội dung bản án, cụ thể là nội dung Tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ơng Nguyễn
Bá Sao:
- Hủy Quyết định hành chính số 273/QĐ-KPHQ ngày 29/8/2019 của Chủ tịch
UBND TP. H về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả;
- Hủy Quyết định số 152/QĐ-CCXP ngày 09/1/2020 của Chủ tịch UBND TP. H về
việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả và
- Hủy Quyết định 2004/QĐ-UBND ngày 24/9/2020 của Chủ tịch UBND TP H về
việc giải quyết khiếu nại.
Tôi cho rằng, Bản án sơ thẩm đã không đi thẳng vào việc giải quyết các nội dung
của vụ án một cách đầy đủ, từ đó xâm phạm quyền lợi hợp pháp của thân chủ tôi.


Tại phiên tịa phúc thẩm ngày hơm nay, tơi kính đề nghị HĐXX làm sáng tỏ những
nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nguồn gốc đất tại kios số 707 đường Phương Đình, phường 7, TP. H
(thửa đất số 8, tờ bản đồ số 16 với diện tích 83,32 m2) là đất do Nhà nước quản lý, cụ thể
là do UBND phường 7, TP. H quản lý và sử dụng.
Tại sổ mục kê được lập và duyệt năm 1994 thì thửa đất số 8, tờ bản đồ số 16 do
HTX mua bán phường Thống Nhất đăng ký sử dụng của Nhà nước. Khoảng năm 1986,
khi tách phường thì giao cho UBND phường 7 quản lý và sử dụng. Năm 1991, HTX giải
thể và hóa giá, thì đất này được giao về UBND phường 7, TP. H quản lý và sử dụng là
đúng quy định pháp luật.
Theo điểm a khoản 2 Điều 48 Luật hợp tác xã 2012 “Tài sản không chia của hợp

tác xã, liên hiệp hợp tác xã bao gồm: a) Quyền sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho
thuê đất;”, và điểm a khoản 1 Điều 49 quy định Trình tự xử lý vốn, tài sản của hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã giải thể bao gồm việc Thu hồi các tài sản của hợp tác xã.
Đồng thời khoản 2 Điều 177 Luật đất đai 2013 cũng xác định “Quyền sử dụng đất
của hợp tác xã khi giải thể, phá sản thực hiện theo quy định sau đây: a) Đối với đất được
Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; được Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất, cho thuê đất, do mua tài sản gắn liền với đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất hợp pháp từ người khác mà tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền mua tài sản
gắn liền với đất, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách
nhà nước thì Nhà nước thu hồi đất đó;”,
Cho nên khi HTX Thống Nhất giải thể thì thửa đất số 8, tờ bản đồ số 16 sẽ do Nhà
nước thu hồi, cụ thể ở đây giao lại cho UBND phường 7, TP. H là đúng quy định của
pháp luật.
Thứ hai, ông Lợi (bố ông Sao) và ông Sao ký các hợp đồng thuê đất với Cơng đồn
phường 7, TP. H và đóng tiền thuê đất đều đặn hàng năm từ 1999 – 2016 là chứng cứ
chứng minh cho việc đất ông Sao đang sử dụng là đất thuê của Nhà nước. Hằng năm, ông
Lợi và ông Sao đều nộp tiền thuê đất theo nội dung trong các hợp đồng thuê (bút lục 24,
25, 58, 60) nên ông Sao không thể phủ nhận được việc đất ông đang sử dụng là thuê đất
từ Nhà nước chứ không phải do ông mua bán với bà Thanh như đã trình bày.
Thứ ba, các hợp đồng thuê đất giữa gia đình ơng Sao và UBND phường 7 đã chấm
dứt kể từ ngày 01/01/2013. Cụ thể trong Biên bản thanh lý hợp đồng ngày 31/12/2012 ghi
nhận rằng:
Hợp đồng th mặt bằng giữa cơng đồn cơ sở và ơng Sao thanh lý chấm dứt từ
ngày 01/01/2013, bên thuê có nghĩa giao trả cho UBND phường 7 các mặt bằng đã thuê


để UBND phường quản lý, hợp đồng khơng cịn giá trị đối với hai bên. Biên bản này đã
được lập thành văn bản và có chữ ký của đại diện ủy ban nhân dân phường 7 và các ông
bà thuê mặt bằng, trong đó có cả ơng Sao. – BL 38. Biên bản thanh lý này cũng phù hợp
với quy định tại Điều 121 Bộ luật dân sự 2005.

Như vậy, thửa đất số 8 vẫn thuộc quyền quản lý của nhà nước, cụ thể từ năm 1991
cho đến nay UBND phường 7 cho ông Nguyễn Bá Sao thuê thông qua các hợp đồng thuê
lại nhà đất số 04/2017 ngày 21/07/2004, Hợp đồng số 01/2002/HĐ, hợp đồng 08/HĐ
ngày 01/7/2008 và hợp đồng 07/HĐ ngày 01/12/2010. Do đó, việc khơng trả lại thửa đất
theo yêu cầu của UBND Phường 7 là hành vi vi phạm hành chính, khơng phải là hành vi
vi phạm trong quan hệ dân sự. Theo đó, việc UBND phường 7 lập biên bản vi phạm hành
chính và ra các quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, Quyết định cưỡng chế
buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng
hành chính.
Do đó căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 28; Khoản 2 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012; Khoản 2, 4 Điều 10 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì việc UBND thành phố H ban hành các Quyết
định số 2004/QĐ-UBND ngày 29/4/2020; Quyết định số 273/QĐ-KPHQ ngày 28/9/2019;
Quyết định số 152/QĐ-CCXP ngày 09/1/2020 là hợp pháp.
Cụ thể Điểm b khoản 2 Điều 28, Khoản 2 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính
2012 quy định: Biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng độc lập trong trường hợp hết
thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
Quyết định ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; biện pháp
khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện.
Ngoài ra căn cứ theo biên bản đối thoại ngày 21/4/2020 ông Nguyễn Bá Sao viện
dẫn Điều 100 và 101 của Luật đất đai 2013 để xác định nhà nước giao đất, cho thuê đất
thì được đăng kí, kê khai cấp quyền sử dụng đất, trong khi đó lại khẳng định là đất mua
của bà Thanh từ năm 1987 là không thống nhất trong việc xác định nguồn gốc và q
trình sử dụng đất.
Việc ơng Sao không tự nguyện giao đất của Nhà nước cho cơ quan có thẩm quyền
quản lý từ năm 2016 đến nay là hành vi vi phạm hành chính (chiếm đất ) được quy định
tại khoản 2 điều 10 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai quy định:
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi lấn, chiếm đất
trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất, đất phi nông nghiệp

không phải là đất ở, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều này.


Khoản 4 điều 10 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai quy định:
4. Hành vi lấn, chiếm đất thuộc hành lang bảo vệ an tồn cơng trình thì hình thức và
mức xử phạt thực hiện theo quy định tại Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực về hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh
vật liệu xây dựng; quản lý cơng trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở;
trong lĩnh vực về giao thông đường bộ và đường sắt; trong lĩnh vực về văn hóa, thể thao,
du lịch và quảng cáo; trong lĩnh vực về khai thác và bảo vệ cơng trình thủy lợi; đê điều;
phòng, chống lụt, bão và trong các lĩnh vực chun ngành khác.
Căn cứ các phân tích trên thì UBND phường 7 thành phố H ra quyết định số
273/QĐ-KPHQ ngày 28/9/2019 là hồn tồn có căn cứ. Việc ơng Nguyễn Văn Sao không
chấp hành quyết định số 273/QĐ-KPHQ nên UBND phường 7 thành phố H tiếp tục ban
hành Quyết định số 152/QĐ-CCXP ngày 09/1/2020 về việc cưỡng chế buộc thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả trả lại đã chiếm đối với ông Nguyễn Bá Sao tại thửa đất số
đường Phương Đình, phường 7, TP H là đúng trình tự thủ tục và quy định của pháp luật.
Cho nên UBND thành phố H bác đơn khiếu nại của ông sao và ban hành Quyết định số
2004/QĐ-UBND ngày 29/4/2020 là hoàn toàn hợp pháp.
Thứ năm, trong nội dụng phần nhận định của Tịa án nhân dân tỉnh H khơng trích
dẫn điều luật nào để phân tích đánh giá, để chứng minh rằng việc UBND thành phố H
ban hành các quyết định Quyết định số 2004/QĐ-UBND ngày 29/4/2020; Quyết định số
273/QĐ-KPHQ ngày 28/9/2019; Quyết định số 152/QĐ-CCXP ngày 09/1/2020 là trái
pháp luật. Đồng thời Tịa án nhân dân tỉnh H cũng khơng đánh giá toàn diện các tài liệu
chứng cứ để chứng minh những quyết định đã nêu là bất hợp pháp. Tòa án nhân dân tỉnh
H chỉ nhận định các quyết định nêu trên là trái pháp luật là khơng có tính thuyết phục.
IV. Đề xuất
Từ những lập luận nêu trên, tơi xin khẳng định các:
- Quyết định hành chính số 273/QĐ-KPHQ ngày 29/8/2019 của Chủ tịch UBND TP.

H về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
- Quyết định số 152/QĐ-CCXP ngày 09/1/2020 của Chủ tịch UBND TP. H về việc
cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả
- Quyết định 2004/QĐ-UBND ngày 24/9/2020 của Chủ tịch UBND TP H về việc
giải quyết khiếu nại
Được ban hành hoàn toàn đúng với quy định pháp luật.
Căn cứ Khoản 2 Điều 241 LTTHC 2015


Điểm b Khoản 2 Điều 28; Khoản 2 Điều 65. Luật xử lý vi phạm hành chính 2012;
Khoản 2, 4 Điều 10 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP Quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Đề nghị HĐXX Phúc thẩm tuyên:
- Sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu;
+ Hủy Quyết định hành chính số 273/QĐ-KPHQ ngày 29/8/2019 của Chủ tịch
UBND TP. H về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
+ Quyết định số 152/QĐ-CCXP ngày 09/1/2020 của Chủ tịch UBND TP. H về việc
cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả
+ và Quyết định 2004/QĐ-UBND ngày 24/9/2020 của Chủ tịch UBND TP H về
việc giải quyết khiếu nại được ban hành hồn tồn đúng với quy định pháp luật của ơng
Sao.
- Giữ nguyên 03 Quyết định hành chính nêu trên.
- Đồng thời căn cứ quy định Điều 74, Điều 230 LTTHC 2015 ra Quyết định hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc Chủ tịch UBND TP H tạm đình chỉ việc thi hành Quyết
định số 152 ngày 09/1/2020 của Chủ tịch UBND TP. H về việc cưỡng chế buộc thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả.




×