Bài thu hoạch diễn án hồ sơ hành chính số 10
I.
Tóm tắt diễn biến vụ án
- Người khởi kiện: Bà Hoàng Thị Ngoan, sinh năm 1959
Nơi cư trú: 89 ấp 1, thị trấn Phú Lâm, huyện BT
Đại diện theo ủy quyền: bà Hoàng Thị Thanh, sinh năm 1956
Nơi cư trú: 5B/33, ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, tp H
- Người bị kiện: UBND huyện Bình Đà
Người được ủy quyền: Ông Vương Văn Vệ - Cán bộ thanh tra huyện
Bình Đà thành phố H
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Hoàng Văn Tuấn,
sinh năm 1975
Địa chỉ: 5B/31, ấp 9, Thanh Tảo, Bình Đà, tp H
Năm 1985, ông Hoàng Văn Bảy và bà Lê Thị Khuyên đi kinh tế mới làm
việc tại nông trường quốc doanh Thanh Khê thuộc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thành phố H. Năm 1985, Nông trường Thanh Khê có cấp cho
Ông Bảy và bà Khuyên một lô đất thổ cư với diện tích 600m 2 nằm trên tỉnh
lộ. Diện tích đất hiện nay là 239m2, diện tích xấy dựng là 67,6m2, thuộc một
phần thửa số 136 tờ bản đồ số 5, số 5B31, ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện Bình
Đà.
Ông Bảy và bà Khuyên đã xây nhà và đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa
chỉ trên. Hộ khẩu thường trú gồm hai ông bà và con là Hoàng Thị Ngoan.
Năm 1991, trên đường về quê ông Bảy và bà Khuyên bị tai nạn giao
thông, ông Bảy mất, còn bà Khuyên bị thương nặng. Vì hoàn cảnh khó khăn,
bà Ngoan phải xin chuyển công tác (lúc đó bà Ngoan là giáo viên trường phổ
thông cơ sở Thanh Khê) về quê cùng các anh chị em lo chăm sóc bà Khuyên.
Bà Khuyên đã giao căn nhà 5B31, Ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà cho
người con cả là Hoàng Văn Ngọc trông coi quản lý và xin tạm vắng cho bà
Khuyên và bà Ngoan.
Năm 1992, ông Ngọc về quê thông báo về việc Nhà nước có yêu cầu kê
khai nhà đất. bà Khuyên đã yêu cầu ông Ngọc làm lại hộ khẩu, nhà đất
chuyển sang cho bà Khuyên đứng tên kèm theo giấy chứng tử của ông Bảy vì
lúc trước, ông Bảy – chồng bà Khuyên đứng tên chủ hộ.
Ngày 01/7/1992, nông trường quốc doanh Thanh Khê đã cấp Giấy chứng
nhận số 94/CN cho Ông Ngọc chứng nhận ông Hoàng Văn Ngọc là chủ hộ
căn nhà số 8 dãy T40 lô 7 (nay là nhà số 5B31, ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện
Bình Đà, thành phố H).
Ngày 01/08/2001, Ông Hoàng Văn Ngọc đã tiến hành kê khai đăng ký
nhà và đất nêu trên.
Đến năm 2008, bà Khuyên phát hiện ông Ngọc đã gạt bỏ tên bà và bà
Ngoan ra khỏi hộ khẩu và thay vào đó các thành viên trong gia đình ông Ngọc
và do ông Ngọc đứng tên. Bà Khuyên không đồng ý, vì thế xảy ra tranh chấp
và có nhờ chính quyền địa phương can thiệp nhưng chưa được giải quyết.
Ngày 17/03/2010 các con của ông Ngọc là Hoàng Văn Tăng, Hoàng Thị
Vân, Hoàng Thị Lệ đã làm giấy uỷ quyền cho ông Hoàng Văn Tuấn (anh em
ruột) được đứng tên chủ sở hữu nhà đất nói trên.
Ngày 26/05/2010, Ông Hoàng Văn Ngọc chết.
Trong tháng 5/2010, bà Hoàng Thị Ngoan có Đơn yêu cầu xin xác nhận
chủ quyền nhà đất gửi “Chính quyền ấp 9 xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, TP.
H”.
Ngày 02/08/2010, Bà Lê Thi Khuyên đã làm tờ di chúc uỷ quyền cho Bà
Hoàng Thị Ngoan được toàn quyền sử dụng nhà và đất nói trên.
Ngày 06/2/2010, Bà Lê Thị Khuyên có Đơn yêu cầy gửi UBND xã
Thanh Tảo huyện Bình Đà và Chính quyền cơ sở ấp 9, xã Thanh Tảo; yêu cầu
xem xét cấp giấy chủ quyền nhà, đất cho bà Hoàng Thị Ngoan.
Ngày 22/02/2013, Ông Hoàng Văn Tuấn đã làm đơn đề nghị cấp GCN
quyền sử dụng nhà và quyền sử dụng đất gửi UBND huyện Bình Đà.
Ngày 17/6/2013, bà Khuyên mất.
Ngày 30/4/2013, Bà Hoàng Thị Ngoan tiếp tục có Đơn yêu cầu gửi
UBND xã Thanh Tảo và Chính quyền cơ sở ấp 9, xã Thanh Tảo yêu cầu cấp
Giấy chủ quyền nhà, đất.
Ngày 19/5/2013, UBND huyện Bình Đà đã cấp giấy chứng nhận QSH
nhà và QSD đất ở cho ông Hoàng Văn Tuấn đối với căn nhà và đất trên.
Ngày 28/7/2013, Bà Hoàng Thị Ngoan đã làm đơn khiếu nại việc cho
phép xây dựng nhà ở của UBND Huyện Bình Đà, Thành phố H đối với ông
Hoàng Văn Tuấn trên đất đang tranh chấp
Ngày 05/3/2014, Bà Hoàng Thị Ngoan đã làm Đơn khởi kiện yêu cầu
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 643 năm 2013 UBND huyện Bình
Đà cấp cho ông Hoàng Văn Tuấn ngày 19/5/2013.
Ngày 06/6/2014, Toà án nhân dân Huyện Bình Đà, Thành phố H đã ban
hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/QĐXX. Ngày hôm nay, vụ án
được đưa ra xét xử sơ thẩm.
Căn cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 643 năm 2013 UBND
huyện Bình Đà cấp cho ông Hoàng Văn Tuấn ngày 19/5/2013.
- Đơn yêu cầu xin xác nhận chủ quyền nhà đất gửi “Chính quyền
ấp 9 xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, TP. H” của bà Ngoan tháng 5/2010
và tháng 4/2013
- Đơn khiếu nại việc cho phép xây dựng nhà ở của UBND Huyện
Bình Đà, Thành phố H đối với ông Hoàng Văn Tuấn trên đất đang tranh
chấp
- Tờ di chúc uỷ quyền cho Bà Hoàng Thị Ngoan được toàn quyền
sử dụng nhà và đất năm 2013 của bà Lê Thị Khuyên
- Biên bản lấy lời khai của tòa án.
II.
Kế hoạch hỏi
1. Hỏi người bị khởi kiện
- Căn cứ nào để cấp giấy CNQSH nhà và QSD đất cho ông Tuấn?
- Tại sao trong giấy chứng nhận trên phần mục III có ghi nội dung đăng
ký di sản thừa kế?
- Khi cấp giấy chứng nhận trên UBND có kiểm tra tranh chấp không?
- Tại sao không cung cấp giấy ủy quyền việc phó chủ tịch UBND huyện
Bình Đà ký thay vào GCNQSĐ?
2. Hỏi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
- Ông cho biết gia đình ông ở trên mảnh đất đang tranh chấp vào năm
nào?
- Khi cha ôngvà gia đình đến sống căn nhà này có rồi đúng không?
- Khi cha ông mất bà nội vẫn sống đúng không?
3. Hỏi người khởi kiện
- Nguồn gốc đất đang tranh chấp bà có biết không?
- Tại sao ông Ngọc lại ở trên mảnh đất đang tranh chấp?
- Bà làm đơn xác minh chủ quyền nhà đất và gửi tới đâu?
III. Bản
luận cứ
- Kính thưa HĐXX, thưa đại diện viện kiểm sát
Tôi tên Nguyễn Thị Thúy Hoa, thuộc Văn phòng luật sư A, Đoàn luật sư
thành phố Hà Nội. Hôm nay, tôi tham gia piên tòa với tư cách người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện là bà Hoàng Thị Ngoan trong
vụ kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất số 643 ngày 19/5/2013 cấp cho ông Hoàng Văn Tuấn. Việc yêu cầu của
thân chủ tôi hoàn toàn có cơ sở bởi vì:
Thứ nhất, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất ở cho ông Hoàng Văn Tuấn tại ấp 9 xã Thanh Tảo được ban hành
không đúng thẩm quyền.
Theo khoản 2 Điều 52 Luật Đất đai, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ở và nhà ở cho hộ gia đình, cá nhân là UBND
cấp huyện[3]. Như vậy, nếu như hộ gia đình ôg Hoàng Văn Tuấn đủ điều kiện
để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở thì Cơ quan có
thẩm quyền cấp phải là UBND huyện Bình Đà. Nhưng Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất số 643 ngày 19/5/2013 cấp cho ông
Hoàng Văn Tuấn lại do Phó Chủ tịch ký thay UBND huyện Bình Đà mà
không đưa ra văn bản ủy quyền trong quá trình diễn ra phiên tòa. Việc ký và
ban hành văn bản như vậy là không phù hợp với quy định của Luật Tổ chức
HĐND và UBND 2003; trái với quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày
văn bản theo quy định tại Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT.
Thứ hai việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất số 643 ngày 19/5/2013 cấp cho ông Hoàng Văn Tuấn của UBND
huyện Bình Đà vi phạm điều kiện về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, Điều 48 Nghị định
181/2004/NĐ-CP thì một trong những điều kiện để được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân là “đất không có tranh chấp”
và “được UBND xã phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp”. Theo
quy định tại khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai, “tranh chấp đất đai là tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong
quan hệ đất đai”.
Căn cứ vào hồ sơ và diễn biến vụ án, từ tháng 05/2010 – 02/2013, bà
Ngoan, bà Khuyên đã liên tục có Đơn gửi đến UBND xã Thanh Tảo và Chính
quyền cơ sở ấp 9 xã Thanh Tảo yêu cầu xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà đất cho bà Hoàng Thị Ngoan (Trong tháng 5/2010, bà Hoàng Thị
Ngoan có Đơn yêu cầu xin xác nhận chủ quyền nhà đất gửi “Chính quyền ấp
9 xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, TP. H”. Ngày 06/2/2013, Bà Lê Thị Khuyên
có Đơn yêu cầy gửi UBND xã Thanh Tảo huyện Bình Đà và Chính quyền cơ
sở ấp 9, xã Thanh Tảo; yêu cầu xem xét cấp giấy chủ quyền nhà, đất cho bà
Hoàng Thị Ngoan).
Thời điểm ông Hoàng Văn Tuấn làm Đơn xin cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng nhà và quyền sử dụng đất là ngày 22/02/2013, sau thời điểm
bà Ngoan, bà Khuyên có yâu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở
và đất ở cho bà Ngoan, Như vậy, tại thời điểm này nhà đất tại số 5B31, ấp 9,
xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà là nhà, đất đang có tranh chấp theo khoản 26
Điều 4 Luật Đất đai. Do đó, ngày 23/3/2013, việc UBND xã Thanh Tảo có
xác nhận vào Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và quyền sử
dụng đất của ông Hoàng Văn Tuấn với nội dung “Tranh chấp trong quá trình
sử dụng nhà, đất: không có” và ngày 25/3/2013 UBND xã Thanh Tảo xác
nhận “nhà, đất không bị tranh chấp” trong Đơn xin xác nhận tình trạng nhà ở,
đất ở của ông Hoàng Văn Tuấn là hoàn toàn không đúng với thực tế, không
đúng với quy định của pháp luật. Như vậy, việc cấp Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở và đất ở cho nhà, đất đang có tranh chấp là không đúng với quy
định tại Điều 50 Luật Đất đai, Điều 48 Nghị định 181, khoản 2 Điều 6 Quyết
định 04/2003 của UBND TP. H[4].
Thứ tư, Quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19-05-2006 của UBND huyện
Bình Đà về việc cấp giấy chứng nhận QSH nhà ở và QSD đất ở cho ông
Hoàng Văn Tuấn dựa trên căn cứ không chính xác.
Theo nội dung tờ trình số 60/TT-QLĐT ngày 01/05/2013 của Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện trình và đề xuất UBND huyện Bình Đà cấp
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông Tuấn là
dựa trên căn cứ: “Gia đình Hoàng Văn Ngọc được cấp nhà đất năm 1992
(Giấy chứng nhận số 94/CN ngày 01-07-1992 do nông trường Thanh Khê cấp
thông qua UBND xã Thanh Tảo xác nhận)” . Tuy nhiên, khi xem xét lại Giấy
chứng nhận số 94/CN ngày 01/7/1992 thì nội dung của giấy chứng nhận này
chỉ là chứng nhận ông Hoàng Văn Ngọc là chủ hộ căn nhà số 8 dãy T40 lô 7
chứ không phải là văn bản chứng minh ông Hoàng Văn Ngọc là chủ sở hữu
nhà và chủ sử dụng đất. Theo tờ tường trình quan hệ nhân thân mà ông Tuấn
tự khai thì gia đình của ông Tuấn chỉ đến nông trường Thanh Khê từ năm
1989, trong khi theo xác nhận của một số người làm chứng như: Ông Trần
Văn Mạnh (Nguyên Phó Giám đốc nông trường Thanh Khê), ông Đỗ Thiện
Quyền (nguyên Phó Chủ tịch xã Thanh Tảo từ năm 1981 đến năm 1989); Ông
Ngô Văn Tri (cảnh sát khu vực công nghiệp thuộc nông trường Thanh Khê)
và một số người hàng xóm láng giềng cùng làm việc tại nông trường Thanh
Khê tại thời điểm đó là: ông Lê Sinh, ông Đỗ Thiện Trung, ông Lê Văn Vước
và bà Nguyễn Thanh Hương, thì Ông Hoàng Văn Bảy và vợ là bà Lê Thị
Khuyên được nông trường Thanh Khê cấp nhà và đất thổ cư từ năm 1985.
Như vậy, căn nhà và đất này đã được hình thành từ năm 1985. Trong khi
gia đình ông Tuấn lại đến nông trường Thanh Khê sinh sống từ năm 1989, mà
không đưa ra được bất kỳ một giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp của
việc sử dụng nhà đất của mình.
Qua các chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ kiện và qua quá trình hỏi tại
phiên toà hôm nay, chúng ta có thể khẳng định rằng hiện trạng và kết cấu của
căn nhà số 5B31, ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà chính là tài sản trên đất
do ông Bảy và bà Khuyên tạo lập hợp pháp từ năm 1985. Nay bằng Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất số 643 ngày 19/5/2013
cấp cho ông Hoàng Văn Tuấn, UBND huyện Bình Đà đã đương nhiên công
nhận tài sản trên đất thuộc quyền sở hữu của ông Ngọc (và được thừa kế lại
cho ông Tuấn), mặc dù nguồn gốc không phải do ông Ngọc tạo lập, mà do
ông Bảy và bà Khuyên tạo lập. Hơn nữa, nếu Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất số 643 ngày 19/5/2013 cấp cho ông Hoàng Văn
Tuấn công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho ông Ngọc là
đúng thì việc ông Hoàng Văn Tuấn được hưởng thừa kế toàn bộ phần diện
tích nhà đất này cũng không đúng quy định pháp luật về thừa kế. Bởi vì căn
cứ Giấy chứng từ của ông Ngọc thì ông Ngọc chết vào ngày 16/05/2010,
Căn cứ Giấy chứng tử của Mẹ ông Ngọc là bà Khuyên thì bà Khuyên
chết ngày 02/04/2013. Như vậy khi ông Ngọc chết, mẹ ông Ngọc là bà
Khuyên vẫn còn sống, nên theo quy định tại điều 676 Bộ luật dân sự 2005
“Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Cha, mẹ, vợ, chồng, con ruột… của người chết.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”, thì bà
Khuyên thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Ngọc, và theo quy định của
pháp luật, bà Khuyên được hưởng phần di sản của ông Ngọc để lại ngang
bằng với vợ và con của ông Ngọc. Trong khi tại Tờ tường trình quan hệ nhân
thân do ông Hoàng Văn Tuấn kê khai ngày 18/03/2013 và trên tờ khai lệ phí
trước bạ ngày 25/05/2013 ở mục những người thừa kế di sản của ông Ngọc
chỉ ghi nhận có tên vợ và con ông Ngọc, không hề có tên mẹ của ông Ngọc là
bà Lê Thị Khuyên. Đó là vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về
quyền thừa kế di sản.
Từ những phân tích nêu trên, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp thuận yêu cầu của bà Hoàng Thị Ngoan, tuyên huỷ Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất số 643 ngày 19/5/2013 cấp
cho ông Hoàng Văn Tuấn tại ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, Tp. H.
Trên đây là quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi
kiện Hoàng Thị Ngoan. Kính mong Hội đồng xét xử quan tâm xem xét để có
phán quyết công minh.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Trân trọng,
___________________________
[1] Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất
đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng,
tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời
hạn sử dụng đất
[2] Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ
án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh này
trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai
do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải
quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định
giải quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương;
[3] Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở
[4] Điều 6. Không cấp giấy chứng nhận đối với các trường hợp sau.
1/ Nhà, đất thuộc diện Nhà nước quản lý theo các chính sách về nhà, đất.
2/ Nhà, đất có tranh chấp về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và
chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu Tuấn pháp luật
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
[5] Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào
đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất
đai đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh
chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được
xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không
đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Ủy ban nhân
dân xã, thị trấn trong thời gian mười lăm (15) ngày; xem xét các ý kiến đóng
góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gửi
hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và
Môi trường.