Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.65 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
ĐỀ TÀI:
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM THEO QUAN
ĐIỂM ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Mã số sinh viên
Chuyên ngành
Thời gian thực tập

:
:
:
:
:
:

ThS NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG
HOÀNG THỊ HỒNG DIỆP
KINH TẾ QUỐC TẾ C
CQ 500350
KINH TẾ QUỐC TẾ
06/02 - 21/05

Hà Nội - 2012



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba, giới chuyên gia tên tuổi của
FAO vẫn trăn trở hai điều tiên liệu: nạn đói quy mơ quốc tế sẽ diễn ra, hay sẽ
xuất hiện một cuộc “cách mạng xanh mới” bảo đảm no đủ cho cả loài người.
Trong quá khứ từng có những dự đốn bi quan về cuộc “đại khủng hoảng lương
thực” trên hành tinh, nhưng thật may là điều đó chưa xảy ra. Những khu vực
“thiếu ăn cố hữu” như Somalia, Ethiopia... thường phát sinh từ những nguyên
nhân chủ quan như chiến tranh, hệ thống nông nghiệp yếu kém... vẫn tồn tại
song song cả những chẩn đoán bi quan lẫn các dự báo lạc quan về sự no đủ cho
người dân. Trước tình hình đó an ninh lương thực được coi là một vấn đề nóng
mà tồn nhân loại quan tâm.
Việt Nam là một đất nước có truyền thống xuất khẩu gạo với những
chủng loại sản phẩm gạo khác nhau và chất lượng gạo ổn định. Từ một nước
thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước có lượng gạo xuất khẩu đứng thứ
hai thế giới. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã cung cấp cho thị trường
thế giới hàng triệu tấn gạo xuất khẩu, góp phần khơng nhỏ trong tỷ trọng tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu gạo luôn là biện pháp được
Nhà nước ta quan tâm và coi trọng. Đặt trong tình hình thế giới như trên thì việc
xuất khẩu gạo gắn với đảm bảo an ninh lương thực được coi là một mục tiêu
chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, giá lương thực thế giới đang tăng mạnh trong
thời gian gần đây. Bối cảnh đó càng đặt Việt Nam vào bài toán làm thế nào để
vừa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, vừa tận dụng thời cơ để
xuất khẩu lương thực đạt hiệu quả cao nhất.
Sau khi thực tập ở Viện Kinh tế và Chính trị thế giới thuộc Viện Khoa học
xã hội Việt Nam cùng sự hướng dẫn tận tình của giáo viên Nguyễn Thị Thúy
Hồng, chuyên đề của em xin được nghiên cứu về đề tài: “Hoạt động xuất khẩu
gạo của Việt Nam theo quan điểm đảm bảo an ninh lương thực từ năm 2007
đến nay”


1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Bài viết giúp người đọc hiểu hơn về tình hình xuất khẩu gạo của Việt
Nam trong thời gian gần đây. Từ đó đề xuất ra những phương hướng và giải
pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của nước ta theo quan điểm đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về xuất khẩu và an ninh lương thực.
- Phân tích, đánh giá tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2007
đến nay, từ đó rút ra những thành tựu, những mặt hạn chế cũng như những
nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Chỉ ra được những thách thức cho xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay.
Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo
quan điểm đảm bảo an ninh lương thực.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Bài viết nghiên cứu tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia từ năm 2007 đến nay.
3.2.Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Về nội dung: Chỉ nghiên cứu mặt hàng gạo xuất khẩu.
- Về thời gian: Từ năm 2007 đến nay.
4.Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kiến thức tích lũy trong suốt q trình học tập với những quan sát,
thu thập trong thực tế, kết hợp giữa việc tổng hợp sách báo, tài liệu với việc đi sâu
vào phân tích thực tiễn tham khảo ý kiến nhằm tìm ra hướng đi hợp lí nhất


2


5.Kết cấu chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu gạo và quan điểm về an ninh lương thực
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu
gạo của Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo an ninh lương thực quốc gia

3


CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GẠO VÀ
QUAN ĐIỂM VỀ AN NINH LƯƠNG THỰC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GẠO

1.1.1. Khái niệm xuất khẩu gạo
Hoạt động xuất khẩu gạo là việc bán gạo cho một quốc gia khác trên cơ
sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán, với mục tiêu là lợi nhuận. Tiền tệ ở
đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích
của hoạt động xuất khẩu là thu một khoản ngoại tệ dựa trên cơ sở khai thác lợi
thế so sánh của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở
rộng hoạt động này.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu gạo
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương
và là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trị đặc biệt
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên

toàn thế giới.
Xuất khẩu hàng hố nằm trong lĩnh vực lưu thơng hàng hố là một trong
bốn khâu của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và tiêu
dùng của nước này với nước khác. Có thể nói sự phát triển của xuất khẩu sẽ là
một trong những động lực chính để thúc đẩy sản xuất.
 Vai trị của xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
-

Xuất khẩu là một trong những nhân tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia

-

Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước. Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản
xuất phát triển

4


-

Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát
triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.



Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp


- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra
- Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng
cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu… phục vụ cho quá trình phát triển.
- Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ XNK cũng
như các đơn vị tham gia như: tích cực tìm tịi và phát triển các mặt trong khả
năng xuất khẩu các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập.
- Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải ln ln đổi mới và hồn thiện công
tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ
của chu kỳ sống của một sản phẩm.
Cũng như các ngành xuất khẩu khác, ngành xuất khẩu gạo có vai trị quan
trọng đối với nền kinh tế quốc dân:
1.1.2.1. Xuất khẩu gạo tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cơng
nghiệp hố đất nước
Q trình cơng nghiệp hố cần một lượng vốn rất lớn để nhập khẩu các
máy móc, trang thiết bị kĩ thuật cơng nghệ cao để có thể theo kịp nền công
nghiệp hiện đại của các nước đã phát triển. Nguồn vốn dùng cho nhập khẩu
được hình thành từ rất nhiều nguồn vốn khác nhau:
- Đầu tư từ nước ngoài
- Nguồn vay nợ, nguồn viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch
- Xuất khẩu…
Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này
hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu, trong
5


đó có xuất khẩu gạo, xuất khẩu gạo cũng góp phần quyết định quy mô và tốc độ
tăng của nhập khẩu.

Hiện nay các nước xuất khẩu gạo khối lượng lớn chủ yếu là các nước
đang phát triển như: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan… Chính vì thế
nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là nguồn vốn rất quan
trọng để nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa ở
những đất nước này.
1.1.2.2. Xuất khẩu gạo cũng đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển
Ngày nay với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội và thách thức rất
nhiều, các nước đều phải tập trung phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu
những sản phẩm mà nước mình có lợi thế và nhập khẩu những sản phẩm khơng
có lợi thế hoặc lợi thế so với các sản phẩm khác nhỏ hơn. Khi gạo trở thành một
lợi thế trong xuất khẩu của một nước thì các nước đó sẽ tập trung vào sản xuất
lúa gạo với quy mơ lớn, trình độ thâm canh cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm
tăng năng suất, sản lượng và chất lượng gạo. Từ sự tập trung sản xuất đó sẽ kéo
theo sự phát triển của các ngành có liên quan và dẫn tới sự phát triển của tồn bộ
nền kinh tế.
1.1.2.3. Xuất khẩu gạo có tác động tích cực tới giải quyết cơng ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân
Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt ở
các vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc chủ yếu vào cây
lúa. Sau nữa, xuất khẩu gạo giúp giải quyết một lượng lớn lao động dư thừa
trong nước. Khi thực hiện tăng cường việc xuất khẩu gạo thì kéo theo nó là vấn
đề xay xát, chế biến phát triển, vấn đề vận chuyển hàng hoá… Những công tác
trên thu hút khá nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến có
trình độ cao. Việc tạo việc làm ổn định cho người dân cũng chính là một biện
pháp hữu hiệu để tăng thu nhập và ổn định xã hội.

6



Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu gạo
là một lợi thế lớn. Bởi sản xuất và xuất khẩu gạo có những lợi thế căn bản như:
đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn lao động… Và đặc biệt yêu cầu về vốn kỹ
thuật ở mức trung bình. Với các lợi thế như vậy việc tăng cường xuất khẩu gạo
của Việt Nam là hướng đi đúng đắn nhất.
Xuất khẩu gạo có tác động to lớn đến nền kinh tế nước ta, giúp khai thác
được tất cả các lợi thế tương đối cũng như tuyệt đối của Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình sản xuất lúa gạo, Việt Nam đã
thu được những kết quả to lớn. Từ một nước nhập khẩu Việt Nam trở thành một
nước xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Tuy nhiên hiện nay xuất khẩu gạo Việt
Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Nhà nước cần có giải pháp cụ
thể cho vấn đề này.
1.1.3. Đặc điểm xuất khẩu gạo
- Một là: tính thời vụ trong trao đổi
Sản xuất lúa gạo mang đặc điểm tính thời vụ do vậy mà hình thành nên
tính thời vụ trong trao đổi sản phẩm trên thị trường. Số lượng lúa gạo cung cấp
trên thị trường không đều vào mỗi thời điểm trong năm. Điều này phụ thuộc vào
thời gian gieo trồng lúa. Lúa chỉ được gieo trồng vào những thời điểm nhất định
trong năm. Có thể chia thành 3 vụ : vụ đông xuân, vụ hè thu và vụ mùa. Mặc dù
lúa được gieo trồng theo các vụ liên tiếp nhau, nhưng giữa các vụ phải có thời
gian chờ đợi tương đối để cây lúa sinh trưởng rồi thu hoạch. Chính vì thế mà
lượng lúa cung cho thị trường không được đều và liên tục.
- Hai là: phần lớn gạo được tiêu thụ tại chỗ
Tình hình này là do một mặt, năng lực sản xuất của các nước này còn bị
hạn chế mặt khác do quy mô dân số và tốc độ tăng dân số ở các nước này khá
nhanh. Vì vậy lượng lúa gạo đem trao đổi trên thị trường gạo thế giới chỉ chiếm
tỷ lệ rất nhỏ. Các nước đang phát triển sản xuất 53-55% sản lượng gạo thế giới,
các nước Châu Á, Châu Phi sản xuất nhiều nhất chiếm 85% sản lượng gạo tiêu
thụ trên thế giới. Trong khi đó các nước này chỉ cung cấp 4-5% lượng gạo được
7



trao đổi trên thị trường thế giới, Châu Á là khu vực sản xuất nhiều nhất và cũng
tiêu thụ lượng gạo lớn nhất.
- Ba là: buôn bán gạo giữa các chính phủ là phương thức chủ yếu vì thế
xuất khẩu sản phẩm lúa gạo ổn định hơn so với hàng cơng nghiệp.
Ngun nhân thứ nhất, là do yếu tố chính trị quốc gia. Mỗi nước đều phải
đảm bảo an ninh lương thực, nếu lương thực không được đảm bảo sẽ có ảnh
hưởng rất lớn tới chính trị quốc gia đó. Vì thế việc bn bán gạo chủ yếu được
ký kết giữa các chính phủ với nhau thơng qua các hiệp định, các hợp đồng có
tính ngun tắc, dài hạn và định lượng cụ thể hàng năm vào đầu các niên vụ.
Nguyên nhân thứ hai, một số nước dùng xuất khẩu gạo để thực hiện các ý đồ
chính trị thơng qua viện trợ, cho không, bán chịu dài hạn… Điều này được thực
hiện giữa các chính phủ là chủ yếu.
- Bốn là: các nước xuất khẩu gạo lớn đóng vai trị chi phối thị trường gạo
thế giới:
Trên thế giới chỉ một vài nước là xuất khẩu với một lượng gạo lớn và có
uy tín như: Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc, Việt Nam… Nếu lượng gạo xuất khẩu
của các nước này có sự biến động có thể ảnh hưởng đến giá cả của gạo dẫn tới
những biến động trong cung – cầu gạo trên thế giới, hay có thể ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất đến các loại hàng hố khác.
1.1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo
1.1.4.1. Yếu tố thị trường
Yếu tố thị trường có ảnh hưởng rất lớn, chi phối toàn bộ hoạt động xuất
khẩu gạo của mỗi quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó có thể xét trên các yếu
tố cơ bản như sau:
- Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: Gạo là hàng hoá thiết yếu.
Cũng giống như các loại hàng hố khác, nó cũng phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu
dân cư, thị hiếu của người tiêu dùng… Khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo
giảm nhưng cầu về gạo chất lượng cao có xu hướng tăng lên (ở các nước phát


8


triển: Nhật, Châu Âu, ...), ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi.
Chính vì thế tỷ trọng tiêu dùng cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng.
- Cung gạo trên thị trường là một nhân tố quan trọng trong xuất khẩu gạo.
Trên thị trường thế giới sản phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, nhu cầu về gạo co
giãn ít so với mức giá. Do đó, nếu lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư
cung, điều đó sẽ là bất lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
- Giá cả là một yếu tố quan trọng và là thước đo sự cân bằng cung – cầu
trong nền kinh tế thị trường. Tuy cầu về gạo là ít biến động nhưng với những
sản phẩm đặc sản thì giá có quyết định khá lớn.
1.1.4.2. Yếu tố về cơ sở vất chất – kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu
thụ gạo
Các yếu tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật là hệ thống vận chuyển, kho tàng,
bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Các yếu tố về kỹ thuật, công nghệ sản xuất
và tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị
trường tiêu thụ gạo.
1.2. QUAN ĐIỂM VỀ AN NINH LƯƠNG THỰC

1.2.1. Khái niệm về an ninh lương thực
An ninh lương thực là khái niệm linh hoạt, được thể hiện khác nhau trong
nhiều định nghĩa của các nghiên cứu và chính sách. Ngay cả một thập kỷ trước
thì cũng đã có đến khoảng 200 định nghĩa trong các bài viết được xuất bản
(Maxwell & Smith, 1992). Vì thế khái niệm này được diễn giải theo nhiều cách
khác nhau.
An ninh lương thực là quan niệm chỉ mới xuất hiện vào giữa những năm 70
trong các thảo luận về tình hình lương thực thế giới và là phản ứng trước cuộc
khủng hoảng lương thực toàn cầu vào thời điểm đó. Quan tâm ban đầu chủ yếu

tập trung các vấn đề cung lương thực - đảm bảo nguồn cung cấp và ở một mức
độ nào đó là ổn định giá cả của nguồn thực phẩm chủ yếu ở cấp độ quốc gia và
quốc tế.

9


Là một trong những khái niệm ứng dụng trong chính sách công, quan
niệm về an ninh lương thực tiếp tục được phát triển để phản ánh được độ phức
tạp của các vấn đề chính sách và kỹ thuật có liên quan (FAO, 2003). Hội nghị
thượng đỉnh lương thực thế giới năm 1974 định nghĩa an ninh lương thực là:
“lúc nào cũng có đủ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cơ bản của thế giới
để đảm bảo việc tiêu dùng lương thực, thực phẩm ngày một nhiều hơn và để bù
đắp được những biến động trong sản xuất và giá cả” (UN, 1975).
Năm 1983, FAO mở rộng quan niệm này để tính thêm cả việc đảm bảo
cho những người dễ bị tổn thương tiếp cận được với các nguồn cung cấp sẵn có,
hàm ý rằng cần phải quan tâm đến sự cân bằng giữa cầu và cung trong phương
trình an ninh lương thực: “đảm bảo tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được
về mặt vật lý và kinh tế đối với nguồn lương thực mà họ cần”.
Sau đó, tại Báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) năm 1986, quan niệm
về an ninh lương thực được cụ thể hoá hơn theo nghĩa:
“tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được với đủ lương thực, thực phẩm để
đảm bảo một cuộc sống khoẻ mạnh và năng động.”
Hội nghị lương thực thế giới năm 1996 sử dụng một khái niệm thậm chí
cịn phức tạp hơn: “an ninh lương thực ở các cấp độ cá nhân, gia đình, khu vực
và toàn cầu (đạt được) khi tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được về mặt
vật lý và kinh tế đối với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn và đảm bảo dinh
dưỡng, để đáp ứng nhu cầu bữa ăn và sở thích đối với thức ăn, nhằm đảm bảo
một cuộc sống năng động và khoẻ mạnh” (FAO, 1996).
Báo cáo về tình hình mất an ninh lương thực năm 2001 đã chỉnh sửa lại

quan niệm này như sau: “An ninh lương thực là tình trạng khi tất cả mọi người
lúc nào cũng tiếp cận được về mặt vật lý, xã hội và kinh tế đối với nguồn lương
thực đầy đủ, an toàn và đảm bảo dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu bữa ăn và sở
thích đối với thức ăn nhằm đảm bảo một cuộc sống năng động và khoẻ mạnh”

10


Trong các định nghĩa về an ninh lương thực có ba biến số riêng biệt ảnh
hưởng đến an ninh lương thực: sẵn có, tiếp cận được và sử dụng. Các biến số
này được định nghĩa trên thực tế như sau:
Sẵn có lương thực: đảm bảo có đủ khối lượng lương thực ở một mức độ
chất lượng phù hợp từ các nguồn sản xuất hoặc đầu vào khác ở trong nước.
Tiếp cận lương thực: khía cạnh tiếp cận lương thực của an ninh lương
thực liên quan đến khả năng của các cá nhân tiếp cận được với nguồn tài nguyên
và các tài sản sở hữu khác để có được một lượng lương thực thích hợp với chế
độ ăn uống dinh dưỡng. “Tài sản sở hữu” là một loạt hàng hoá mà một người có
thể thiết lập được quyền kiểm sốt đối với chúng trong bối cảnh luật pháp, chính
trị, kinh tế và xã hội của cộng đồng nơi người đó đang sinh sống (bao gồm cả
các quyền truyền thống như sử dụng các nguồn tài nguyên chung). Ở cấp độ
quốc gia, tiếp cận đối với lương thực được tính dựa trên mức giá của lương thực
nhập khẩu và tỷ lệ nguồn chi cho lương thực nhập khẩu so với nguồn thu được
từ xuất khẩu lương thực.
Ổn định lương thực: khía cạnh ổn định lương thực hàm ý một dân tộc
hoặc một hộ gia đình hoặc một cá nhân lúc nào cũng phải tiếp cận được với
nguồn lương thực phù hợp. Những người này không gặp phải rủi ro không tiếp
cận được với lương thực do các cú sốc bất thường (như khủng hoảng khí hậu
hoặc kinh tế) hoặc các hiện tượng chu kỳ (như mất an ninh lương thực theo
mùa). Bên cạnh các cuộc tranh cãi về khả năng của môi trường có thể đảm bảo
được nhu cầu lương thực tồn cầu thì cũng có các yếu tố mới tác động đến độ ổn

định của nguồn cung lương thực, bao gồm:
• Thay đổi khí hậu và các biến động hàng năm và các tác động không
thuận đối với ổn định sản lượng và tăng khả năng mất an ninh lương thực;
• Tình trạng suy thối ở mức độ báo động về mơi trường cũng như là tính
tự túc của hệ thống sinh thái và nơng-sinh thái tồn cầu;
• Tác động của cải cách thương mại đối với giá cả và sản lượng (có thể do
thay đổi mùa vụ), đặc biệt là tác động tiêu cực đến an ninh lương thực ở nông
11


thôn nếu như điều này làm giảm giá cả thực tế theo hướng bất lợi cho nông dân
trong nước
Tiêu dùng lương thực: tiêu dùng lương thực thông qua các chế độ ăn
uống hợp lý, nước sạch, đảm bảo vệ sinh và y tế để đảm bảo dinh dưỡng khi tất
cả các nhu cầu tâm sinh lý được đáp ứng. Điều này khiến cho các yếu tố phi
lương thực cũng có vai trị quan trọng đối với an ninh lương thực.
Tóm lại, an ninh lương thực là khi tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận
được về mặt vật lý, xã hội và kinh tế đối với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn
và đảm bảo dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu ăn uống và khẩu vị thức ăn nhằm
đảm bảo một cuộc sống năng động và khoẻ mạnh. Mặc dù trong nhiều năm an
ninh lương thực được xem là vấn đề của một số nước đang phát triển song gần
đây nó đã trở thành mối quan tâm tồn cầu. Thay đổi khí hậu nhanh chóng, nguy
cơ khủng hoảng nguồn nước và nhu cầu ngày càng lớn đối với nguồn thịt gia
súc, gia cầm và năng lượng sinh học đang tạo ra những bất ổn mới đối với đảm
bảo nguồn lương thực cho nền kinh tế toàn cầu (AusAid, 2008).
1.2.2. Vai trò của an ninh lương thực
Đảm bảo an ninh lương thực sẽ giúp cho mọi người đều được tiếp cận với
lương thực. Một quốc gia có phát triển bền vững hay khơng thì trước tiên quốc
gia đó phải có một nền chính trị ổn định, một nền kinh tế phát triển và một nền
văn hoá đặc trưng phù hợp… Nhưng để có được điều đó thì trước tiên quốc gia

đó phải duy trì cuộc sống của các cơng dân trên lãnh thổ nước mình để thực hiện
các cơng việc, duy trì sự hoạt động của cả quốc gia. Vì vậy muốn duy trì được
điều đó địi hỏi các quốc gia phải quan tâm đến đời sống của các công dân về
mọi mặt như ăn, uống, ở, mặc, đi lại… để họ yên tâm làm việc và giúp quốc gia
đó phát triển.
Vấn đề quan trọng trước tiên đó chính là giải quyết vấn đề ăn cho người
dân. Điều này địi hỏi các quốc gia phải có các chính sách, chiến lược về lương
thực, để đảm bảo an ninh lương thực. Hay nói cách khác thì các quốc gia phải
đảm bảo là mọi người dân trong quốc gia mình sẽ được tiếp cận với lương thực,
12


có đủ lương thực để đảm bảo duy trì cuộc sống và duy trì cơng việc của họ. Vậy
đảm bảo an ninh lương thực sẽ có vai trị hết sức quan trọng, nó sẽ giúp cho mọi
người đều được tiếp cận với lương thực. Ở mỗi vùng khác nhau thì việc tiếp cận
lương thực lại theo các hướng khác nhau. Như ở thành thị khơng sản xuất được
lương thực thì hướng tiếp cận là mua bán, trao đổi (thương mại). Cịn ở các vùng
như nơng thơn sản xuất được lương thực nên việc tiếp cận với lương thực sẽ
theo hướng tự cung, tự cấp. Các vùng núi, vùng sâu, vùng xa vừa sản xuất tự
cung tự cấp, vừa thương mại trao đổi lương thực, do ở khu vực này sản xuất
lương thực có năng suất thấp, diện tích gieo trồng ít, kỹ thuật canh tác thấp kém,
đi lại khó khăn nên tình trạng thiếu lương thực thường xuyên xảy ra, gây nên
tình trạng đói về lương thực. Điều này càng thể hiện rõ vai trò của việc đảm bảo
an ninh lương thực. Nó khơng chỉ giúp người dân tiếp cận được với lương thực
ở mọi lúc, mọi nơi mà nó cịn góp phần ổn định về chính trị và kinh tế các quốc
gia. Quan trọng hơn là đảm bảo cuộc sống cho người dân giúp người dân duy trì
cuộc sống và yên tâm hơn để có thể làm việc và giúp thốt khỏi nghèo đói.
Đảm bảo an ninh lương thực sẽ giúp cho các quốc gia đối phó được với
các biến động đột xuất như là thiên tai, hạn hán, chiến tranh, xung đột. Thực tế
cho thấy, từ xưa đến nay nếu như quốc gia nào không đảm bảo được an ninh

lương thực khi xảy ra những biến động đột ngột sẽ khơng thể nào mà đối phó
kịp. Điều đó sẽ gây nên những sự bất ổn về mọi mặt, nghiêm trọng hơn có thể
dẫn đến diệt vong của quốc gia. Ví dụ đơn thuần như việc đột nhiên xảy ra chiến
tranh mà quốc gia đó khơng đảm bảo an ninh lương thực, khơng dự trữ được
lương thực thì sẽ không đáp ứng được lương thực cho người dân, cho binh lính,
sẽ dẫn đến lịng dân khơng n, binh lính khơng chiến đấu được … Cịn nếu như
đột biến xảy ra bão lũ mà việc đảm bảo an ninh lương thực khơng kịp thời thì có
thể dẫn đến nạn đói và có thể làm cho nhiều người chết vì đói khi bão lũ kéo dài
mà không được sự trợ giúp của Chính phủ. Vì thế Chính Phủ cần phải đảm bao
an ninh lương thực để đáp ứng mọi tình huống xảy ra.

13


Đảm bảo an ninh lương thực giúp cân bằng cung cầu thị trường lương
thực, ổn định giá cả. Trên thực tế hiện nay cung cầu lương thực ít biến động do
các quốc gia đều có các phương pháp và chính sách đảm bảo an ninh lương thực
cho quốc gia mình, trừ một số quốc gia ở Châu Phi. Ở đây chúng ta muốn nói
đến vai trị quan trọng của việc đảm bảo an ninh lương thực, đó chính là việc
điều tiết cung cầu lương thực giữa các quốc gia, giữa các vùng. Nhờ có đảm bảo
an ninh lương thực với những chính sách và chiến lược hợp lý nên lương thực
ln được đảm bảo, ít xảy ra biến động về cung cầu cũng như giá cả lương thực,
giúp cho người dân sử dụng lương thực yên tâm hơn và tích cực làm việc, giúp
cho các quốc gia, các vùng phát triển một cách bền vững và ổn định.
Đảm bảo an ninh lương thực nhằm thực hiện nhanh q trình xố đói
giảm nghèo. Trên thế giới hiện nay vấn đề nghèo đói vẫn đang là vấn đề nóng
bỏng đặt ra với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển với tỷ lệ nghèo
còn cao. Vấn đề đặt ra là các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế đất nước
mình phải tìm mọi cách để giảm nghèo, giảm dần khoảng cách giữa các vùng.
Ở Việt Nam, hiện nay trong q trình xố đói giảm nghèo của mình thì việc giải

quyết đầu tiên đó chính là giảm nhanh vấn đề nghèo về lương thực, thực phẩm
để giải quyết vấn đề ăn cho nhân dân, để họ yên tâm làm việc và thực hiện
nhiệm vụ của mình, thúc đẩy nhanh q trình xố đói giảm nghèo.
Đảm bảo an ninh lương thực cấp cơ sở tạo điều kiện để chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Khi đảm bảo an
ninh lương thực thì chúng ta phải làm từ cấp cơ sở. Bởi lẽ đối tượng để chúng ta
tác động chính là nông dân và họ đều sinh sống ở nông thôn và họ sản xuất nơng
nghiệp là chính.Vì vậy đảm bảo được an ninh lương thực cấp cơ sở sẽ tạo điều
kiện để chuyển đổi và phát triển kinh tế ở nông thôn.
Khi đảm bảo an ninh lương thực chúng ta thực hiện sản xuất lương thực,
đặc biệt là thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật ni và nó sẽ đem lại
hiệu quả kinh tế cao, có đủ lương thực đảm bảo cho người dân có lương thực để
dùng và có thể đem bán và sẽ tăng thu nhập, cải thiện đời sống, tạo điều kiện
14


phát triển kinh tế xã hội, và thực hiện chiến lược cơng nghiệp hố nơng nghiệp
nơng thơn. Đảm bảo an ninh lương thực cấp cơ sở có vai trị đặc biệt quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nơng thơn nói riêng và phát triển đất
nước nói chung, nó sẽ đảm bảo sự ổn định, sự bền vững khi đất nước ta tiến lên
xã hội chủ nghĩa.
1.2.3. Đặc điểm về đảm bảo an ninh lương thực ở nước ta
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ẩm nên sản xuất lương thực
của nước ta mang tính chất vùng rõ rệt. Do vậy việc đảm bảo an ninh lương thực
cũng sẽ có tính chất vùng. Việc đảm bảo an ninh lương thực ở mỗi vùng khác
nhau thì khác nhau, do ở mỗi vùng có các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
khác nhau. Đảm bảo an ninh lương thực không chỉ là việc đảm bảo cho người
dân đủ ăn, phải lo cho họ khi họ thiếu ăn mà việc quan trọng là với những điều
kiện của mỗi vùng thì phải có các chiến lược, chính sách cụ thể hợp lý để họ tự
cung, tự cấp, hay nói cách khác là họ tự đảm bảo lương thực cho mình nhằm duy

trì cuộc sống. Chúng ta đảm bảo an ninh lương thực đối với những vùng cụ thể
sẽ phải có các cơng cụ cụ thể nhằm đảm bảo an ninh lương thực tốt nhất, ít cơng
nhất và rẻ nhất. Chẳng hạn như một vùng nào đó sản xuất lúa gạo không hiệu
quả tất yếu xảy ra lương thực khơng đủ ăn, bị đói nhưng chính sách địa phương
lại không phù hợp vẫn cứ bắt họ phải cấy lúa, vậy thì tình trạng đói là đương
nhiên. Với tình huống này thì ta phải có phương pháp để giải quyết như: chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đổi hướng sang trồng cây khác
có hiệu quả hơn, kinh tế hơn hoặc chuyển sang chăn nuôi. Như vậy biện pháp
này không chỉ đảm bảo được an ninh lương thực mà cịn giúp cho người dân
thốt được cảnh nghèo đói truyền kiếp.
Do thu nhập giữa các vùng miền, các địa phương là khác nhau và có sự
chênh lệch nên việc đảm bảo an ninh lương thực đối với từng vùng, từng địa
phương, từng đối tượng là khác nhau.
Khu vực thành thị có thu nhập cao thì việc đảm bảo an ninh lương thực
khơng cịn là việc đảm bảo vấn đề ăn về số lượng mà còn phải là đảm bảo cả về
15


số lượng, chất lượng, mẫu mã và văn hoá, đảm bảo về dinh dưỡng, đảm bảo an
ninh lương thực ở trình độ cao.
Khu vực nơng thơn, đồng bằng có thu nhập thấp nhưng ở khu vực này lại
sản xuất được nhiều lương thực nên vấn đề đói lương thực cũng khơng đáng
quan tâm. Vì thế đảm bảo an ninh lương thực ở khu vực này tiến dần tới tăng
thu nhập cho họ, sử dụng lương thực chất lượng, có dinh dưỡng cao và sử dụng
lương thực sạch, huy động dự trữ phịng trừ các tình huống xảy ra.
Vùng núi, vùng sâu, vùng xa, có thu nhập thấp, việc thiếu lương thực xảy
ra thường xuyên nên càng cần phải đảm bảo an ninh lương thực. Trước tiên là về
số lượng, giúp họ có đủ lương thực để duy trì cuộc sống và tích cực thốt nghèo,
tự lo được cho mình.
Nước ta nằm trong miền nhiệt đới gió mùa nên đảm bảo an ninh lương

thực có đặc điểm là đảm bảo an ninh lương thực với các biến động đột suất do
những yếu tố khách quan đem lại như hạn hán, lũ lụt, mất mùa… Thực tế cho
thấy ở Việt Nam thời tiết luôn biến động thất thường, mưa, bão, lũ, hạn hán
thường xuyên xảy ra nên trong chương trình đảm bảo an ninh lương thực của
Việt Nam luôn quan tâm tới tình huống này nhằm đáp ứng lương thực kịp thời
cho người dân khi xảy ra các tình huống đột suất, từ đó nhằm ổn định về kinh tế,
chính trị đất nước, đưa đất nước phát triển bền vững.

16


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM THEO
QUAN ĐIỂM ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC
2.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY

2.1.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo
Công tác xuất khẩu gạo của nước trong những năm qua đã đạt được nhiều
thành tích đáng khích lệ. Qui mơ xuất khẩu gạo ngày càng mở rộng với khối
lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất
khẩu từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, bên cạnh một số sản phẩm nông
sản mang tính truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, gạo đã trở
thành một mặt hàng nông sản mang về cho đất nước một nguồn thu ngoại tệ
xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo
tăng lên một cách đáng kinh ngạc qua các năm.
 Năm 2007,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, lượng gạo cả nước xuất khẩu
đến nay đã đạt mức 4,5 triệu tấn với kim ngạch trị giá 1,5 tỷ USD. Đặc biệt
trong năm này, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng đáng kể và lần đầu tiên
ngang giá với gạo Thái Lan. Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, trong

bài Xuất khẩu nông sản: "Bay qua vùng thời tiết xấu”, năm 2008 xuất khẩu gạo
đạt 4,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,9 tỉ đơ la Mỹ (tính ra, giá bán bình qn
617,02 đơ la Mỹ/tấn).
Năm 2009, thị trường hàng hố thế giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thối kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều
hành xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm qua, cả nước đã xuất khẩu được
6,052 triệu tấn gạo, kim ngạch XK gần 2,7 tỉ USD, đây là năm có số lượng xuất
khẩu nhiều nhất từ trước đến nay; trong đó chủng loại gạo cao cấp chiếm đến
40, 25%. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá FOB); về số lượng tăng
17


29,35% so năm 2008. Đặc biệt, tỷ lệ gạo cao cấp XK đã đạt 50% (những năm
trước chỉ khoảng 34%). Như vậy, mặc dù năm 2009 xuất khẩu nhiều hơn năm
2008 đến 1,352 triệu tấn gạo, nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm 200.000 đô la
Mỹ, giá bán giảm 183,69 đô la Mỹ/tấn.
 Năm 2010
Ông Trương Thanh Phong - chủ tịch VFA - cho biết xuất khẩu gạo Việt
Nam năm 2010 về lượng và giá đều tăng đáng kể, đạt mức cao nhất trong hơn
chục năm qua. Cả năm đạt 6,754 triệu tấn gạo xuất với trị giá gần 3 tỉ USD, giá
xuất khẩu bình quân trên 431 USD/tấn và gần bằng với mức giá gạo Thái Lan.
Cụ thể :Tháng 4/2010 cả nước xuất khẩu 725.620 tấn gạo các loại, đạt 361,4
triệu USD, giảm 49,71% về lượng và giảm 54,41% về trị giá so với tháng
3/2010. Tính chung cả 4 tháng đầu năm lượng xuất khẩu đạt 2,2 triệu tấn, đạt
kim ngạch 1,15 tỷ USD, giảm 12,81% về lượng và giảm nhẹ 0,33% về kim
ngạch so với cùng kỳ năm 2009. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam gần như thấp
nhất so với những nước xuất khẩu gạo khác, giá bình quân 4 tháng đạt 532USD/
tấn, tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm 2009 nhưng vẫn thấp hơn giá bình quân 3
tháng đầu năm là 549USD/tấn. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết,
dù vẫn giảm 7,3% về lượng, xuất khẩu gạo 5 tháng đầu năm đã tăng 0,6% về

kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, xuất khẩu gạo từ đầu năm đến nay
đã đạt trên 2,9 triệu tấn với kim ngạch xấp xỉ 1,5 tỷ USD, bằng 58,4% kế hoạch
cả năm, đồng thời đứng thứ 5 trong các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu dẫn
đầu cả nước, xếp sau dệt may, dầu thô, da giày và thủy sản. Có được kết quả này
là do giá gạo xuất khẩu đã tăng khá hơn trong năm nay. Cụ thể, giá gạo xuất
khẩu bình quân 5 tháng đầu năm đạt 513,43 USD/tấn, tăng khoảng 8,5% so với
cùng kỳ năm trước (giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt
473,37 USD/tấn. Cả năm đạt 6,754 triệu tấn gạo xuất với trị giá gần 3 tỉ USD,
giá xuất khẩu bình quân trên 431 USD/tấn và gần bằng với mức giá gạo Thái
Lan. Tính đến ngày 24/09/2010, nước ta đã xuất khẩu 5,256 triệu tấn gạo, đạt

18


giá trị 2,22 tỷ USD, tăng 11,75% về lượng và 14,35% về giá trị so với cùng kỳ
năm trước.
Biểu đồ 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2010

Nguồn : Tổng cục Thống kê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Biểu đồ 2.2: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo giai đoạn 2008-2010

Nguồn : Tổng cục Thống kê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Từ biểu đồ 2.2 ta thấy sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không
ngừng tăng qua các năm giai đoạn 2008 – 2010. Năm 2009 nước ta đã xuất khẩu
19



×