Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tac dong cua hiep dinh CPTPP den linh vuc lam nghiep tai viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.41 KB, 25 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển kinh tế lâm nghiệp là vấn đề ngày càng được coi trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của nước ta. Với diện tích rừng trên 14 triệu ha rừng và tỷ lệ
che phủ rừng đạt 41,65%, đây là tỷ lệ cao trong khu vực và thế giới, là điều kiện
thuận lợi cho nước ta phát triển kinh tế lâm nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng ngành kinh tế lâm nghiệp với sự tham
gia của 4.500 doanh nghiệp tham gia và chuỗi lâm sản, bước đầu xây dựng được
ngành kinh tế lâm nghiệp với kim ngạch xuất khẩu khoảng 9 tỷ USD.
Việc tham gia ký kết các Hiệp định sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam
nói chung và ngành Lâm nghiệp nói riêng có cơ hội hội nhập sâu rộng và kết nối
với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Năm 2018, Việt Nam và EU ký Hiệp định Đối
tác tự nguyện về thực thi Luật Lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản
(VPA/FLEGT) sẽ là cơ hội để Việt Nam tái cơ cấu ngành kinh tế lâm nghiệp,
hướng đến minh mạch hóa chuỗi sản xuất từ nguyên liệu, chế biến và thương mại.
Gần đây nhất, Hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương
(CPTPP) đã được ký kết ngày 8/3/2018 và chính thức có hiệu lực với Việt Nam từ
ngày 14/1/2019. Hiệp định được ký kết đã khẳng định vai trò và vị thế địa - chính
trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực Đơng Nam Á cũng như châu Á-Thái
Bình Dương, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN, trong khu vực cũng
như trên trường quốc tế.…Hiệp định CPTPP được kỳ vọng khơng chỉ mở ra những
cơ hội mới mà cịn tạo thêm động lực để Việt Nam phát triển nhiều ngành nghề,
lĩnh vực kinh tế, trong đó có lĩnh vực lâm nghiệp. Sinh hoạt học thuật “Tác động
của Hiệp định CPTPP đến lĩnh vực lâm nghiệp tại Việt Nam” nhằm tìm hiểu
những tác động của CPTPP cũng như những cơ hội và thách thức với lĩnh vực lâm
nghiệp khi Việt Nam ký kết và tham gia Hiệp định này.

1


PHẦN 1: MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1.Mục tiêu của báo cáo


- Hệ thống được một số vấn đề cơ bản về CPTPP
- Đánh giá được một số tác động chính của CPTPP với một số lĩnh vực trong
nền kinh tế Việt Nam
- So sánh được tác động của CPTPP và VPA/FLEGT với lĩnh vực lâm nghiệp
- Đánh giá được cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực lâm nghiệp của Việt
Nam khi tham gia CPTPP
- Đưa ra được một số giải pháp để phát triển kinh tế lâm nghiệp khi Việt Nam
tham gia CPTPP
1.2. Nội dung nghiên cứu
- Một số vấn đề cơ bản về Hiệp định CPTPP và tác động của Hiệp định
CPTPP đến nền kinh tế Việt Nam
- Tác động của Hiệp định CPTPP đến ngành lâm nghiệp tại Việt Nam
- So sánh sự tác động của Hiệp định VPA/FLEGT và Hiệp định CPTPP với
lĩnh vực lâm nghiệp
- Đánh giá cơ hội, thách thức và một số giải pháp cho ngành lâm nghiệp khi
Việt Nam tham gia CPTPP
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những tác động của Hiệp định CPTPP đến lĩnh vực lâm nghiệp
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi thời gian
- Đề tài phân tích giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của một số ngành kinh tế
trong năm 2018; giá trị nhập khẩu của các quốc gia thành viên trong CPTPP năm
2017; những ưu đãi thuế quan của CPTPP áp dụng từ tháng 1/2019.
1.3.2.2. Phạm vi không gian
Ngành lâm nghiệp tại Việt Nam
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
2



- Đề tài sử dụng số liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn báo chí, Tổng cục
thống kê, các văn bản về Hiệp định CPTPP, Hiệp định VPA/FLEGT
1.4.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
+Phương pháp thống kê kinh tế: Thống kê giá trị xuất khẩu gỗ và các sản
phẩm gỗ qua các năm; thống kê thị trường có giá trị xuất nhập khẩu gỗ lớn của Việt
nam
+ Phương pháp phân tích kinh tế: Phân tích sự tác động của Hiệp định
CPTPP cũng như những cơ hội và thách thức từ Hiệp định này tới lĩnh vực lâm
nghiệp của Việt Nam.
+ Phương pháp quy nạp: Đưa ra đánh giá, nhận xét tổng quát từ những nội
dung đã phân tích.
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh sự tác động đến lĩnh vực lâm
nghiệp từ Hiệp định VPA/Flegt và Hiệp định CPTPP; So sánh sự tác động của Hiệp
định CPTPP đến ngành lâm nghiệp và các ngành kinh tế khác

3


PHẦN 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1. Một số vấn đề cơ bản về Hiệp định CPTPP và sự tác động của Hiệp
định CPTPP đến nền kinh tế Việt Nam
2.1.1. Một số vấn đề cơ bản về Hiệp định CPTPP
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là
Hiệp định CPTPP đã được ký kết ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại thành phố
Santiago, Chile. Đây là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới bao gồm
11 nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,
Mexico, New zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Việc ký kết Hiệp định CPTPP
là kết quả sau một quá trình nỗ lực của tất cả các thành viên kể từ khi Hoa Kỳ rút
khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Hiệp định CPTPP được ký kết bởi 11 quốc gia thành viên có tổng GDP là
13.000 tỷ USD, chiếm khoảng 13,5% GDP của toàn cầu.
Tổng dân số của các quốc gia tham gia CPTPP là 495 triệu người, chiếm
6.8% trong tổng dân số thế giới.
2.1.1.1.Quá trình hình thành Hiệp định CPTPP
Tháng 3/2010, Việt Nam tham gia vịng đàm phán chính thức đầu tiên của
Hiệp định TPP, được khởi động tại thành phố Melbourne, Australia.
Tháng 2/2016, Việt Nam cùng các nước thành viên ký kết Hiệp định TPP tại
New Zealand.
Tháng 1/2017, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi Hiệp định TPP sau khi Tổng thống
Donald Trump đắc cử
Tháng 11/2017, 11 nước còn lại đã thống nhất đổi tên Hiệp định TPP thành
Hiệp định CPTPP với những nội dung cốt lõi
Ngày 08 tháng 3 năm 2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp định
CPTPP đã chính thức tham gia Lễ ký Hiệp định CPTPP tại thành phố Santiago,
Chile.
2.1.1.2. Hiệu lực của Hiệp định CPTPP
  Theo quy định của TPP cũ, để Hiệp định có hiệu lực thì tổng GDP của các
nước triển khai phải bằng 85% tổng GDP của 12 nước đã ký từ năm 2013. Tuy
4


nhiên, khi Mỹ (chiếm tới 60% GDP toàn khối) rút lui khỏi TPP, thì 11 nước cịn lại
đã thay đổi điều khoản hiệu lực để CPTPP có thể bắt đầu. Theo đó, chỉ cần ít nhất 6
quốc gia thành viên ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ
ngày ký.
Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 đối
với nhóm 6 nước đầu tiên hồn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mexico, Nhật
Bản, Singapore, New Zealand , Canada và Australia.
Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Hiệp

định CPTPP và các văn kiện có liên quan ngày 12/11/2018 và bắt đầu có hiệu lực
đối với Việt Nam từ ngày 14/1/2019 kỳ vọng mở ra nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp trong nước.
2.1.1.3. Nội dung chính của Hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP gồm 30 Chương
và 9 phụ lục bao trùm rất nhiều vấn đề, từ các vấn đề thương mại truyền thống
(hàng hóa, dịch vụ, đầu tư…), đến các vấn đề thương mại chưa hoặc ít được đề cập
trong các Hiệp định tự do FTA (mua sắm công, thương mại điện tử, doanh nghiệp
nhà nước…) và cả các vấn đề khác có liên quan đến thương mại (lao động, môi
trường…).
Hiệp định CPTPP tiếp nối hầu như toàn bộ các cam kết của TPP ngoại trừ các
khác biệt sau:
- Bỏ các cam kết riêng của Hoa Kỳ hoặc với Hoa Kỳ trong TPP
- Tạm hỗn khoảng 20 nhóm cam kết nằm rải rác ở 09 Chương của TPP để
bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong bối
cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP, đó là:
+ Chương 5 (Hải quan và Tạo thuận lợi thương mại): Tạm hoãn nghĩa vụ
xem xét định kỳ ngưỡng miễn thuế cho hàng chuyển phát nhanh
+ Chương 9 (Đầu tư): Tạm hoãn các nội dung liên quan tới Cơ chế giải quyết
tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước (ISDS) đối với Thỏa thuận đầu tư và Chấp
thuận đầu tư.
+ Chương 10 (Dịch vụ xuyên biên giới): Tạm hỗn nghĩa vụ cấm doanh
nghiệp bưu chính độc quyền trợ cấp chéo cho hoạt động kinh doanh khác hay lạm
dụng độc quyền trong cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh
5


+ Chương 11 (Dịch vụ tài chính): Tạm hỗn nghĩa vụ áp dụng cơ chế ISDS
đối với khiếu kiện vi phạm nguyên tắc “Chuẩn đối xử tối thiểu”
+ Chương 13 (Viễn thơng): Tạm hỗn nghĩa vụ phải cho phép doanh nghiệp

viễn thơng khiếu nại, khiếu kiện quyết định hành chính của cơ quan quản lý viễn
thông
+ Chương 15 (Mua sắm cơng): Tạm hỗn các cam kết liên quan đến quyền
lao động trong điều kiện tham gia dự thầu. Sửa đổi Điều 15.24.2 đoạn “không
muộn hơn 3 năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực" thành “khi có một thành viên yêu
cầu và không sớm hơn 5 năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực trừ khi các bên có
thỏa thuận khác” 7.
+ Chương 18 (Sở hữu trí tuệ): Tạm hỗn giải thích cụ thể về loại biện pháp
có ảnh hưởng tới việc sử dụng quyền bản quyền và quyền liên quan; Tạm hoãn
nghĩa vụ bảo hộ độc quyền sáng chế đối với các đối tượng: công dụng mới/phương
thức sử dụng mới/quy trình sử dụng mới của sản phẩm đã biết; thực vật; Tạm hoãn
nghĩa vụ điều chỉnh gia hạn bằng sáng chế do sự chậm trễ của cơ quan cấp bằng
sáng chế; Tạm hoãn nghĩa vụ điều chỉnh gia hạn bảo hộ sáng chế do bị chậm trễ
trong quá trình cấp phép lưu hành dược phẩm; Tạm hoãn nghĩa vụ bảo hộ độc
quyền dữ liệu thử nghiệm bí mật hoặc dữ liệu bí mật khác đối với dược phẩm trong
quá trình cấp phép lưu hành; Tạm hỗn nghĩa vụ riêng liên quan tới sinh phẩm;
Tạm hoãn nghĩa vụ về thời hạn tối thiểu bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên
quan; Tạm hoãn nghĩa vụ bảo hộ đối với các biện pháp cơng nghệ bảo vệ quyền
(TPMs); Tạm hỗn nghĩa vụ bảo hộ đối với Thông tin quản lý quyền (RMI); Tạm
hỗn nghĩa vụ bảo hộ tín hiệu cáp và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hóa; Tạm hoãn nghĩa vụ đối với trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet
trong bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan
+ Chương 20 (Mơi trường)” Tạm hỗn nghĩa vụ áp dụng “luật áp dụng khác”
(luật nơi hành vi buôn bán diễn ra)
+ Chương 26 (Minh bạch và Chống tham nhũng): Tạm hỗn nghĩa vụ minh
bạch hóa trong thủ tục lựa chọn danh mục dược phẩm và thiết bị y tế được bảo
hiểm chi trả và yêu cầu thông tin về các sản phẩm này)
- Một số Thư song phương sửa đổi/điều chỉnh giữa các Bên của CPTPP
6



- Bổ sung các quy định về quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại CPTPP trong
tương lai, tạo tính linh hoạt của Hiệp định và sẵn sàng cho những đợt kết nạp thành
viên mới.
2.1.2.Tác động của Hiệp định CPTPP tới nền kinh tế Việt Nam
2.1.2.1.Tác động chung của Hiêp định CPTPP
CPTPP có tác động khá tích cực đến kinh tế Việt Nam. Tham gia CPTPP, nền
kinh tế Việt Nam sẽ có những mức tăng trưởng tương đối từ những cam kết gỡ bỏ
hàng rào thuế quan (Giảm dần về 0% đến năm 2030) và việc mở rộng thị trường
tiêu thụ một cách sâu rộng hơn. Theo đánh giá sơ bộ của World Bank, CPTPP dự
kiến sẽ giúp tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng thêm 1,1%. Kim ngạch xuất khẩu
nếu có CPTPP tăng thêm 4,2%, Nhập khẩu cũng ước tính tăng trưởng khoảng 5,3%
Bảng 1: Tác động kinh tế vĩ mô của Hiệp định CPTPP đối với nền kinh
tế Việt Nam tính đến năm 2030

Tăng trưởng GDP (tăng thêm)
Kim ngạch xuất khẩu (tăng thêm)
Kim ngạch nhập khẩu (tăng thêm)

Mô phỏng với giả Mô phỏng trong
định năng suất trường hợp kích
bình thường
thích tăng năng
suất
1,1%
3,5%
4,2%
6,9%
5,3%
7,6%

Nguồn: World Bank

Tổng kim ngạch nhập khẩu của 10 nước đối tác trong CPTPP là gần 2.500 tỷ
USD. Hiện nay Việt Nam mới xuất khẩu sang các nước này khoảng 42 tỷ USD,
chiếm khoảng 1,7% tổng nhập khẩu của các nước. Như vậy, dư địa cho xuất khẩu
của nước ta sang các thị trường này còn rất lớn. Đặc biệt là với những đối tác có giá
trị nhập khẩu còn thấp từ Việt Nam như Chile, Peru, New Zealand, Brunei,..
Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu của các nước thành viên trong khối
CPTPP năm 2017
ĐVT: Triệu USD
STT

Các nước
đối tác
CPTPP

Dân số
(Triệu
người)

Kim ngạch nhập khẩu
Nhập khẩu từ
thế giới

7

Nhập khẩu từ Việt
Nam (**)

Tỷ trọng

(%)


1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Nhật Bản
Australia
New Zealand
Chile
Brunei
Malaysia
Singapore
Canada
Mexico
Peru
Tổng

126,4
25,2
4,9
19,6

0,4
32,1
5,6
37,2
123,7
32,2
407

671.921
228.580
40.115
65.162
2.720
195.149
327.689
441.729
432.153
39.856
2.445.074

18.534
3.844
590
889
15
5.234
3.358
3.918
4.616
402

41.400

2,8%
1,7%
1,5%
1,4%
0,6%
2,7%
1,0%
0,9%
1,1%
1,0%
1,7%

Nguồn: Trademap
Tuy nhiên, do Việt Nam đã thực hiện ký kết các FTA song phương và đa
phương với 7/10 quốc gia trong CPTPP và được hưởng các ưu đãi về thuế quan
trước đó nên lợi ích của Việt Nam trong tiến trình cắt giảm thuế quan cũng chỉ ở
một mức nhất định. Ngoài ra, các cam kết tự do hóa thương mại của Việt Nam đối
với các mặt hàng nhập khẩu từ các nước thành viên có thể ảnh hưởng tiêu cực đến
một số ngành sản xuất trong nước như ngành thức ăn chăn nuôi; lương thực, thực
phẩm, đồ uống, thuốc lá…
2.1.2.2. Tác động của Hiệp định CPTPP đến một số ngành chịu tác động chủ
yếu.
Để có cái nhìn rõ ràng hơn về sự tác động của Hiệp định CPTPP đến lĩnh vực
lâm nghiêp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung, tác giả đưa ra bảng tổng
hợp sự tác động của Hiệp định CPTPP đến một số các ngành lĩnh vực chịu ảnh
hưởng chủ yếu và trực tiếp từ Hiệp định.

STT


Ngành nghề
Dệt may, da
giày

Hướng tác
động
Tác động
tích cực

Ảnh hưởng từ Hiệp định CPTPP
- Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may, da giày năm 2018 đạt 30,4 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu sang nhóm nước
CPTPP chỉ chiếm khoảng 15% tổng kim
ngạch. Nhật Bản và Canada tiếp tục là 2
thị trường nhập khẩu hàng dệt may, da
8


Thủy sản

Tác động
tích cực

giày lớn của Việt Nam trong nhóm
CPTPP.
- Hàng rào thuế quan ngành dệt may, da
giày cơ bản sẽ được dỡ bỏ ngay khi
CPTPP có hiệu lực, song lợi ích mang lại

từ điều khoản này khơng thực sự đáng
kể. Nguyên nhân là do Việt Nam đã ký
kết các FTA song phương và đa phương
với 7/10 quốc gia trong CPTPP với các
điều kiện về thuế nhập khẩu hàng dệt
may, da giày ở mức rất ưu đãi như 0%
đối với Nhật Bản và ASEAN…
-Ngoài ra, để được hưởng mức thuế suất
ưu đãi 0%, các doanh nghiệp trong
ngành cần đáp ứng yêu cầu khắt khe về
quy tắc xuất xứ (“từ sợi trở đi”) trong
ngành dệt may. Đây là một rào cản lớn
cho các doanh nghiệp bởi nguồn nguyên
liệu đầu vào của Việt Nam chủ yếu được
nhập khẩu từ Hàn Quốc và Trung Quốc
(2 quốc gia khơng nằm trong nhóm nước
CPTPP).
- Kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản
năm 2018 đạt 8,79 tỷ USD, trong đó xuất
sang các nước thuộc CPTPP chiếm
khoảng 21% tổng kim ngạch xuất khẩu;
trong đó Nhật Bản tiếp tục là thị trường
nhập khẩu hàng thủy sản lớn nhất của
Việt Nam (chiếm tỷ trọng 15,7% trong
tổng kim ngạch).
- Tương tự với ngành dệt may, lợi ích từ
việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan là không
đáng kể do mức thuế suất hiện nay đang
áp dụng với mặt hàng thủy sản của Việt
Nam là tương đối thấp: mức thuế 0% đối

với các nước trong ASEAN; ~0% với
Canada và Peru; 3,5-7,3% đối với Nhật
Bản…
9


Gỗ và sản
phẩm từ gỗ

Tác động
tích cực

Nơng nghiệp

Tác
động
tích cực đến
ngành nông
sản
(trừ
gạo), và tiêu
cực
đến
ngành thức
ăn chăn nuôi

- Mặc dù hàng rào thuế quan cơ bản
được dỡ bỏ, song các quy định phi thuế
quan có xu hướng ngày càng khắt khe và
thắt chặt hơn (biện pháp kiểm tra vệ

sinh, phòng vệ thương mại và các rào
cản kỹ thuật…)
-Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản
phẩm từ gỗ năm 2018 đạt 8,91 tỷ USD,
tăng khoảng 11,66% so với cùng kỳ năm
2017, trong đó xuất khẩu sang nhóm
nước CPTPP ghi nhận 1,6 tỷ USD,
chiếm 17,96% kim ngạch xuất khẩu gỗ
và sản phẩm từ gỗ.
- Về cơ bản, hầu hết các quốc gia
trong CPTPP đều cam kết loại bỏ thuế
quan đối với đối với gỗ và sản phẩm từ
gỗ của Việt Nam ngay khi CPTPP có
hiệu lực.
-Các biện pháp phi thuế quan đối
với sản phẩm gỗ hầu như nhắc lại và
thực hiện nghĩa vụ tương ứng như trong
WTO, hầu như không thay đổi.
- Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm
nơng nghiệp sang nhóm nước CPTPP
tương đối thấp, ước đạt khoảng 1,3 tỷ
USD trong năm 2018, chiếm 8,2% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2018.
- Quy định về cắt giảm thuế quan đối
với hàng nông sản của Việt Nam có sự
khác nhau giữa các mặt hàng. Cụ thể:
+ Gạo: không được hưởng lợi đáng kể từ
CPTPP do đây là mặt hàng lương thực
chủ chốt và có tính nhạy cảm cao (không
được hưởng ưu đãi tại Nhật Bản,

Australia Malaysia và Peru; hoặc được
giảm thuế quan song có lộ trình kéo dài
đến 10 năm tại Mexico).
+ Hàng rau quả: các nước trong CPTPP
10


Lương thực,
Tác động
thực phẩm, đồ tiêu cực
uống, thuốc lá

đều cam kết dỡ bỏ hàng rào thuế quan,
tiềm năng xuất khẩu lớn.
- Ngành thức ăn chăn nuôi: ngày càng
phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI (thị
phần chiếm trên 60%) với nguồn nguyên
liệu đầu vào (ngô, đậu tương…) chủ yếu
được nhập khẩu từ các quốc gia khác.
Các ưu đãi về thuế nhập khẩu trong
CPTPP sẽ tiếp tục củng cố vị thế của các
doanh nghiệp sản xuất khối FDI và ngày
càng ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh
nghiệp nội địa sản xuất ngành.
- Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
lương thực, thực phẩm và đồ uống năm
2018 sang nhóm nước CPTPP chiếm
khoảng 11,5% tổng kim ngạch. Ngược
lại, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng
này ghi nhận 2,2 tỷ USD, trong đó nhập

khẩu từ các nước CPTPP chiếm tới 45%
(khoảng 1,1 tỷ USD).
- Chính sách thuế quan đối với các sản
phẩm trong ngành về cơ bản chia làm 2
xu hướng:
(i) bị áp dụng hạn ngạch thuế quan với
các sản phẩm thế mạnh của mỗi nước
như: các sản phẩm bơ, trứng, sữa
(Australia, New Zealand, Canada, Nhật
Bản, Mexico); thịt lợn, thịt gà (Nhật Bản,
Canada)
(ii) cam kết giảm thuế trong thời gian lâu
hơn so với các ngành nghề khác như: sản
phẩm thực phẩm thủy sản đông lạnh
(Mexico).
- Bên cạnh đó các quy định phi thuế
quan ngày càng được tăng cường như:
các biện pháp phòng vệ thương mại và
hàng rào kỹ thuật cũng gâp áp lực đáng
kể đến các doanh nghiệp xuất khẩu trong
11


lĩnh vực này của Việt Nam.
Khoáng sản,
Tác động
- Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
dầu khí
khơng đáng khống sản, dầu khí sang các nước
kể

CPTPP năm 2018 ghi nhận ở mức 1,7 tỷ
USD chiếm 27,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng khống sản, dầu khí.
Trong đó tập trung vào các thị trường
châu Á (Nhật Bản, Malaysia, Singapore)
và Australia.
- Mặc dù vậy, song những lợi ích mà
CPTPP mang lại cho Việt Nam trong lĩnh
vực khống sản, dầu khí là khơng đáng
kể bởi Việt Nam chủ động bảo lưu thuế
xuất khẩu các mặt hàng này nhằm hạn
chế xuất khẩu các nguyên liệu thơ, ít giá
trị gia tăng như: (i) khống sản, (ii)
quặng, (iii) than và (iv) nhóm vàng và
vàng trang sức
2.2. Tác động của Hiệp định CPTPP đến ngành Lâm nghiệp Việt Nam
2.2.1.Tổng quan về sản xuất ngành lâm nghiệp Việt Nam
Sau 5 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu, ngành lâm nghiệp đã đạt được nhiều
kết quả rõ nét, tạo chuyển biến tích cực trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu
kinh tế. Hiệu quả hoạt động của ngành và thu nhập, đời sống của người dân đã
được nâng cao. Lâm nghiệp phát triển nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường,
khẳng định vị thế là một ngành kinh tế vì mơi trường, thể hiện bằng những con số
hết sức cụ thể:
+ Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng nhanh: Năm 2011 đạt
3,4%, năm 2012 đạt 4,6%, năm 2013 đạt 5,9%. Từ năm 2013 đến nay, giá trị sản
xuất lâm nghiệp tăng bình quân 7,29%/năm vượt mục tiêu đề ra là 4-4,5%.
+ Diện tích rừng tăng đều và ổn định, từ 12,306 triệu ha với độ che phủ rừng
37% năm 2004 tăng lên 14,061 triệu ha với độ che phủ rừng 40,84% năm 2015 và
đến năm 2017 độ che phủ rừng đã đạt 41,45% năm 2017. Năm 2018 ước đạt
41,5%.

+ Năng suất, chất lượng và giá trị rừng trồng không ngừng được nâng lên.
Đến năm 2017, tổng diện tích rừng trồng gỗ lớn của cả nước đạt 130 ngàn ha,
12


chiếm 3,65% diện tích rừng trồng cả nước. Hàng năm, ngành lâm nghiệp đã góp
phần phủ xanh thêm diện tích trên 235 ngàn ha rừng tập trung, trong đó trên 90% là
rừng sản xuất. Năng suất rừng trồng bình quân hiện nay đạt 21,86 m3/ha/năm. Sản
lượng gỗ khai thác từ rừng trồng 5 năm qua đã tăng hơn 3,3 lần, từ 8 triệu m3 năm
2013 lên 18 triệu m3 năm 2017. Tỷ trọng nguyên liệu gỗ sản xuất trong nước cung
cấp cho công nghiệp chế biến đã tăng từ 66% năm 2012 lên khoảng 80% năm
2017.
+ Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển mạnh với nhiều thành phần
kinh tế. Trong vòng 10 năm qua, giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản tăng
hơn 3,7 lần, từ 2,3 tỷ USD năm 2007 lên hơn 8,91 tỷ USD vào năm 2018. Năm
2018 là năm mà ngành lâm nghiệp đã xác lập nên một kỷ lục mới và vượt trước 3
năm so với mục tiêu đề ra của Chiến lược Phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn
2006 – 2020. Hiện nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đứng thứ 5 trên thế
giới, đứng thứ 2 châu Á và lớn nhất Đông Nam Á về xuất khẩu gỗ. Tổng số doanh
nghiệp, cơ sở chế biến gỗ và lâm sản hiện có khoảng 4.500 doanh nghiệp, với 1.863
doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào xuất khẩu (trong đó khối FDI có trên 700
doanh nghiệp), đã hình thành ngành công nghiệp chế biến gỗ lớn mạnh về quy mơ
và trình độ cơng nghệ.
Về mặt thị trường tiêu thụ, Việt Nam đã xuất khẩu trực tiếp được sang 120 và
vùng lãnh thổ, trong đó Việt Nam xuất khẩu vào 7/10 nước thành viên trong khối
CPTPP. Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mỹ chiếm đến 44% tổng giá trị xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ, thứ hai là Nhật Bản chiếm 13%, tiếp theo là Trung Quốc, Hàn
Quốc, Anh, Australia, Canada, Pháp…
+ Dịch vụ môi trường rừng trở thành điểm sáng trong việc xã hội hóa ngành
lâm nghiệp và thực hiện giải pháp gia tăng giá trị từ rừng. Cơ chế chi trả DVMTR

đã tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng,
góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người làm nghề
rừng. Tổng số tiền thu từ DVMTR từ năm 2011 đến năm 2017 là 8.005,179 tỷ
đồng. Mức thu trung bình từ 1.200 – 1.300 tỷ đồng/năm trong giai đoạn 2015 –
2016 và đạt 1.709 tỷ đồng năm 2017, khoảng 2.859 tỷ đồng năm 2018, tăng 68% so
với năm 2017.
13


Mức thu nhập bình quân hàng năm của các hộ gia đình nhận khốn bảo vệ
rừng từ chính sách chi trả DVMTR bình quân 1,8 triệu đồng/hộ/năm.
2.2.2. Tác động của Hiệp định CPTPP đến lĩnh vực lâm nghiệp
- Đẩy mạnh giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ (G&SPG)
1200

1000

800

600

400

200

0

Nhật Bản

Australia


Canada

Malaysia

Singapore New Zealand Singapore

Mexico

Số liệu thống kê cho thấy, Việt Nam là nước đứng thứ 5 trên thế giới, đứng thứ 2
châu Á và đứng đầu Đông Nam Á về xuất khẩu G&SPG. Thương mại gỗ và sản
phẩm gỗ giữa Việt Nam với các quốc gia CPTPP tăng trưởng cao. Năm 2018, tổng
giá trị xuất khẩu G&SPG của Việt Nam sang các thị trường trong khối đạt trên
1,626 tỷ USD, tăng 14,6% so với năm 2017, chiếm 18,3% tổng giá trị xuất khẩu
của cả nước.
Hình 1 : Kim ngạch xuất khẩu G&SPG của Việt Nam sang các nước
trong khối CPTPP năm 2018
Trong số các nước trong khối CPTPP, thị trường mà Việt Nam xuất khẩu
G&SPG lớn nhất là Nhật Bản với kim ngạch xuất khẩu năm 2018 đạt mức cao kỷ
lục với 1,119 tỷ USD, tăng 12,16% so với năm 2017.Tiếp theo là Australia với giá
trị đạt 174,05 triệu USD, tăng 14%. Canada xếp vị trí thứ ba với giá trị đạt 155,89
triệu USD. Đứng ở vị trí thứ tư và thứ bảy với giá trị xuất khẩu G&SPG tăng mạnh
tới 86% và 61% so với năm 2017 lần lượt là Malaysia và Mexico. Việt Nam hầu
như chưa xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Peru, Chile và Brunei.
14


Như vậy, với việc gỡ bỏ hàng rào thuế quan, Hiệp định CPTPP sẽ giúp xuất
khẩu G&SPG sang các thị trường CPTPP sẽ tăng do lên nhanh chóng trong những
năm tới đồng thời tăng khả năng cạnh tranh về giá đối với các sản phẩm cùng loại

của các nước khác. Ngồi ra, doanh nghiệp sản xuất G&SPG sẽ có nhiều cơ hội
hơn khi tiếp cận những quốc gia thành viên là những thị trường mới, đầy tiềm năng
như Peru, Chile, Brunei.
- Tiếp cận nguồn cung ứng gỗ lớn với nguồn gốc rõ ràng
Việt Nam sử dụng nguồn cung gỗ rất lớn, các doanh nghiệp vẫn phải nhập
khẩu từ nhiều quốc gia khác nhau. Kim ngạch nhập khẩu gỗ năm 2018 cũng tăng
6,27% so với năm 2017, đạt khoảng 2,3 tỷ USD. Thị trường cung ứng nguyên liệu
chủ yếu của nước ta là Trung Quốc chiếm 19%, Mỹ chiếm 14% trong tổng kim
ngạch nhập khẩu, tiếp đến là Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Chile, Brazil,
Đức...Để đảm bảo yếu tố nguồn gốc gỗ, thuận lợi cho quá trình xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ, đòi hỏi nhà nước phải siết chặt quản lý nguồn gỗ nhập khẩu. Với các
nước trong CPTPP, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ và ván nhận tạo.
Trong đó, 3/10 quốc gia Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu gỗ lớn nhất là Malaysia,
Chile, New Zealand.
Đối với Hiệp định CPTPP, để hưởng ưu đãi thuế, hàng hóa phải được coi là
có xuất xứ CPTPP khi nguyên liệu sử dụng để sản xuất hàng hóa phải có xuất xứ từ
các nước CPTPP. Khi sử dụng nguyên liệu ngoài các quốc gia CPTPP, doanh
nghiệp phải tuân theo các quy tắc rất phức tạp và giá trị nguyên liệu không vượt
quá 10% giá trị hàng hóa. Như vậy, việc nhập khẩu gỗ từ các nước trong nội khối
CTPPP sẽ đem lại cho doanh nghiệp Việt Nam các lợi ích sau: Chứng minh được
xuất xứ (C/O) dễ dàng, thuận lợi; Gỗ được sơ chế với công nghệ tiên tiến đảm bảo
gỗ có chất lượng cao; Nguồn cung ứng gỗ có sản lượng khai thác lớn và ổn định
hàng năm, đảm bảo tính hợp pháp; Tiếp cận được nhiều nguồn thơng tin về công
nghệ và thiết bị chế biến gỗ tiến tiến; Tiếp cận được trình độ quản trị doanh nghiệp
cao của các nước có nền lâm nghiệp phát triển như Canada, Nhật, Úc…
Như vậy, với những yếu tố thuận lợi từ việc tiếp cận nguồn cung ứng trong
nội khối, các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhập khẩu nguyên liệu từ các nước
CPTPP như Canada, Chi lê để hưởng ưu đãi khi xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường
trong khối.
15



2.3. So sánh sự tác động của Hiệp dịnh CPTPP và Hiệp định
VPA/FLEGT đến lĩnh vực lâm nghiệp
2.3.1. Giới thiệu chung về FLEGT-VPA:
VPA – Voluntary Partnership Agreement là Hiệp định đối tác tự nguyện. Đây
là hiệp định thương mại có tính chất ràng buộc về mặt pháp lý nhằm mục tiêu cải
thiện quản trị rừng và thúc đẩy thương mại gỗ hợp pháp từ Việt Nam sang EU. Nội
dung chính của VPA là các cam kết chi tiết về việc thiết lập và vận hành hệ thống
bảo đảm gỗ hợp pháp của Việt Nam, cho phép xác minh sản phẩm gỗ hợp pháp, từ
đó cấp phép FLEGT cho các sản phẩm này. Việt Nam sẽ xây dựng hệ thống đảm
bảo tính hợp pháp của gỗ (VNTLAS) để xác minh gỗ xuất khẩu là gỗ hợp pháp, và
EU chỉ chấp nhận gỗ hợp pháp được cấp phép FLEGT nhập khẩu vào EU khi VPA
được ký kết và hệ thống cấp phép đi vào vận hành.
FLEGT – Forest Law Enforcement, Governance and Trade nghĩa là thực thi
lâm luật, Quản trị và thương mại lâm sản. Đây là một sáng kiến do Liên minh Châu
Âu xây dựng với mục tiêu là giảm việc khai thác gỗ bất hợp pháp thông qua việc
tăng cường công tác quản lý rừng bền vững và hợp pháp, cải thiện hoạt động quản
trị rừng và xúc tiến thương mại gỗ có nguồn gốc rõ ràng, hợp pháp là giấy phép
được cấp cho các sản phẩm gỗ. Gỗ được cấp phép FLEGT sẽ đáp ứng
các tiêu chuẩn theo quy định gỗ của EU, được nhập vào thị trường Liên minh
Châu Âu mà không cần thực hiện trách nhiệm giải trình nguồn gốc gỗ.
Như vậy, với Hiệp định Đối tác tự nguyện về thực thi luật lâm nghiệp, quản
trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) yêu cầu đặt ra Việt Nam sẽ xây dựng
Hệ thống bảo đảm tỉnh hợp pháp gỗ VNTLAS, tiến hành phân loại doanh nghiệp,
kiểm soát chuỗi cung gỗ và tiến tới cấp phép FLEGT.
2.3.2. So sánh tác động của Hiệp định CPTPP và Hiệp định VPA/FLEGT
đến lĩnh vực lâm nghiệp
2.3.2.1.Tác động chung
- Hiệp định CPTPP và VPA/FLEGT được kỳ vọng sẽ tác động mạnh mẽ vào

lĩnh vực lâm nghiệp. Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra được một số những tác động
chung từ 2 Hiệp định này đến lĩnh vực lâm nghiệp như sau:
16


+ Các Hiệp định này được kỳ vọng giúp Việt Nam cải thiện thể chế về quản
lý rừng, giải quyết tình trạng khai thác và thương mại gỗ trái phép, góp phần phát
triển bền vững ngành chế biến gỗ xuất khẩu.
+ Thị trường tiêu thụ gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ không ngừng được
mở rộng ra phạm vi tồn cầu, nâng cao uy tín và hình ảnh ngành chế biến gỗ xuất
khẩu. Việt Nam sẽ tận dụng và khai thác được lợi thế về địa lý, nâng cao vị thế của
ngành lâm nghiệp và sự đóng góp của ngành lâm nghiệp trong tăng trưởng kinh tế.
+ Giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới trên tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế lâm nghiệp.
2.3.2.2. Tác động khác biệt của Hiệp định VPA/FLEGT so với Hiệp định
CPTPP đến lĩnh vực lâm nghiệp
Các tác động chính của Hiệp định VPA/FLEGT đến ngành lâm nghiệp Việt
Nam được tác giả tổng hợp lại như sau:
- Tác động tới các doanh nghiệp sản xuất, chế biến gỗ:
VPA/FLEGT có 4 nội dung mới tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp là:
quản lý gỗ nhập khẩu, phân loại doanh nghiệp, xác minh xuất khẩu gỗ và cấp phép
FLEGT trong khi Hiệp đinh CPTPP áp dụng ưu đãi thuế quan cho hàng hóa của
doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu từ các nước trong khối hoặc nguyên liệu từ
ngồi khối khơng q 10%.
Theo đó, VPA/FLEGT u cầu Việt Nam phân loại doanh nghiệp, đây là yếu
tố ảnh hướng lớn đến doanh nghiệp. Theo Hiệp định này, doanh nghiệp sẽ được
chia thành 2 nhóm:
+ Nhóm 1: Các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật. Nhóm này được chủ động
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sẽ được cấp ngay giấy phép FLEGT nếu đủ
điều kiện.

+ Nhóm 2: Các doanh nghiệp khơng tn thủ pháp luật. Nhóm này sẽ phải
thực hiện việc kiểm tra thực tế 20% các lô hàng trước khi xuất khẩu và cấp giấy
phép FLEGT.
Thực thi VPA/FLEGT cũng sẽ là thách thức lớn với các cơ sở chế biến gỗ
quy mô nhỏ ở các làng nghề gỗ sẽ khó khăn đối với việc lưu giữ hồ sơ trong xuất
và xác minh nguồn gốc gỗ hợp pháp.
17


Ngồi ra, có rất nhiều đối tác trong q trình sản xuất gỗ tại Việt Nam, đó là
hộ trồng rừng, thương lái mua bán gỗ, vận tải gỗ… Tuy nhiên, những hiểu biết của
họ về VPA/FLEGT rất hạn chế. Điều này sẽ gây khó khăn trong q trình truy xuất
nguồn gốc của gỗ.
Tóm lại, các doanh nghiệp phải đầu tư nguồn lực vào cải tiến sản xuất, quan
tâm hơn nữa đến điều kiện lao động, điều kiện phòng cháy chữa cháy tại các xưởng
gỗ. Các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cho cán bộ để đáp ứng tốt các quy
định pháp lý liên quan đến hiệp định này
- Thị trường xuất khẩu gỗ hướng tới:
Mục đích quan trọng và cốt lõi của các Hiệp định này đều nhằm thúc đẩy
việc phát triển ngành lâm nghiệp, đặc biệt là mở rộng thị trường và gia tăng giá trị
xuất khẩu cho ngành. Tuy nhiên, điểm khác biệt là Hiệp định CPTPP được kỳ vọng
sẽ mở rộng thị trường ra 10 nước cịn lại trong khối cịn đối với Hiệp định
VPA/FLEGT thì hướng đến thị trường EU – thị trường rất quan trọng với gỗ Việt,
tiêu thụ gỗ lớn thứ 4 của Việt Nam với 28 quốc gia thành viên của liên minh. Hiện
tại có hơn 400 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ sang thị trường này và đem lại giá trị
xuất khẩu khoảng 700 triệu USD.
Qua việc ký kết Hiệp định VPA/FLEGT sẽ giúp các sản phẩm gỗ xuất khẩu
(XK) trực tiếp vào 28 nước châu Âu, mà không cần phải qua một nước trung gian
nào. Thị trường sẽ rộng mở hơn, giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ sang EU sẽ tăng
gấp đôi và đạt mức trên 1 tỷ USD trong vài năm tới.

- Nâng cao vị thế của ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam
Hiệp định CPTPP ảnh hưởng tơí nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế Việt Nam
trong khi Hiệp định VPA/FLEGT chỉ liên quan trực tiếp đến lĩnh vực lâm nghiệp.
Với những quy định rõ ràng về nguồn gốc gỗ hợp pháp, Hiệp định VPA/FLEGT sẽ
giúp Việt Nam cải thiện thể chế về quản lý rừng, giải quyết tình trạng khai thác và
thương mại gỗ trái phép, góp phần thúc đẩy thị trường xuất khẩu mặt hàng gỗ và
sản phẩm gỗ của Việt Nam, nâng cao uy tín và hình ảnh ngành chế biến gỗ xuất
khẩu của Việt Nam trên toàn cầu.
2.4. Đánh giá cơ hội và thách thức và giải pháp cho ngành lâm nghiệp
khi Việt Nam tham gia CPTPP
2.4.1. Cơ hội
18


- Tương quan lợi thế chi phí sản xuất đầu vào thấp: Việt Nam là một nước
nhiệt đới, diện tích rừng lớn với trên 14 triệu ha, nguồn nguyên liệu dồi dào, năng
suất cao, nguồn nhân lực rẻ hơn các thành viên khác,… Đây là những lợi thế về sản
xuất giúp các sản phẩm do Việt Nam sản xuất có giá thành thấp hơn và có khả năng
cạnh tranh cao.
- Mở rộng thị trường tiêu thụ: Thị trường xuất khẩu được mở rộng giúp
ngành lâm nghiệp nói riêng và các ngành trong nền kinh tế nói chung tăng cường
tiếp cận các thị trường lớn nhất thế giới. CPTPP là một trong những hiệp định
thương mại lớn nhất thế giới, bao gồm một thị trường gần 500 triệu người tiêu
dùng, chiếm khoảng 13,5% GDP toàn cầu.
- Thúc đẩy đầu tư vốn trực tiếp vào lĩnh vực lâm nghiệp: Việc ký kết Hiệp
định CPTPP sẽ giúp dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ được mở ra mạnh hơn.
Trước đây, các nguồn vốn đến với ngành gỗ chủ yếu đến từ Trung Quốc nhưng nay
Nhật Bản đã bắt đầu tìm đến Việt Nam để đầu tư.
- Gỡ bỏ hàng rào thuế quan: Các quốc gia trong CPTPP cam kết loại bỏ thế
quan đối với gỗ và sản phẩm từ gỗ của Việt Nam. Qua đó, CPTPP sẽ tạo cơ hội để

các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và các sản phẩm chế biến từ gỗ đẩy mạnh xuất
khẩu.
Chẳng hạn, tại thị trường Canada, các sản phẩm gỗ như: Ván sàn, gỗ thanh có
mức thuế nhập khẩu 3,5%. Ván dán, ván ghép, khung tranh, khung cửa và nhất là
đồ nội thất được có mức thuế 6%-9,5%. Hàng thủ cơng mỹ nghệ có mức thuế nhập
khẩu 7%. Khi CPTPP có hiệu lực thì sản phẩm này của Việt Nam đều có mức thuế
0% khi nhập khẩu vào Canada.
Tại thị trường Mexico có mức thuế nhập khẩu khá cao từ 10-15%, với
CPTPP thì các sản phẩm ván dán, ván thanh, gỗ sàn, đồ nội thất và ngoại thất của
Việt Nam khi nhập vào nước này sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu với lộ trình 10
năm.
Trong số 10 nước còn lại trong CPTPP, ngành gỗ Việt Nam đã có quan hệ lâu
đời và có thị trường mạnh như Nhật Bản, New Zealand, Australia, Singapore…
Những năm gần đây, ngành gỗ Việt Nam cũng đã có quan hệ tốt với Canada, Peru,
Chile… Như vậy, cùng với việc gỡ bỏ hàng rào thuế quan thì kim ngạch xuất khẩu
gỗ vào các nước này được kỳ vọng sẽ có sự gia tăng mạnh mẽ.
19


2.4.2.Thách thức
- Sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài: Việc hội nhập cũng
đồng nghĩa với việc tăng lên của sự dịch chuyển sản xuất của các nước khác vào
Việt Nam, khi đó doanh nghiệp trong nước phải cố gắng nâng cao khả năng cạnh
tranh. Nguồn lao động sẽ là vấn đề lớn, không chỉ riêng ngành gỗ mà các ngành
khác như dệt may, da giày,... cũng cần lao động số lượng lớn, dẫn đến chi phí lương
sẽ tăng và lao động có sự xáo trộn. Như vậy nếu doanh nghiệp không tận dụng
được các cơ hội về xuất khẩu thì sẽ phải chịu tác động tiêu cực đối với sản xuất
trong nước.
Hiệp định CPTPP cũng sẽ tạo động lực và sức ép cho doanh nghiệp trong
nước đầu tư sản xuất trong nước theo hướng giảm xuất khẩu nguyên liệu và sơ chế,

đầu tư phát triển chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, tăng cường xuất khẩu sản phẩm
chế biến có giá trị gia tăng cao. Nơng, lâm sản Việt Nam có cơ hội tham gia vào
những chuỗi cung ứng tồn cầu.
Đặc biệt, khi các dịng thuế nhập khẩu sẽ bị cắt giảm, đồ gỗ của Việt Nam sẽ
phải cạnh tranh với đồ gỗ của các quốc gia CPTPP trên cả thị trường nội địa và
xuất khẩu. Số liệu về giá trị nhập khẩu G&SPG của Việt Nam từ các nước trong
khối CPTPP năm 2018 được thể hiện qua biểu đồ sau:

20


Hình 2: Giá trị nhập khẩu G&SPG của Việt Nam từ các nước trong khối
CPTPP năm 2018
Như vậy các doanh nghiệp phải cải cách quản trị doanh nghiệp để đáp ứng
các quy định pháp lý mới từ Hiệp định. Doanh nghiệp sẽ phải chi tiêu nhiều hơn
vào đầu tư đổi mới cơng nghệ và quy trình sản xuất để cạnh tranh với sản phẩm từ
các nước thành viên CPTPP.
Ngoài ra, điểm khác biệt so với những quốc gia khác là Việt Nam tự phát và
bắt chước, khơng có tiến trình quy hoạch trước thành các khu công nghiệp theo thế
mạnh của từng địa phương. Đây là hạn chế khá lớn làm giảm sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngồi.
- Vấn đề sở hữu trí tuệ: Hiện nay, nhận thức của các doanh nghiệp và của cả
các cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ về ngành gỗ rất hạn chế. Sở hữu trí
tuệ có thể nói là thách thức lớn nhất với ngành gỗ Việt trong CPTPP. Hiện nay pháp
luật của Việt Nam chỉ xử phạt hành chính các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ, chưa
có những quy định xử lý bằng hình sự. Tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng sao
chép, hàng lậu… đang được bày bán công khai ở mọi nơi. Chủ yếu các sản phẩm
gỗ xuất khẩu đều theo mẫu nước ngồi đặt hàng, rất ít các sản phẩm được thiết kế
trong nước.
2.4.3.Giải pháp

- Giải pháp đối với các doanh nghiệp:
+ Nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp: Để nâng cao hiệu quả hoạt
động thì doanh nghiệp Việt Nam phải tìm mọi cách đầu tư nâng cao trình độ quản
trị doanh nghiệp. Đó là quy trình kỹ thuật, cách quản lý, các tiếp cận, quảng bá,
marketing…
+ Nâng cao nhận thức và sự tuân thủ quy định của doanh nghiệp: Muốn
tiếp cận và đẩy mạnh việc xuất khẩu lâm sản vào các quốc gia trong khối CPTPP
thì các doanh nghiệp xuất khẩu phải tuân thủ quy định của các quốc gia này. Chẳng
hạn, Úc có văn bản cẩm nang gỗ hợp pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang xây
dựng, các quốc gia đều hướng đến bảo vệ môi trường sử dụng gỗ hợp pháp.
- Giải pháp đối với ngành lâm nghiệp:

21


Ngành lâm nghiệp sẽ phải đẩy nhanh quá tái cơ cấu ngành: Quá trình tái
cơ cấu này cần thực hiện theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
vững, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Để thực hiện được vấn
đề này, ngành nên đưa ra các giải pháp để tái cơ cấu ngành, đẩy mạnh phát triển
kinh tế lâm nghiệp theo chuỗi giá trị.
- Giải pháp đối với Chính phủ:
+ Chính phủ cần xây dựng quy định pháp lý chặt chẽ về sở hữu trí tuệ:
Điều này để siết chặt tình trạng vi phạm thiết kế, các doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn
trong việc đầu tư vào thiết kế, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đồng thời, các
doanh nghiệp cần tạo dựng thương hiệu riêng cho mình, cần phải có sở hữu trí tuệ,
phải đầu tư nhiều hơn vào nhân lực và công tác đào tạo nguồn nhân lực.
+ Chính phủ cần siết chặt công tác quản lý nguồn gỗ nhập khẩu: Để
hưởng các ưu đãi trong khối CPTPP thì hàng hóa sản xuất phải có nguyên liệu có
xuất xứ từ các nước CPTPP. Nếu sử dụng nguyên liệu ngoài các quốc gia CPTPP,
doanh nghiệp phải tuân theo các quy tắc rất phức tạp và giá trị nguyên liệu không

vượt quá 10% giá trị hàng hóa. Trong khi đó, do Việt Nam sử dụng nguồn cung gỗ
rất lớn và vẫn phải nhập khẩu từ nhiều quốc gia khác nhau (7/10 quốc gia mà Việt
Nam nhập khẩu nguyên liệu lớn nhất không nằm trong CPTPP). Chính vì vậy,
Chính phủ cần đưa ra các quy định nhằm siết chặt quản lý nguồn gỗ nhập khẩu để
đảm bảo nguồn gốc của gỗ được rõ ràng và giá trị nguyên liệu thỏa mãn các yêu
cầu hưởng ưu đãi thuế trong khối CPTPP.

22


KẾT LUẬN
1.Kết luận
Việc tham gia đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) nói
chung và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
nói riêng là những chủ trương đúng đắn, mang lại lợi ích to lớn và là tất yếu trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hiệp định CPTPP như là một
chiến lược dài hạn nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá
trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Đồng thời, giúp
doanh nghiệp Việt Nam cọ xát hơn nữa với thế giới bên ngồi, có điều kiện để phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh và khẳng định vị thế mới của mình trên trường
quốc tế.
Đối với lĩnh vực lâm nghiệp, CPTPP với những cam kết rất "mở" sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho xuất khẩu cho các nhóm hàng lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt là gỗ
và các sản phẩm gỗ. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mang lại thì Hiệp định
CPTPP cũng đặt ra khơng ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và đối với các
doanh nghiệp trong ngành lâm nghiệp nói riêng. Để tận dụng cơ hội và khắc phục
những khó khăn, thách thức, các doanh nghiệp trong lĩnh vực lâm nghiệp cần phải
có sự đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm, có kế hoạch cải thiện năng lực
sản xuất, xây dựng các thương hiệu và tạo được giá trị riêng. Đồng thời, doanh
nghiệp phải chủ động cải thiện năng lực quản lý, chuyển đổi phương thức sản xuất

để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, đề tài đã hệ thống hóa được những vấn
đề cơ bản về Hiệp định CPTPP và sự tác động của Hiệp định CPTPP đến lĩnh vực
lâm nghiệp. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra được những cơ hội, thách thức và đề
xuất một số giải pháp cho ngành lâm nghiệp Việt Nam khi tham gia khối CPTPP.
2.Tồn tại
- Tác giả mới dừng lại ở việc đánh giá sự tác động của Hiệp định CPTPP đến
lĩnh vực lâm nghiệp mà chưa phân tích tương quan chi tiết sự tác động của Hiệp
định này đến giá trị xuất nhập khẩu lâm sản của từng quốc gia trong khối với Việt
Nam
23


3.Kiến nghị
-Nội dung của chuyên đề có thể sử dụng trong nội dung thảo luận tại các môn
học cho sinh viên ngành kế toán, quản trị, kinh tế,…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyên đề: Hàng xuất khẩu chủ lực trong CPTPP gặp nhiều thách thức
(2019) Thời báo tài chính Việt Nam (thoibaotaichinhvietnam.vn)
2. Chuyên đề: Ngành công nghiệp chế biến gỗ: Thách thức nguyên liệu trong
CPTPP và VPA/FLEG (2019) Trung tâm WTO (.trungtamwto.vn)
3. Chuyên đề: Hiệp định CPTTP: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
(2018), Tạp chí Tài chính (tapchitaichinh.vn)
4. Chuyên đề: CPTPP và tác động của nó đến xuất nhập khẩu (2018), Tạp chí
Cộng sản
5. Chuyên đề: Đánh giá tác động của Hiệp định CPTPP đến một số ngành kinh
tế của Việt Nam (2018), Ngân hàng Bưu điện Liên Việt.
6. Hiệp định Ðối tác Toàn diện và Tiến bộ Xun Thái Bình Dương (CPTPP)
(2018), Trang điện tử Bộ Cơng Thương - moit.gov.vn


24



×