Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

SKKN: Một số biện pháp dạy học cho trẻ khuyết tật học hòa nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 15 trang )

I.

MỞ ĐẦU

1. Vai trò của biện pháp đối với học sinh
Trong giáo dục, phương pháp dạy học đóng vai trị hết sức quan trọng.
Nếu phương pháp dạy học mà không tác động tích cực đến học sinh, khơng làm
cho học sinh có sự thay đổi hay tiến bộ, khơng phát huy hết khả năng nhận thức
của trẻ thì khơng thể xem đó là phương pháp được. Ngược lại, một phương pháp
dạy học tích cực, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ, phù hợp với đối
tượng từng dạng tật thì sẽ giúp trẻ học tập tiến bộ, nhanh hịa nhập với cộng
đồng, đem lại kết quả như chúng ta mong muốn. Trong q trình dạy học có rất
nhiều phương pháp để giáo viên truyền tải đến học sinh khuyết tật một cách tốt
nhất, nhưng khơng có phương pháp nào là phương pháp tối ưu, hay nhất mà chi
có các phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh thì khi đó mới gọi là
phương pháp hay nhất.
Đối với trẻ em học ở bậc Tiểu học nói chung và học sinh khuyết tật học
hịa nhập nói riêng thì phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng là phương
pháp theo cá nhân tơi đó là phương pháp có vị trí, vai trị cực kỳ quan trọng, vì
đó là con đường đi đến thành công như chúng ta mong muốn.
2. Thực trạng tại đơn vị
Năm học 2018 – 2019, tôi được phân cơng dạy lớp 11, lớp có sĩ số là 47
học sinh/23 nữ. Trong đó có một học sinh khuyết tật học hòa nhập. Em bị rối
loạn hành vi, chậm phát triển trí tuệ. Qua q trình cơng tác, tơi nhận thấy có
một số thuận lợi và khó khăn như sau:
2.1.
-

Thuận lợi

Trong q trình giáo dục trẻ tơi ln được Ban Giám Hiệu, Phòng GD



quận quan tâm sâu sát, động viên, kiểm tra, chinh sửa kế hoạch giảng dạy kịp
thời để giúp tơi có thể hồn thành tốt hồ sơ sổ sách, kế hoạch dạy trẻ phù hợp.
-

Nhà trường trang bị khá đầy đủ cơ sở vật chất khang trang tiện lợi cho

việc dạy và học. Xây dựng cơ sở hạ tầng thống mát, rộng rãi tạo mơi trường
sạch đẹp cho học sinh vui chơi, học tập.
1


-

Giáo viên chủ nhiệm có khả năng tổ chức và điều khiển quá trình giáo dục

phù hợp với lứa tuổi và đặc điểm tâm sinh lí học sinh với các hoạt động vừa
mang tính nghệ thuật vừa có tính sáng tạo, khéo léo với từng học sinh.
-

Được sự quan tâm, hợp tác tốt từ phía cha mẹ học sinh, đó cũng là điều

kiện thuận lợi lớn lao để giúp tôi làm tốt cơng tác giảng dạy của mình.
2.2.

Khó khăn

-

Giáo viên chưa được bồi dưỡng chuyên môn về việc dạy trẻ khuyết tật.


-

Tài liệu cho giáo viên tham khảo để dạy trẻ khuyết tật còn hạn chế, chưa

phổ biến.
-

Sĩ số lớp học đông nên sự kèm cặp dành riêng cho trẻ còn hạn chế.

3. Lý do chọn biện pháp
Ở bậc Tiểu học, đây là bậc các em mới bắt đầu được học chữ cũng như
học làm người. Nếu giáo viên chủ nhiệm chi dạy các em học sinh có tâm sinh ly
bình thường thì cũng thấy hết sức vất vả và khó khăn rất nhiều. Nếu ở trong lớp
đó cịn có thêm học sinh khuyết tật học hịa nhập nữa thì việc dạy học của giáo
viên vô cùng gian nan, vất vả mới có thể giúp trẻ khuyết tật học hịa nhập cùng
các bạn một cách tốt nhất. Vậy phải làm gì để giúp trẻ khuyết tật học hịa nhập
với các bạn một cách tốt nhất? Giáo viên chủ nhiệm phải làm gì để đảm bảo
được tất cả các học sinh trong lớp học tập, tiếp thu bài một cách tích cực, chủ
động trong mọi hoạt động mà vẫn đảm bảo được việc dạy cho trẻ khuyết tật?
Giáo viên chủ nhiệm phải làm như thế nào để truyền đạt được kiến thức, nội
dung, mục tiêu bài học đến từng em một cách đầy đủ kể cả em khuyết tật?
Giáo viên chủ nhiệm phải làm gì với một đứa trẻ khuyết tật học hịa nhập
trong khi mình chưa có trang bị kiến thức về lĩnh vực này ở trong trường Sư
phạm cũng như chưa được bồi dưỡng trong đơn vị công tác?
Giáo viên chủ nhiệm phải làm gì để Phụ huynh yên tâm gửi gắm con họ
vào học lớp hòa nhập? Trong cơng tác giảng dạy theo tơi có lẽ cịn rất nhiều câu
hỏi khác rất khó khăn cho giáo viên dạy trẻ khuyết tật học hịa nhập như tơi đã
từng làm.
2



Căn cứ vào cơng ước của Liên hợp quốc thì trẻ khuyết tật cũng có quyền
con người như bao đứa trẻ bình thường khác, nên chúng ta phải quan tâm, bảo
vệ và bảo đảm cho người khuyết tật được hưởng thụ đầy đủ và công bằng tất cả
các quyền con người và quyền tự do, đồng thời phải đề cao nhân phẩm của
người khuyết tật. Muốn làm được điều này mọi cơng dân đều phải có nhận thức
đúng đắn về trẻ khuyết tật. Đặc biệt là người giáo viên khi trực tiếp dạy trẻ
khuyết tật phải hết lòng giúp đỡ trẻ để trẻ hòa nhập với cộng đồng. Trên thực tế,
vẫn cịn những suy nghĩ là mình khơng may mắn khi có trẻ khuyết tật học hịa
nhập trong lớp mình. Vì họ cho rằng dạy trẻ khuyết tật rất khó khăn, vất vả và
rất khó dạy.
Đó chính là lí do mà tôi chọn biện pháp “Một số biện pháp dạy học cho
trẻ khút tật học hịa nhập”. Theo tơi, đây là một đề tài mới mẻ và rất cần
thiết, có y nghĩa rất lớn đối với những giáo viên đang và sẽ làm công tác giáo
dục trẻ khuyết tật học hòa nhập.
II.

NỘI DUNG BIỆN PHÁP

Như chúng ta đã biết, cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan
hệ xã hội dưới tác động chủ đạo của giáo dục sẽ hình thành một cấu trúc nhân
cách tương đối ổn định. Trong cuộc sống, nhân cách tiếp tục tự biến đổi và hồn
thiện dần thơng qua việc cá nhân tự y thức, tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn
thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của cuộc sống, của xã hội. Thậm chí ngay cả khi nhân cách, trong một
thời điểm nào đó, có thể bị phân li hoặc suy thối, cá nhân vẫn có khả năng tự
điều chinh, tự rèn luyện nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Có thể nối có ít nhất ba góc độ để xem xét chuẩn mực hành vi:
- Chuẩn mực xét về mặt thống kê: Đại đa số các thành viên trong cộng

đồng có hành vi tương tự như nhau trong các hồn cảnh xác định nào đó thì
hành vi đó lệch chuẩn.
- Chuẩn mực hướng dẫn hay quy ước do cộng đồng hay do xã hội đặt ra.
Loại chuẩn mực này được đưa ra trên cơ sở những yêu cầu chung của cộng đồng

3


đối với từng thành viên (pháp luật, đạo đức, truyền thống…) những hành vi nào
khác với hướng dẫn quy định thì được coi là hành vi lệch chuẩn.
- Chuẩn mực chức năng: Loại chuẩn mực này được xác định ở mỗi cá nhân.
Mỗi cá nhân khi hành động đều đặt ra mục đích cho hành động của mình. Cịn
hành vi khơng phù hợp với mục đích đặt ra là hành vi lệch chuẩn.
1. Điều tra thu thập dữ liệu, lập hồ sơ theo dõi – phân loại các sai
lệch hành vi
Đây là việc làm rất quan trọng, là cơ sở để giáo viên có các thơng tin cần
thiết, tránh bỏ sót và xây dựng các biện pháp mang tính khả thi, phù hợp cho
từng đối tượng. Ngay từ đầu năm học, qua trao đổi với phụ huynh học sinh, qua
sự quan sát trực tiếp ở các giờ dạy hàng ngày và bằng các biện pháp nghiệp vụ
của giáo viên chủ nhiệm tôi tiến hành lập hồ sơ cá nhân, sau đó phân loại đối
tượng, xác định ra các mức độ sai lệch hành vi… từ đó tìm hiểu ngun nhân,
xậy dựng các biện pháp giáo dục tương ứng.
Hồ sơ theo dõi cần cập nhật đầy đủ và khách quan, tránh cái nhìn phiến
diện, thiếu thiện cảm của một vài cá nhân có sự đánh giá chưa khách quan về
học sinh bị rối loạn hành vi. Coi trọng các yếu tố chủ quan, khách quan dẫn đến
bị rối loạn hành vi của học sinh, quá trình và diễn biến của các hành vi sai lệch,
những biện pháp sư phạm đã áp dụng và hiệu quả của các biện pháp đó đã được
phụ huynh áp dụng. Nhằm điều chinh mức độ, cường độ, phạm vi ảnh hưởng
cho phù hợp với từng đối tượng.
2. Xếp chỗ ngồi cho trẻ

Bố trí bàn ghế, chỗ ngồi cho trẻ khuyết tật là khâu đặc biệt quan trọng.
Cần chú y đến việc trẻ nhìn được khẩu hình miệng của giáo viên để hỗ trợ việc
nghe hiểu hanh hơn, chỗ ngồi tốt nhất mà tôi đã chọn cho bé là bàn thứ 2 dãy
giữa. Tôi xếp cho bé ngồi cạnh bạn lớp trưởng, vì bạn này có khả năng giao tiếp
tốt, hòa đồng và biết giúp đỡ bạn. Phát triển khả năng giao tiếp phải phù hợp khả
năng và giao tiếp của trẻ và không thể khẳng định phương pháp tiếp cận giao
tiếp là tốt nhất, càng không có phương pháp vạn năng đối với trẻ khuyết tật. Cần
sử dụng kết hợp chúng trong quá trình giáo dục một cách linh hoạt nhưng đảm
4


bảo nguyên tắc hợp chúng trong quá trình giáo dục một cách linh hoạt, hướng
tới sự phát triển tối đa khả năng của trẻ.
Cần dạy trẻ mọi lúc mọi nơi, tận dụng tối đa thời gian gần gũi trẻ. Tôi
thường động viên các bạn trong lớp, chủ động trò chuyện, làm quen và chơi với
bé để bé nhanh hòa nhập hơn. Nhằm hỗ trợ thêm công tác giáo dục của mình.
3. Biện pháp “Sai đâu sửa đấy”
Như trên đã nêu, ta có thể căn cứ vào mức độ nhận thức và chấp nhận
chuẩn mực đạo đức mà chia thành hai loại sai lệch hành vi để từ đó có các biện
pháp giáo dục phù hợp:
3.1. Sai lệch thụ động: Những sai lệch hành vi do cá nhân không nhận
thức đầy đủ hoặc nhận thức sai các chuẩn mực đạo đức xã hội. Hiểu không rõ
nhiệm vụ được giao, nhiều khi trẻ nghe nhưng khơng hiểu hết y nghĩa những lời
nói của giáo viên dặn dị hoặc trẻ có đọc nhưng cũng không hiểu hết y nghĩa của
từ của câu hay trong lúc thực hiện nhiệm vụ, trẻ thường thừa và thiếu những
thao tác cần thiết vì trẻ thụ động vụng về.
Cách khắc phục: Với những trẻ có hành vi sai lệch do không hiểu biết
đầy đủ về chuẩn mực, cần cung cấp kiến thức về chuẩn mực đạo đức cho trẻ.
Đối với những trẻ do hiểu sai chuẩn mực hoặc chưa chấp nhận chuẩn mực, từ đó
sẽ điều chinh hành vi cho phù hợp. Đối với trẻ bước đầu có thể hiện bệnh lí cần

có thời gian và sự tiếp xúc nhiều để họ nhận thấy sự khác thường trong hành vi
của mình, từ đó trẻ có hướng khắc phục. Cụ thể:
* Tạo dựng mối quan hệ tốt với trẻ: học sinh – giáo viên; học sinh – học
sinh… nhất là đối tượng học sinh có biểu hiện rối loạn hành vi do tâm lí, giáo
viên cần tạo mối quan hệ tốt với trẻ, cần thật lòng yêu thương, quan tâm chăm
sóc trẻ, thường xuyên gần gũi tâm sự với trẻ, để trẻ không cảm thấy bị cô đơn, bị
bỏ rơi và đem lại sự an toàn, ấm cúng trong trẻ.
* Kết hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hợp lí. Chú y
cho trẻ tăng cường tham gia các hoạt động, trò chơi hấp dẫn.
5


Cần có các điều chinh hợp lí về phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học hợp lí. Điều chinh về nội dung học cho trẻ, thời gian và chuẩn kiến thức kĩ
năng cho trẻ. Chú y cho trẻ được tham gia vào nhiều hoạt động, trò chơi hấp
dẫn, làm cho trẻ thấy được trách nhiệm của mình là thành viên của nhóm và có
quyền tham gia, tạo cho trẻ có cơ hội trợ giúp cho nhau, có cơ hội cho trẻ khám
phá điều mới.
* Dạy cho trẻ hiểu biết về nội quy trường lớp.
Cần giải thích và minh họa cụ thể, thường xuyên về những điều khoản của
nội quy trường, lớp. Chẳng hạn:
+ Đi học đúng giờ: vào học, ra về lúc mấy giờ.
+ Nghi học phải xin phép.
+ Giữ gìn và tham gia vệ sinh trường lớp.
+ Khơng nói chuyện.
+ Nói phải xin phép.
+ Tích cực tham gia học tập.
+ Kính thầy mến bạn.
+ Giúp đỡ lẫn nhau.
Khi học sinh đạt được các yêu cầu và mức độ trên, giáo viên tăng cường

thêm mức độ như thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy; thực hiện 5 nhiệm vụ của người
học sinh tiểu học…
3.2. Sai lệch chủ động: Những sai lệch hành vi do trẻ cố y làm khác đi so
với người khác và so với chuẩn mực đạo đức xã hội. Ở đây, trẻ có thể nhận thức
được yêu cầu của chuẩn mực đạo đức nhưng vẫn cố làm theo y mình, mặc dù
biết là khơng phù hợp. Ngun nhân là do trẻ khơng kìm chế nổi nhu cầu của
mình, do y thức tn theo cịn yếu.
6


Cách khắc phục:
Đối với loại sai lệch hành vi chủ động, cần có sự giáo dục thường xuyên
của tập thể, tích cực ngăn ngừa sai lệch hành vi bằng cách tạo ra mơi trường tập
thể đồn kết, trong sạch, khơng có cơ hội cho các hành vi sai lệch xuất hiện. Bởi
tập thể có vai trị rất lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Nó giúp
con người tìm thấy chỗ đứng của mình và thỏa mãn nhu cầu hoạt động, giao tiếp
vốn là những nhu cầu cơ bản và xuất hiện rất sớm ở con người. Vì vậy, hoạt
động tập thể là điều kiện đồng thời là phương thức thể hiện và hình thành những
phẩm chất trong nhân cách, có tác động đến nhân cách qua hoạt động cùng
nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống tập thể, bầu khơng khí tâm lí tập thể.
Nhờ vậy, nhân cách của mỗi thành viên liên tục được điều chinh.
4. Dạy học dựa vào điểm mạnh của học sinh
Không ai biết tất cả, song khơng ai cái gì cũng khơng biết. Đây là quan
điểm giáo dục không mới. Lấy điểm mạnh của học sinh để khai thác, để động
viên khuyến khích, để học sinh thấy rằng mình làm được nhiều việc (có thể
người khác làm khơng được). Đó là dựa vào khả năng vượt trội của trẻ để tác
động sâu xa đến mục đích khác mà giáo viên cần hướng tới cho học sinh. Chẳng
hạn: học sinh học yếu môn Tốn và Tiếng việt nhưng em đó lại vẽ rất đẹp, có
khả năng nhìn lướt qua là vẽ lại giống hệt khiến người khác phải thán phục về
tài năng. Nếu giáo viên biết động viên, khuyến khích đúng lúc, biết kết hợp

đúng lúc, bài bản khéo léo lồng ghép nội dung Toán hay Tiếng việt cần dạy cho
học sinh, học sinh sẽ dễ nhớ, lâu quên).
5. Dạy học theo hướng cá thể hóa
Trẻ em ở tuổi Tiểu học được ví như “Búp trên cành” cần được nâng niu,
săn sóc và dạy dỗ một cách đặc biệt.
Dạy trẻ khuyết tật lĩnh hội kiến thức theo hướng “Cá thể hóa” là xu thế
tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Do đó, phải gần gũi để khám phá và
hiểu trẻ, y kiến của trẻ phải được tôn trọng để trẻ luôn cảm thấy khi đến trường
cơ giáo như mẹ hiền. Có thế, chúng ta mới tạo được niềm tin với trẻ, khơi gợi
7


được sự cởi mở sẵn sàng chia sẻ tâm sự của trẻ. Đó chính là động lực giúp trẻ
thích học và học tốt hơn.
Khi chia nhóm để dạy cá thể hóa, tơi ln lưu y xếp trẻ vào nhóm có khả
năng tập trung, học tốt và giao tiếp tốt, nhằm giúp trẻ hòa nhập và được sự giúp
đỡ thêm từ bạn bè một cách tốt nhất. Tôi thường cho trẻ ngồi gần lớp phó học
tập, bé này có khả năng tập trung tốt trong học tập, giao tiếp tốt, chia sẻ và giúp
bạn tốt, có thể hướng dẫn cho bạn làm việc. Nhờ vậy, sau một thời gian tôi thấy
trẻ tiến bộ rất nhanh. Từ chỗ nhút nhát, ít nói đến mạnh dạn tự tin hay phát biểu.
6. Dạy kĩ năng sống cho trẻ
Trong thực tế cuộc sống, có rất nhiều cử chi, hành vi tốt được trẻ bình
thường tự học được, nhưng đối với trẻ bị rối loạn hành vi thì có khi những cử
chi, hành vi đơn giản cũng phải dạy trẻ thì trẻ mới biết. Vì vậy, cần dạy cho trẻ
một số kĩ năng xã hội, lối sống cần thiết, thiết thực và đơn giản hàng ngày để trẻ
hạn chế những hành vi bất thường như: y thức tự chăm sóc bản thân và tự chăm
sóc bản thân; trẻ có thái độ lịch sự chào hỏi khi gặp gỡ; biết cảm ơn khi được
người khác giúp đỡ và y thức giúp đỡ người khác; có y thức trong công việc và
với mọi người; các kĩ năng giao tiếp – trò chuyện. Đặc biệt trẻ biết cách nhận
xét để lựa chọn điều tốt, điều nên làm.

Trên cơ sở chủ đề học, dạy chữ, dạy kiến thức cho trẻ, thì việc xây dựng
một kế hoạch dạy kỹ năng sống cho trẻ là một vấn đề hết sức quan trọng. Kĩ
năng sống của trẻ khuyết tật thường rất yếu vì vậy, tơi ln theo sát trẻ để tìm ra
những biện pháp phù hợp với nhận thức của trẻ, để trẻ nhanh hịa nhập với cộng
đồng. Tơi thường xây dựng các chủ đề về bản thân, gia đình, nhà trường, nơi
cơng cộng, tùy thuộc vào khả năng tiếp thu của trẻ, cũng từ đó có thể nâng cao
chủ đề phù hợp với độ tuổi của trẻ như chủ đề về phương tiện giao thông, động
vật, thực vật, các đồ dùng trong nhà…
Trong q trình thực hiện, tơi ln đặc biệt chú y đến sự kích thích trẻ,
tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội được giao tiếp, được vận động và được làm việc
như những trẻ bình thường khác có như thế thì trẻ mới nhanh hịa nhập với cộng
8


đồng. Giờ ra chơi tơi ln tổ chức các trị chơi cho bé tham gia với bạn, không
để bé chơi một mình. Các trị chơi như ơ ăn quan, xếp gỗ, lắp ráp,…, bé rất thích
chơi các trị chơi này nên thường chủ động rủ bạn đi chơi không cần sự kèm cặp
của cô như trước nữa. Tôi rất mừng vì bé đã hịa nhập được với các bạn.
7. Động viên, khen thưởng kịp thời
Trẻ khuyết tật thường phụ thuộc vào người bình thường trong giáo dục
và tiếp thu thơng tin. Vì vậy, dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi, gần gũi trẻ, khuyết khích,
khen thưởng thường xuyên. Khen thưởng đúng lúc, đúng chỗ để phát huy hết
khả năng chú y của trẻ. Đây là việc làm cần thiết, thường xuyên nên làm khi trẻ
có hành vi tốt, để khích lệ cho học sinh nỗ lực vươn lên. Khen thưởng bằng
nhiều hình thức. Có thể là đồ chơi mà trẻ thích đồ dùng học tập, phiếu khen,
bánh kẹo hay những lời khen tặng, tràng vỗ tay trước lớp cũng có thể kích thích
được trẻ, có thể bằng lời, bằng hành động cử chi (hôn học sinh, nựng má, ôm ấp
xoa đầu, gật đầu tán thưởng…) Trong q trình dạy học tơi đã sử dụng tất cả các
hình thức khen thưởng đó cho cả lớp nói chung học sinh rất thích thú. Sau một
thời gian tôi thấy trẻ tiến bộ rất nhanh. Từ chỗ nhút nhát, ít nói đến mạnh dạn tự

tin hay phát biểu.
8. Phối hợp với phụ huynh
Những hoạt động của trẻ ở trường bố mẹ phải được biết, mỗi biểu hiện,
mỗi thay đổi của trẻ ở nhà, giáo viên cũng phải biết, nếu ở trường trẻ có tiến bộ
phải chi cho ba mẹ thấy được, nhằm tạo niềm tin từ phụ huynh để họ hỗ trợ
thêm.
Trường học không phải chi dạy chữ mà còn dạy người, bồi dưỡng kinh
nghiệm sống song song với dạy chữ. Nếu nhà trường có vai trị chi đường, thì
giáo viên là người có vai trị dẫn lối và cha mẹ có vai trị đồng hành. Vì vậy, tơi
ln giữ mối quan hệ gần gũi, kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh để nắm bắt
và trao đổi với họ những điều mình đã làm được và chưa làm được, để phụ
huynh giúp đỡ thêm, hỗ trợ thêm cùng giáo viên. Ví dụ bé còn yếu ở khả năng
9


đọc trơn, tốc độ đọc cịn chậm, tơi nhờ phụ huynh về nhà kèm thêm cho bé, tôi
giao thêm một số từ ngồi bài để bé thích đọc hơn.
III.

HIỆU QUẢ

Sau khi áp dụng các giải pháp, biện pháp nêu trên, sáng kiến đã mang lại
hiệu quả như sau:
Học sinh lớp tôi phụ trách trở nên ngoan hơn, hiện tượng bị rối loạn
hành vi ở học sinh được khắc phục triệt để, các học sinh trở nên thân thiện, đồn
kết, hịa đồng, biết giúp đỡ lẫn nhau, quan tâm đến nhau nhiều hơn, kết quả học
tập cũng theo đó tăng lên.
Học sinh biết phân tích, nhận xét cái sai để tìm ra hướng đi đúng, làm
đúng và quan trọng nhất học sinh biết nhận xét, đánh giá, phân tích, tổng hợp
những lỗi sai thường gặp để điều chinh hành vi của mình theo chuẩn. Từ đó học

sinh có điều kiện rèn luyện các kĩ năng sống, kĩ năng tự chăm sóc bản thân đặc
biệt các kĩ năng giao tiếp được học sinh hồn thiện và điều chinh rất tốt.
Học sinh có khả năng phân biệt đúng, sai áp dụng vào thực tiễn cuộc
sống, biết tự điều chinh hành vi của mình. Từ đó có các quyết định đúng đắn và
thích ứng cao, điều chinh hành vi hoạt động phù hợp với quy tắc đạo đức lối
sống. Có xu hướng thương lượng khơng bạo lực và ln có lịng tự trọng.
Từ chỗ bé nhút nhắt, ngại giao tiếp, không tự tin trước tập thể, ai hỏi
cũng không trả lời. Giờ ra chơi chi thơ thẩn một mình, trơng rất tội nghiệp. Giờ
đây bé đã hoàn toàn tự tin, mạnh dạn chơi cùng các bạn trong và ngoài lớp,
thường xuyên giơ tay phát biểu, tự giác trong mọi hoạt động học tập cũng như
rèn luyện, có y thức thi đua học tập cho cá nhân và tập thể lớp, tính tốn nhanh,
chính xác, kĩ năng tính nhẩm tốt, chữ viết đẹp, đọc to, rõ, lưu loát, phát âm khá
chuẩn, hiểu được nội dung, kĩ năng sống bình thường như các bạn khác. Biết tự
phục vụ bản thân, biết quan tâm, giúp đỡ bạn, gọn gàng, sạch sẽ, vâng lời, lễ
phép, chơi hòa đồng với bạn…
IV.

KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu với đề tài “Một số biện pháp dạy trẻ khuyết

tật học hòa nhập ở Tiểu học” tôi nhận thấy, giáo viên Tiểu học vừa là người thầy
10


dạy chữ vừa là thầy dạy nhân bản cho các em. Giáo dục bậc Tiểu học là bậc học
nền tảng trong hệ thống giáo dục Quốc dân. Vì vậy, ngay từ đầu, giáo viên Tiểu
học phải hướng đến việc giáo dục, hình thành nhân cách cho các em. Khi đã xác
định được vai trị khơng thể thiếu của mình, người giáo viên chủ nhiệm có
hướng thực hiện mục tiêu đề ra dưới nhiều biện pháp đa dạng, phong phú, phù
hợp với tình hình thực tế của lớp học mình. Đặc biệt là các em học hòa nhập.

Các hứng thú về nhận thức tìm hiểu về thế giới xung quanh của trẻ bộc
lộ rất rõ rệt. Thế nhưng, sự hứng thú ấy của học sinh lại phụ thuộc phần lớn vào
khả năng tổ chức, năng lực điều hành các hoạt động của giáo viên, vì vậy các
phương pháp mà giáo viên lựa chọn thực sự phải phù hợp với các dạng tật, khả
năng nhận thức của trẻ học hòa nhập. Hơn nữa, phương pháp dạy học theo
hướng đổi mới là “Lấy học sinh làm trung tâm”thực sự là phương pháp giảng
dạy “thân thiện”với người học, vì người thầy chi là người tổ chức và trợ giúp
các hoạt động giúp học sinh tiếp thu kiến thức.Vì thế, chúng ta đừng tiếc những
gì mình bỏ ra mà hãy nhìn vào những thành quả của mình để thấy điều mình làm
là có y nghĩa, là xứng đáng.
Trẻ khuyết tật rất cần được sự quan tâm của toàn xã hộị, giáo dục trẻ
khuyết tật là một nhiệm vụ của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam phải phấn
đấu và đảm nhận. “Giáo dục trẻ khuyết tật theo hướng hòa nhập là phương thức
tốt nhất để xóa bỏ thái độ phân biệt, tạo ra những cộng đồng thân ái, xây dựng
một cộng đồng cho mọi người…”. Đó cũng là điều mong mỏi của Bác Hồ kính
u.
Với những biện pháp được đề x́t, tơi mong rằng những người trực
tiếp giảng dạy cũng như những người làm công tác quản ly về mảng giáo dục trẻ
khuyết tật có cái nhìn tồn diện hơn và sớm khắc phục những khó khăn, vướng
mắc, từ đó giúp cho cơng tác giảng dạy của giáo viên đạt được kết quả cao, ngày
càng hoàn thiện phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay.
Tơi hy vọng với những kinh nghiệm dù ít ỏi của tơi, nhưng cũng ít
nhiều giải quyết được một số khó khăn, vướng mắc trong q trình dạy trẻ
khuyết tật học hịa nhập nói riêng và trong cơng tác giảng dạy nói chung.
11


Cơng tác giảng dạy trẻ khuyết tật của tơi cịn nhiều thiếu sót do kinh
nghiệm về giảng dạy trẻ khuyết tật chưa nhiều rất mong các cấp chi đạo về mặt
chuyên môn về việc dạy trẻ khuyết tật, các bạn đồng nghiệp, quy thầy cơ đóng

góp thêm y kiến để sáng kiến này thiết thực hơn, hoàn thiện hơn, để có thể ứng
dụng vào cơng tác giảng dạy trẻ khuyết tật học hịa nhập./.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Bình Tân, ngày 29 tháng 3 năm 2021
Người viết

12


PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

Thời gian đầu em chưa hịa đồng

Học gần 1 tháng em vẫn chưa hợp

với các bạn, hay chơi một mình.

tác, hịa nhập với các bạn.

13


Gần 3 tháng em đã hồn tồn hịa nhập

Em cùng các bạn tham gia hoạt

với các bạn và vui khi được thưởng quà.

động ngày Giáng sinh.


Em cùng các bạn hưởng ứng tháng
“An tồn giao thơng”.

Em cùng các bạn rất vui khi hát
mừng sinh nhật cho bạn lớp
trưởng.

Em rất hòa đồng với các bạn khi
chụp ảnh ki niệm cuối năm.

14


15



×