Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

NGOẠI GIAO VIỆT NAM – TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.83 KB, 45 trang )

NGOẠI GIAO VIỆT NAM – TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................3
6. Đóng góp đề tài........................................................................................................3
7. Kết cấu đề tài ...........................................................................................................3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – TRUNG
QUỐC TỪ SAU KHI BÌNH THƯỜNG HÓA (1991 – 2005) ....................................4
Tiểu kết Chương 1 .....................................................................................................15
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO VIỆT NAM – TRUNG QUỐC GIAI
ĐOẠN 2005 – 2010 ......................................................................................................16
2.1. Chính sách ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam .......................................16
2.2. Triển khai chính sách ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc................................ 24
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................................30
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH NGOẠI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 2005 – 2010 VÀ TRIỂN VỌNG TRONG TƯƠNG LAI VỀ QUAN
HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC.............................................................................32
3.1. Đánh giá chính sách ngoại Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2005 – 2010.....32
3.2. Triển vọng trong tương lai về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc .......................32
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................................37
KẾT LUẬN ..................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................40



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nan Á

ATF

Diễn đàn Du lịch ASEAN

AFTA

Khu Vực Mậu Dịch Tự Do ASEAN

ACFTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc

ARF

Diễn đàn khu vực Đông Nam Á

ASEM

Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu

ADB


Ngân Hàng Phát Triển Châu Á

CHND

Cộng hoà nhân dân

GDP

Tổng Sản Phẩm Nội Địa

FDI

Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngồi

IMF

Quỹ tiền tệ thế giới

ODA

Hỗ Trợ Phát Triển Chính Thức

WB

Ngân hàng thế giới

WTO

Tổ chức thương mại thế giới



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là một trong những mối quan hệ địa chính trị
lâu đời nhất trên thế giới cịn tồn tại đến ngày nay và là chủ đề nóng bỏng trong lịch sử
của Việt Nam, cho dù thời đại nào đều mang tính thời sự. Việt Nam và Trung Quốc là
hai quốc gia láng giềng hữu nghị, núi sông liền một dải, gắn bó như mơi với răng.
Trung Quốc vừa mới thành lập không lâu đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập quốc
gia và giải phóng dân tộc, Chủ tịch Mao Trạch Đơng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
các bậc lãnh đạo tiền bối đã kề vai chiến đấu, nhân dân hai nước hiểu biết và ủng hộ
lẫn nhau, cùng kết nên tình hữu nghị cách mạng “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Là
hai nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có q trình gắn bó tương
tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm
cho Quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm. Tuy nhiên, trong bối
cảnh lịch sử thế giới hiện đại, kể từ khi bình thường hố quan hệ năm 1991 đến nay,
quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt - Trung phát triển nhanh chóng và sâu rộng chưa
từng thấy trên mọi lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Trung Quốc là nước láng giếng lâu đời của Việt Nam, có vai trị là một nước lớn trong
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và có tầm ảnh hưởng về kinh tế chính trị, văn hố
xã hội rất lớn. Hơn nữa, nền kinh tế Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, phát triển với
tốc độ nhanh chóng đã và đang thu hút rất nhiều sự quan tâm trên toàn thế giới. Do đó,
việc bình thường hố và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị của nước ta với Trung
Quốc từ năm 1991 đến nay mang nhiều ý nghĩa to lớn mà từ đó ta có thể rút ra được
nhiều kinh nghiệm q báu để có thể tích cực phát triển hơn nữa. Để có thể phát triển
được quan hệ tốt đẹp, giải quyết được những mâu thuẫn và vấn đề cịn tồn tại thì biện
pháp hiệu quả nhất là nghiên cứu kỹ lưỡng q trình hoạch định đường lối, chính sách
đối ngoại của nước ta với Trung Quốc để từ đó có thể thực hiện, triển khai một cách
hiệu quả theo định hướng.

Trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế hiện nay, Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế
thế giới, thì việc tạo ra mơi trường quốc tế thuận lợi nhằm giữ vững ổn định và phát
triển đất nước trở nên vô cùng cần thiết, trong những năm qua quan hệ Việt Nam Trung Quốc đã có sự phát triển, đóng vai trị quan trọng trong việc giúp Việt Nam mở
1


rộng quan hệ đối ngoại, duy trì mơi trường hồ bình, ổn định cần thiết cho sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
cũng đang đứng trước những vấn đề cần giải quyết do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh
như về kinh tế - thương mại, biên giới lãnh thổ, an ninh quốc phòng... Đánh giá quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng trong
những năm tới là vấn đề cần nghiên cứu để góp phần tạo luận cứ khoa học cho việc
hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ với Trung Quốc.
Chính vì những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “NGOẠI GIAO VIỆT
NAM – TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010” làm đề tài
Tiểu luận của tôi.
2. Lịch sử nghiên cứu
Về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã có rất nhiều tài liệu, bài viết, cơng trình
khoa học trong và ngoài nước đề cập đến, nhất là nguồn tư liệu trong nước. Quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI đã được đề cập trong một số cơng
trình nghiên cứu (bài báo, khóa luận tốt nghiệp Đại học, luận văn Thạc sỹ, luận án
Tiến sỹ, hội thảo khoa học); nhưng những cơng trình đó hoặc là viết về thời gian sau
bình thường hóa (1991), hoặc nghiên cứu một số lĩnh vực riêng biệt. Những cơng trình
này chúng tơi sẽ liệt kê trong phần “Danh mục tài liệu tham khảo”.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những cơng trình nghiên cứu trước
đây, đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu Chính sách ngoại giao và hoạt động đối ngoại
Việt Nam - Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI, cụ thể là giai đoạn từ năm
2005 – 2010 và dự báo triển vọng về quan hệ hai nước những năm tiếp theo.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu, chính sách ngoại giao Việt Nam –Trung

Quốc giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010 các hoạt động ngoại giao của hai nước; dự
báo triển vọng về quan hệ hai nước những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của dề tài này là: Chính sách ngoại giao Việt Nam –
Trung Quốc giai đoạn 2005 – 2010; Đánh giá chính sách ngoại Việt Nam – Trung
Quốc giai đoạn 2005 – 2010 và Triển vọng trong tương lai về quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc.

2


Về khơng gian: đề tài nghiên cứu về chính sách ngoại giao Việt Nam – Trung
Quốc; đánh giá chính sách ngoại giao; triển vọng trong tương lai về quan hệ Việt Nam
– Trung Quốc
Về thời gian: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu, Chính sách ngoại giao Việt
Nam – Trung Quốc giai đoạn 2005 – 2010; Đánh giá chính sách ngoại Việt Nam –
Trung Quốc giai đoạn 2005 – 2010 và Triển vọng trong tương lai về quan hệ Việt Nam
– Trung Quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là kết hợp phương pháp nghiên cứu tài liệu,
phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp nghiên cứu tài liệu và
phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu.
6. Đóng góp đề tài
Hiện tại có nhiều sách, bài báo viết và nghiên cứu về quan hệ của Việt Nam –
Trung Quốc về ngoại giao. Tuy nhiên, đề tài tiểu luận chúng tôi đang nghiên cứu có
thể đóng góp thêm về nội dung và cũng như kiến thức về ngoại giao giữa Việt Nam –
Trung Quốc trong giai đoạn 2005 -2010, đồng thời cũng giúp mọi người có cái nhìn
khách quan và nhìn nhận về vấn đề một cách khoa học về ngoại giao của Việt Nam –
Trung Quốc trong giai đoạn 2005 – 2010 này.
7. Kết cấu đề tài

Chương 1: Khái quát quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc từ sau khi bình
thường hóa (1991 – 2005)
Chương 2: Chính sách ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2005 – 2010
Chương 3: Đánh giá chính sách ngoại Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2005 –
2010 và Triển vọng trong tương lai về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc

3


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – TRUNG
QUỐC TỪ SAU KHI BÌNH THƯỜNG HĨA (1991 – 2005)
Từ khi lập nước thì nước ta đã có sự giao hỏa với các nước láng giềng, trong sử
sách gọi là bang giao (ngoại giao) và việc bang giao này rất quan trọng trong việc giữ
gìn độc lập, bảo vệ chủ quên, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, thương lượng giữa
những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia. Thuật ngữ này thông thường
đề cập đến ngoại giao quốc tế, việc chỉ đạo, thực hiện các mối quan hệ quốc tế thông
qua sự can thiệp hay hoà giải của các nhà ngoại giao liên quan đến các vấn đề như
kinh tế, thương mại, văn hoá, du lịch, chiến tranh và tạo nền hịa bình và thường gọi là
bang giao hay đối ngoại... Các hiệp ước quốc tế thường được đàm phán bởi các nhà
ngoại giao trước tiên để đi đến việc xác nhận chính thức bởi các chính trị gia của các
nước. Về mặt xã hội, ngoại giao là việc sử dụng các tài xử trí, ứng biến để giành được
sự thuận lợi, nó là một công cụ tạo ra cách diễn đạt các tuyên bố một cách không đối
đầu, hay là một cách cử xử lịch thiệp, theo nghĩa này thì nó có nghĩa là xã giao.
Việt Nam nằm trên các trục đường giao thương thủy bộ quan trọng ở khu vực
Đông Á và là nơi giao thoa của các nền văn mình lớn, lâu đời của thế giới. Với vị trí
chiến lược quan trọng, tài nguyên sản vật phong phú, Việt Nam luôn là đối tượng xâm
lược của các thế lực bên ngoài. Hoàn cảnh này khiến dân tộc ta phải thực hiện các hoạt
động ngoại từ rất sớm, đưa ngoại giao thành một công cụ quan trọng để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã lưu

lại cho hậu thế những tư tưởng lớn, nhiều bài học sâu sắc về chiến lược và sách lược
đối ngoại. Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với nền ngoại giao tinh tế và hiển
hách. Trừ 1000 năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại từ Vua Hùng, An Dương Vương,
Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, Việt Nam chủ yếu có quan hệ ngoại
giao với các triều đình phong kiến Trung Quốc. Nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam
ra đời khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập ngày 2/9/1945. Chủ tịch Hồ
Chí Minh là người đầu tiên đứng đầu ngành ngoại giao của Việt Nam.
Có thể nói Khúc Thừa Dụ chính là người đâu tiên đã đặt cơ sở cho nền độc lập
dân tộc và sử dụng đấu tranh ngoại giao để khôi phục nền tự chủ. Năm 905, Khúc
Thừa Dụ xưng Tiết độ sứ, tuy trên danh nghĩa vẫn thuần phục nhà Đường, nhưng trên
thực tế là đã giành lại quyền tự quyết cho dân tộc. Từ đó, ngoại giao đã từng bước
4


khẳng định được vai trị là một hình thức đấu tranh quan trọng để bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Trải qua các triều đại, đấu tranh ngoại giao dần dần gắn liền với đấu tranh
quân sự để chống lại kẻ thù xâm lược. Trước tiên, ngoại giao góp phần ngăn chặn và
giảm thiểu nguy cơ chiến tranh bằng những biện pháp hịa bình. Trong trường hợp bất
khả kháng, ngoại giao lại nổ lực trì hỗn chiến tranh để kéo dài thời gian chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến vệ quốc. trong chiến tranh, ngoại giao kết hợp hiệu quả cùng quân
sự để góp phần đưa dân tộc ta đi đến thắng lợi. Ở giai đoạn cuối của chiến tranh, ngoại
giao lại góp phần giảm thiểu tổn thất cho dân tộc trên con đường giành lại độc lập. Lý
Thượng Kiệt chủ trương “dùng biện sĩ bà hịa, khơng tốn xương máu mà bảo tồn
được tơng miếu”. Lê lợi và Nguyễn Trãi cho rằng “dùng bình cốt lấy bảo tồn cả nước
làm trên hết”. Vua Quang Trung đã dùng “ngọn bút thay giáp binh”. Trong thời bình,
ngoại giao là cơng cụ xây dựng tình hịa hiếu với láng giềng, khuếch trương văn hiến
và nâng cao uy thế dân tộc. Do vị trí đặc thù của đất nước, sau mỗi lần chiến thắng
xâm lược, ông cha ta đều sử dụng nhiều biện pháp ngoại giao linh hoạt, uyển chuyển
để giữ hòa hiếu với bên ngoài, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, cố gắng duy trì
hịa bình lâu dài.

Nội dung cốt lõi của ngoại giao Việt Nam, xuyên suốt từ truyền thống đến thời
hiện đại, là hịa bình, hịa hiếu và chính nghĩa. Hưng Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã
viết trong “Binh thư yếu lược”: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị nước hành binh.
Hịa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hịa ở ngồi biên thì khơng sợ báo động”. Phan
Huy Chí đã đúc kết từ lịch sử: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc
lớn”. Nguyễn Trãi đã nêu bật tính chính nghĩa trong “Bình Ngơ đại cáo” với những
dịng bất hủ: “Đem đạii nghĩa thắng hùng tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Suốt
chiều dài lịch sử, ông cha ta đã rút ra nhiều bài học về đấu tranh ngoai giao. Đó là
những bài học về kiên trì đấu tranh giành độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ; giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hịa hiếu và hịa bình; kết hợp giữa tiến công
quân sự và khai thác những mâu thuẫn, bất đồng và khó khăn trong nội bộ kẻ thù…Đó
là những bài học đầu tiên của lịch sử dành cho những người làm ngoại giao Việt Nam.
Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến
động. Chiến tranh Lạnh kết thúc, hai lực lượng mà quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
chịu ảnh hưởng là Mỹ và Liên Xô đã dần rút và giảm sự hiện diện của mình tại khu
vực. Quan điểm của Trung Quốc trong tình hình quốc tế mới này là chuyển hướng
5


sang tích cực phát triển quan hệ ngoại giao hữu nghị với những nước láng giềng trong
đó có Việt Nam để tranh thủ được sự ủng hộ của những nước này. Năm 1991, Trung
Quốc đã tham gia vào “Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, sau đó Trung Quốc
cũng được mời tham gia “Diễn đàn khu vực Đông Nam Á - ARF. Năm 1992, Ngoại
trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham tại Malila đã bày tỏ mong muốn thúc đẩy đối thoại
nhiều cấp về an ninh của các nước ASEAN. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai
đoạn này dần dần có những thay đổi, muốn mở rộng, tăng cường quan hệ với các nước
trên thế giới.
Trong bối cảnh như vậy, hai nước đã dần tiến tới bình thường hố bằng chuyến
thăm chính thức của các nhà lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc tháng 11 năm 1991.
Chuyến thăm với sự tham gia của Tổng bí thư và Thủ tướng Việt Nam đại diện cho

Đảng và Chính phủ Việt Nam. Đây là một sự kiện hiếm có trong quan hệ ngoại giao,
chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam rất coi trọng và mong muốn tích cực giải
quyết vấn đề bình thường hố với Trung Quốc. Trong chuyến thăm này, hai nước đã
đạt được bước tiến quan trọng, cùng nhau ra bản Thông cáo chung, các nhà lãnh đạo
hai nước cũng đã xác định 5 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ Nhà nước, quan hệ giữa hai
Đảng dựa trên nguyên tắc độc lập tự chủ, hồn tồn bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai bên đồng ý kết thúc mối quan hệ
căng thẳng trong q khứ, thực hiện bình thường hố quan hệ hai đảng, hai nhà nước.
Qua chuyến thăm Trung Quốc và việc ra thông cáo chung cho thấy, quan điểm của hai
bên đối với tình hình thế giới có những thay đổi. Có thể thấy, hai bên đã nhận thức
được rằng sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, việc bình thường hố quan
hệ hai bên là phù hợp với lợi ích lâu dài và căn bản của hai nước, nó cũng đánh dấu
một sự thay đổi to lớn không chỉ đối với quan hệ hai nước, mà cả khu vực. Kể từ đó
trở đi, các nhà lãnh đạo hai nước duy trì các cuộc thăm viếng và tiếp xúc lẫn nhau,
không ngừng hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Thời kỳ đầu sau khi bình thường hố, tuy có nhiều vấn đề tồn tại, như tranh chấp
lãnh thổ, các quần đảo trên biển, phân chia đường ranh giới trên biển và đánh bắt cá,
nhưng qua nhiều cuộc gặp các cấp, tăng cường đối thoại, đàm phán hai bên đã đạt
được những bước tiến về vấn đề biên giới lãnh thổ. Ngày 19/10/1993, đại diện chính
phủ hai nước đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới
lãnh thổ, mở đường cho việc tiến tới ký kết các hiệp định biên giới, lãnh thổ trong các
6


giai đoạn sau này. Việc ký kết những hiệp định thông qua đàm phán là bước tiến trong
việc tăng cường tin tưởng lẫn nhau giữa hai nước, bảo đảm cho quan hệ hai nước đi
vào quỹ đạo hợp tác. Thời kỳ này, quan hệ chính trị hai nước có mấy điểm đáng chú ý:
trong quan hệ giữa hai nước đều nhắc đến đối thoại, đàm phán, hợp tác tăng cường gặp
gỡ, trao đổi lẫn nhau giữa các cấp, các ngành để giải quyết các tranh chấp về biên giới
và chủ quyền trên biển, đồng thời cũng coi trọng phát triển quan hệ kinh tế, thương

mại. Các chuyến thăm liên tiếp của các nhà lãnh đạo mang ý nghĩa chính trị. Điểm lại
một số chuyến thăm mang ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng nhiều tới quan hệ hai nước
ngoài chuyến thăm Trung Quốc của các nhà lãnh đạo Việt Nam tháng 11 năm 1991 ra,
vào tháng 12 năm 1992, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng có chuyến thăm chính thức
hữu nghị Việt Nam. Đây là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của nhà lãnh đạo Trung
Quốc kể từ khi bình thường hoá giữa hai nước và cũng là chuyến thăm sau 21 năm một
Thủ tướng Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam lần này,
Thủ tướng Lý Bằng đã hội đàm với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Hai bên cho rằng
củng cố hơn nữa mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước phù hợp với lợi ích cơ
bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước, có lợi cho hồ bình, ổn định và
phát triển của khu vực. Sau cuộc gặp trên, hai bên đã có bước tiến đẩy nhanh cơng việc
giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ, thành lập những nhóm công tác cấp chuyên viên
để tổ chức các cuộc đàm phán song phương về biên giới lãnh thổ.
Một mốc quan trọng khác trong quan hệ ngoại giao hai nước là chuyến thăm của
Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã thăm chính thức Việt Nam từ ngày 19 đến
22/11/1994. Chuyến thăm lần này của Chủ tịch Giang Trạch Dân là chuyến thăm đầu
tiên của nhà lãnh đạo cao nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ sau chuyến thăm của
Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang thăm Việt Nam vào năm 1963. Trong
chuyến thăm này, các nhà lãnh đạo của Việt Nam như Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ
tịch nước Lê Đức Anh hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân, hai bên
đều cho rằng nên thúc đẩy quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác, đặc biệt là hợp tác
kinh tế thương mại. Hai bên cũng cho rằng đối với những vấn đề tồn tại giữa hai bên
nên thông qua đàm phán để giải quyết. Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đề ra 16 chữ
trong giải quyết quan hệ hai nước “Phương hướng rõ ràng, từng bước tiến lên, đại cục
làm trọng, hữu hảo hiệp thương”. Hai bên đã ký kết các hiệp định, thành lập Uỷ ban
7


Hợp tác thương mại Việt Nam – Trung Quốc; về vận tải ơ tơ; bảo đảm hàng hố xuất

nhập khẩu và công nhận lẫn nhau. Hai nước đã ra Thông cáo chung Việt Nam – Trung
Quốc, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc gia tăng sự hợp tác về kinh tế thương
mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Trong quan hệ ngoại giao hai nước giai đoạn này không thể không kể đến quan
hệ giữa quốc hội hai nước được thúc đẩy sau chuyến đi thăm hữu nghị chính thức
Trung Quốc lần đầu tiên từ sau khi bình thường hố quan hệ hai nước của Chủ tịch
quốc hội Nông Đức Mạnh từ ngày 21/2 đến ngày 1/3/1994. Mục đích của cuộc đi thăm
là nhằm củng cố và tăng cường hơn nữa sự tin cậy lẫn nhau, tạo quan hệ hữu nghị láng
giềng thân tình, thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương trong các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật…. đồng thời đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa
hai cơ quan lập pháp hai nước. Trong chuyến thăm, Chủ tịch Quốc hội Nơng Đức
Mạnh cũng bày tỏ khơng những có thể tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa
nhân dân hai nước Việt – Trung, mở ra giai đoạn hợp tác hữu nghị mới giữa Quốc hội
Việt Nam và Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, mà cịn có thể tìm hiểu
thêm kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc, và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế
giữa hai nước.
Nhìn chung, giai đoạn này quan hệ ngoại hai nước được khôi phục sau một thời
gian căng thẳng. Do vậy, thông qua các cuộc viếng thăm cấp cao, các cuộc gặp gỡ,
đàm phán hai nước để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Đánh giá mối quan hệ hai
nước giai đoạn này có thể thấy rằng, một mặt nó phù hợp với xu thế phát triển chung
của thế giới, khu vực, mặt khác, nó cũng phù hợp với nhu cầu của hai nước. Các cuộc
viếng thăm cấp cao mang ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng mạnh tới sự hợp tác, phát
triển của hai bên. Nó giống như một thông điệp gửi tới các bên rằng mối quan hệ hai
nước giai đoạn này đã bắt đầu được hàn gắn sau một quá trình căng thẳng. Vì vậy mà
giai đoạn này là giai đoạn khởi động của các cuộc gặp cấp cao và các thông cáo chung
để hai bên tăng cường hiểu biết nhau hơn. Các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam như
Tổng bí thư, Thủ tướng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội đều đã có các chuyến thăm
chính thức sang Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc giai đoạn này sang
thăm Việt Nam gồm có Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ. Trong các
cuộc gặp gỡ, hai bên đều đã đạt được những bước tiến quan trọng về hợp tác kinh tế,

tăng cường giao lưu quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và ký kết hiệp định liên
8


quan đến giải quyết biên giới lãnh thổ. Ngay sau khi bình thường hố quan hệ, những
cuộc gặp cấp cao này cho thấy hai nước đã rất coi trọng hợp tác chính trị song phương.
Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 1999: Giai đoạn này có hai sự kiện quan trọng
đối với Việt Nam, cho thấy vai trò và vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế đã có
thay đổi so với trước. Và mối quan hệ giữa hai nước Việt – Trung cũng chịu ảnh
hưởng nhất định bởi những thay đổi này. Thứ nhất là sự kiện Việt Nam trở thành thành
viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), dần xoá bỏ ngăn cách giữa Việt
Nam với các nước trong khối, nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Thứ
hai là Việt Nam bình thường hố quan hệ với Mỹ. Đây là những nhân tố quan trọng,
bởi sau khi thực hiện đổi mới, chính sách ngoại giao của Việt Nam đã có những bước
tiến hoà nhập vào thế giới mạnh mẽ hơn. Việt Nam chủ động tham gia, đóng góp tích
cực vào sự phát triển, hồ bình của nhiều tổ chức khu vực và thế giới. Quan hệ song
phương với các nước cũng được thúc đẩy, đặc biệt là với các nước lớn trên cơ sở cân
bằng mối quan hệ giữa các nước lớn, tránh việc quá nghiêng về một bên sẽ làm cho
Việt Nam phải đối mặt với những thách thức về an ninh, chính trị hoặc kinh tế. Vì vậy,
chính sách của Việt Nam muốn thiết lập quan hệ tốt đẹp với tất cả các nước trên thế
giới, trong đó với các nước lớn là một sự lựa chọn hợp lý, phù hợp với xu thế chung
trong giai đoạn hiện nay, để bảo đảm một môi trường an ninh cho sự phát triển của
Việt Nam, hạn chế bị lôi kéo vào vịng xốy tranh chấp quốc tế, phụ thuộc an ninh,
kinh tế, chính trị giữa các nước lớn. Chính sách cân bằng quyền lực giữa các bên có
thể đơi lúc khó thực hiện được do bị ảnh hưởng của bên này mạnh hơn bên kia, nhưng
nhìn tổng thể việc duy trì sự cân bằng này là cần thiết trong giai đoạn trên, giúp Việt
Nam đã chấm dứt cô lập về mặt ngoại giao năm 1995, sau khi tham gia vào tổ chức
ASEAN và bình thường hố quan hệ với Mỹ. Trong việc tham gia vào khối ASEAN:
Việt Nam tham gia tổ chức khu vực ASEAN đã góp phần làm cho bầu khơng khí khu
vực trở lên hồ bình, ổn định, khơng chỉ nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường

quốc tế, mà bản thân tổ chức ASEAN cũng được quốc tế đánh giá cao hơn.
Tháng7/1995 với việc trở thành thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN, vai trị
thương lượng của Việt Nam đã được tăng cường uy tín và vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao, có được những ưu thế trong tiến trình hợp tác, tham gia
vào các tổ chức liên khu vực và quốc tế như Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(APEC), ASEM, tạo mơi trường quốc tế thuận lợi cho xây dựng và phát triển kinh tế
9


trong nước. Ngoài ra, tham gia vào ASEAN cũng làm cho nền kinh tế của Việt Nam
thu được nhiều lợi ích hơn thông qua tham gia vào AFTA của khu vực, hoặc gần đây
là ACFTA làm tăng cường cơ hội đầu tư và trao đổi thương mại giữa Việt Nam với
của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Đối với vấn đề bình thường hố quan hệ với Mỹ: Vào ngày 11 tháng 7 năm 1995,
Việt Nam và Mỹ đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và nhanh chóng trao đổi
đại sứ. Sau đó, ngày 5 đến 7 tháng 8 năm 1995, Ngoại trưởng Mỹ đến thăm Việt Nam,
hai cơ quan đại diện tại hai thủ đô Hà Nội và Oasinhtơn đã được nâng cấp thành đại sứ
quán, đồng thời hai bên cử đại biện lâm thời đại diện cho hai nước. Ngày 5/9/1997, hai
nước trao đổi đại sứ. Thông qua cải thiện quan hệ song phương, Việt Nam đã có điều
kiện tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của các doanh
nghiệp Mỹ, thuận lợi cho việc tham gia các tổ chức quốc tế như APEC, WTO cũng
như nhận được những khoản vay từ những hệ thống tài chính thế giới như IMF, WB,
ADB để có thể phát triển đất nước nhanh hơn. Ngoài ra các nhà đầu tư của Mỹ, Úc,
Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đơng Nam Á có cơ sở để đầu tư mạnh mẽ hơn nữa
vào Việt Nam. Điều này có những tác động tới chính sách cải cách kinh tế và mở cửa
của Việt Nam. Trên thực tế, bình thường hố về quan hệ với Mỹ sẽ là một trong những
nhân tố để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và địa
vị của Việt Nam tại khu vực.
Trong quan hệ ngoại giao giai đoạn này có một số điểm. Thứ nhất, có thể thấy
rằng trong giai đoạn này các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước vẫn có các cuộc gặp gỡ,

thăm viếng nhau, nhưng không ra tuyên bố chung, thông cáo chung mà chỉ là những
hiệp định kinh tế, thương mại. Thứ hai, những tranh chấp giữa hai bên về lãnh thổ dần
dần giảm đi. Giai đoạn này thực chất là khôi phục lại lịng tin lẫn nhau, trên cơ sở và
hình thức mới xây dựng lại mối quan hệ hữu hảo láng giềng. Một số chuyến thăm đáng
chú ý trong giai đoạn này là chuyến thăm của Tổng bí thư Đỗ Mười sang thăm Trung
Quốc năm 1995. Trong giai đoạn này, Tổng bí thư Đỗ Mười đã hai lần sang thăm
Trung Quốc. Trong chuyến thăm Trung Quốc lần thứ hai từ ngày 14 đến 18/7/1997
của Tổng bí thư Đỗ Mười, hai bên đã đạt được một thoả thuận giải quyết vấn đề biên
giới trên bộ trước năm 2000 và giải quyết vấn đề phân định Vịnh Bắc bộ chậm nhất
vào năm 2000. Những nhận thức chung của các nhà lãnh đạo cấp cao về việc tiến tới
giải quyết vấn đề tồn tại đã tạo ra những nỗ lực để các bộ ngành hai bên tiến tới đạt
10


được những thoả thuận quan trọng liên quan đến vấn đề biên giới lãnh thổ vào năm
1999 và 2000.
Một sự kiện khác cũng cần được nhắc đến trong mối quan hệ chính trị hai nước
là ngày 28/6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam khai mạc tại Hà Nội, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, Lý Bằng đã
dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc sang dự và đọc lời chúc mừng Đại
hội. Đây là chuyến tham dự lần đầu tiên của đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc tại
một đại hội Đảng của Việt Nam từ sau bình thường hố quan hệ, và cũng là chuyến
tham dự sau 35 năm kể từ khi Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Phú Xuân
dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng sang dự đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam năm
1961. Điều này cho thấy sự quan tâm của Trung Quốc đến tình hình Việt Nam, và
quan hệ giữa hai Đảng đã trở nên gần gũi nhau hơn.
Thời kỳ này, nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã hai lần sang
thăm chính thức Trung Quốc. Ngồi ra, trong chuyến thăm Trung Quốc tháng 10-1998
của Thủ tướng Việt Nam, Phan Văn Khải, hai bên đã ký kết hiệp định mậu dịch biên

giới giữa hai bên, đưa thương mại song phương vào quy củ. Trong thời kỳ này, phía
Trung Quốc cũng có đầy đủ các nhà lãnh đạo cấp cao sang thăm Việt Nam như Thủ
tướng Quốc vụ viện, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Chính hiệp (Mặt trận tổ quốc), Phó
Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào…
Giai đoạn từ năm 1999 đến 2005: Bắt đầu từ ngày 25/2 đến 2/3/1999, Tổng bí
thư Lê Khả Phiêu đã có chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Đây là chuyến
thăm Trung Quốc lần đầu tiên kể từ khi ông nhậm chức vào tháng 12 năm 1997. Trong
buổi hội đàm với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, hai bên đã xác định khung và khuôn
khổ mối quan hệ giữa hai nước hướng tới thế kỷ XXI, nhất trí cùng nhau cố gắng xây
dựng và phát triển quan hệ Việt – Trung. Ngày 27/2/1999, hai bên đã ra bản Tuyên bố
chung Việt Nam – Trung Quốc. Tuyên bố với phương châm 16 chữ “láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, thúc đẩy quan hệ của hai
nước Trung-Việt bước vào một giai đoạn phát triển mới. Trong chuyến thăm này, hai
bên cùng bày tỏ đàm phán giải quyết thật sớm vấn đề lãnh thổ biên giới hai nước, cùng
nhất trí ký kết Hiệp ước về biên giới trên bộ hai nước trong năm 1999 và giải quyết
xong vấn đề phân định Vịnh Bắc bộ trong năm 2000. Sự nỗ lực này đã cho thấy hiệu
11


quả, sau đó vào cuối năm 1999 và 2000, Chính phủ hai nước lần lượt ký kết Hiệp ước
biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ, Hiệp định hợp tác nghề cá và
Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới. Chuyến thăm của Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu đã mở ra một trang mới trong hợp tác hai nước, mang đến nhiều cơ hội
hợp tác hơn cho cả hai phía. Chúng tơi cho rằng, giai đoạn này có một số điểm đáng
chú ý.
Thứ nhất là hợp tác giữa hai bên trong thời kỳ này đã được nâng lên một tầm cao
mới, quan hệ giữa hai nước đã trở nên phát triển nhất trong cả q trình từ sau bình
thường hố quan hệ. Những cuộc thăm viếng, gặp gỡ cấp cao hàng năm tuy là một quy
định bất thành văn, nhưng nó là cơ sở quan trọng để hai nước, hai Đảng tìm hiểu, thúc
đẩy những hiểu biết lẫn nhau, từ đó xố dần những khoảng cách trong quan hệ hai

nước. Trong những cuộc tiếp xúc, hai bên đã thống nhất phương thức hợp tác nguyên
tắc chung trong quan hệ giữa hai nước là hữu nghị và láng giềng thân thiện dựa trên
năm ngun tắc cùng tồn tại hồ bình, giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua
thương lượng và bằng biện pháp hồ bình, quan hệ giữa hai nước khơng nhằm vào
nước thứ ba và cũng không làm ảnh hưởng đến quan hệ của mỗi nước với các nước
khác. Những điều này đã cho thấy rằng, quan hệ hai nước khôi phục và phát triển trên
nhu cầu và lợi ích của từng nước, phù hợp với những chính sách, đường lối ngoại giao
của từng nước, đó là phát triển quan hệ chính trị chủ yếu là giữa các cấp bộ ngành, các
địa phương của hai Đảng, hai nước với nhau. Quan hệ song phương được tăng cường
trên tất cả các mặt.
Thứ hai, những vấn đề nổi cộm trong quan hệ giữa hai nước về cơ bản đã có tiến
triển bằng những hiệp định ký kết giữa hai nước. Hai bên cũng đã giải quyết những
vấn đề trên qua các cuộc thương lượng, đàm phán, tiến tới ký kết được những hiệp
định, giải quyết 2 trên 3 vấn đề tồn tại liên quan đến biên giới lãnh thổ, đạt được tiến
triển rõ rệt về công tác cắm mốc trên đất liền, đồng thời nhất trí đẩy nhanh hơn nữa
tiến trình này để chậm nhất vào năm 2008 hồn thành cơng tác phân giới cắm mốc trên
toàn tuyến biên giới trên đất liền và ký văn kiện mới về quy chế quản lý biên giới, đặt
cơ sở cho ổn định an ninh khu vực và giữa hai nước. Đây là sự nỗ lực chung của hai
phía trong việc giải quyết vấn đề cịn vướng mắc bằng phương thức hồ bình, đàm
phán. Nó cũng có thể sẽ là tiền lệ để hai bên tiến hành giải quyết các vấn đề khác phức
tạp trong tương lai. Ngoài ra trong hợp tác chung tại Vịnh Bắc bộ, hải quân hai nước
12


đã tiến hành các chuyến tuần tra chung trên biển. Hai bên cũng đang tiến hành đàm
phán về phân định cửa Vịnh Bắc bộ…
Thứ ba, các nhà lãnh đạo hai nước có nhiều nhận thức chung trong nhiều vấn đề
song phương và quốc tế. Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2001, Tổng bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam thăm Trung Quốc, hai bên ra Tuyên bố chung nhắc lại phương
châm 16 chữ, quán triệt mục tiêu và nhiệm vụ mà Tuyên bố chung Trung-Việt tháng

12 năm 2000 đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục
duy trì gặp gỡ cấp cao thường xuyên, tạo thêm động lực mới thúc đẩy quan hệ hai
nước phát triển; tăng cường hơn nữa tiếp xúc hữu nghị và giao lưu hợp tác dưới nhiều
hình thức giữa các ban ngành, các tổ chức quần chúng và các địa phương hai nước.
Trong chuyến thăm của Tổng bí thư Giang Trạch Dân năm 2002, các nhà lãnh đạo của
hai bên đã đạt được nhận thức chung trong trao đổi các vấn đề liên quan, tức là duy trì
trao đổi các cuộc gặp cấp cao, mở rộng và đi sâu vào hợp tác kinh tế, lấy tinh thần hợp
tác lâu dài giữa hai nước để giáo dục nhân dân hai bên, tiếp tục đàm phán đẩy nhanh
công tác phân chia, cắm mốc đường biên giới trên bộ và hiệp định nghề cá, trao đổi
những kinh nghiệm lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội và trị đảng trị nước; tăng
cường hợp tác, giao lưu trên các mặt ngoại giao, quốc phịng, an ninh và cơng an...
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân đã phát biểu rằng “Điều đặc
biệt quan trọng là, hai bên nhất định phải tăng cường tin cậy lẫn nhau. Đó chính là cơ
sở phát triển ổn định lâu dài của quan hệ hai Đảng, hai nước”. Đồng thời đưa ra năm
kiến nghị liên quan đến hợp tác hai bên: Một là, cần tiếp tục phát huy truyền thống tốt
đẹp qua lại thăm viếng lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước; Hai là, cần
không ngừng mở rộng và đi sâu hơn nữa hợp tác kinh tế - thương mại; Ba là, cần lấy
tinh thần hữu nghị lâu dài để giáo dục nhân dân hai nước, đặc biệt là thanh thiếu niên;
Bốn là, cần tăng cường hợp tác giữa hai nước trên vấn đề biên giới, đẩy nhanh tiến
trình cơng tác tiếp theo về biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc bộ; Năm là,
cần tăng cường giao lưu kinh nghiệm về xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước giữa hai
Đảng, hai nước, tăng cường sự bàn bạc, hợp tác và phối hợp về các vấn đề quốc tế
giữa hai nước, để tạo thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển của mỗi nước”.
Thứ tư là bổ sung thêm khung hợp tác trong quan hệ hai nước bằng 4 tốt trong
chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân nhấn
mạnh đến mối quan hệ về láng giềng, bạn bè, đồng chí: láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
13


chí tốt, đối tác tốt, tin cậy lẫn nhau, giúp đỡ nhau, thông cảm và nhân nhượng lẫn

nhau, cùng nhau phát triển.
Thứ năm là bài phát biểu trước Quốc hội Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch
Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 31 tháng 10 đến 2
tháng 11 năm 2005 trong thời điểm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt NamTrung Quốc. Đây cũng là lần đầu tiên Tổng bí thư, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sang thăm
Việt Nam với tư cách là Tổng bí thư, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa. Và điều hiếm
có là một vị nguyên thủ quốc gia một nước khác phát biểu trước quốc hội Việt Nam.
Ngoài ra, hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc. Điều này cho thấy hợp
tác chặt chẽ giữa hai Đảng, hai nước.
Thứ sáu, hợp tác an ninh khu vực cũng đã có những thay đổi. Tháng 7/2001,
Diễn đàn an ninh khu vực của khối các nước Đông Nam Á đã được tổ chức ở Hà Nội.
Trong các vấn đề khu vực, Diễn đàn đã đạt được thoả thuận về những thủ tục nhằm
giúp ngăn chặn các cuộc tranh chấp bùng nổ thành cuộc chiến tranh rộng lớn, theo đó
tổ chức Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN khơng chỉ giữ vai trò xây dựng lòng tin
giữa các nước thành viên, mà cịn chính thức có quyền tham dự vào việc giải quyết các
tranh chấp song phương hoặc đa phương trong vùng. Trung Quốc và ASEAN đã cùng
nhau ra “Tuyên bố về liên hợp hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống”, tạo ra
cục diện mới cho hai bên bắt tay tấn công các loại tội phạm xuyên biên giới, như buôn
bán ma tuý, di dân bất hợp pháp, cướp biển, chủ nghĩa khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa
tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm trên mạng... Bên cạnh đó, vấn đề Biển Đông
liên quan đến nhiều nước trong khu vực cũng đã được các bên, trong đó có Việt Nam
và Trung Quốc ký kết Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông. Những hợp tác mang tính đa
phương là cơ sở cho việc hai nước tăng cường niềm tin, thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ
sẵn có và làm giảm những nguy cơ liên quan đến an ninh trên biển.
Nhìn chung, trong giai đoạn từ khi bình thường hố quan hệ hai nước đến nay,
quan hệ chính trị giữa hai nước trải qua những giai đoạn từ chỗ bắt đầu khôi phục lại
quan hệ, niềm tin đến tăng cường hợp tác chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh vực, đạt
được những bước phát triển ổn định, tạo dựng được cơ sở vững chắc để hai nước cùng
tiến tới giải quyết những bất đồng cịn tồn tại.
Mối quan hệ chính trị hai nước phát triển trong giai đoạn qua cũng phù hợp với
tình hình chung của hai nước, đáp ứng những thay đổi của tình hình quốc tế và khu

14


vực, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho cả hai nước. Chúng tôi cho rằng, trong thời
gian tới, hợp tác giữa hai nước sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ chính trị tốt đẹp. Đây là
cơ sở để hai nước tăng cường mở rộng quan hệ, hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác, cũng
như duy trì ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Tiểu kết Chương 1
Tóm lại, trong q trình hồn thiện nền ngoại giao của nước Việt Nam, chúng ta
đang và cần tiếp tục kế thừa và phát huy ngoại giao truyền thống của ông cha ta; vận
dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và tiếp thu có chọn lọc những lý luận
tiên tiến về quan hệ quốc tế và kinh nghiệm thực tiễn ngoại giao thế giới. Ngành ngoại
giao có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, trong chiến
tranh, Ngoại giao phối hợp với đấu tranh qn sự, chính trị góp phần to lớn vào sự
nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất Tổ quốc. Ngoại giao góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa xây dựng đất nước.
Từ khi nước ta được ghi vào bản đồ thế giới; sau Cách mạng tháng Tám, suốt 5
năm, Việt Nam Dân chủ Cộng hịa chưa được nước nào cơng nhận, phải đến năm 1950
nước ta mới bắt đầu có quan hệ quốc tế nhà nước với chiến thắng Điện Biên Phủ và
Hiệp Nghị Giơnevơ thì Việt Nam bắt đầu có vị trí và uy tín quốc tế. Tuy nhiên, vị thế
nước ta trên trường quốc tế chủ yếu là về chính trị và tình cảm, từ ngày đổi mới do
chính sách mở rộng quan hệ “đa phương hóa, đa dạng hóa,”, “sẵn sàng là bạn của các
nước…” thì chúng ta đã có quan hệ rộng rãi hơn với các nước lớn. Ngoại giao cũng
góp phần tạo dựng được một mơi trường quốc tế vô cùng thuận lợi cho công cuộc xây
dựng đất nước lâu dài. Chúng ta có thể thấy được, ngoại giao Việt Nam ra đời với hai
bàn tay trắng, khơng có kế thừa, khơng có cán bộ có hiểu bước về ngoại giao, nhưng
Việt Nam đã từng bước trưởng thành, vững chắc, tiếp cận được với nhiều nền ngoại
giao quốc tế hiện Đại.
Nhưng trong ngoại giao từ truyền thống cho đến hiện đại. phải ln đặt lợi ích
ích dân tộc lên trên hết, xử lý mọi vấn đề trong quan hệ quốc tế và đối ngoại trên cơ sở

đứng vững trên lợi ích của dân tộc; Gắn Việt Nam với thế giới, kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại; hiểu thế giới, nắm bắt trào lưu thế giới, tiến kịp
thời; kết hợp chặt chẽ ngoại giao, đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa
từ Trungg ương đến địa phương; ln nêu cao, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, tự quyết định đường lối, chính sách phù hợp lợi ích dân tộc và trào lưu quốc tế.
15


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO VIỆT NAM – TRUNG QUỐC GIAI
ĐOẠN 2005 – 2010
2.1. Chính sách ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội lần thứ X của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước đánh dấu
mốc son mới trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, thể hiện quyết tâm
của toàn Đảng, toàn dân ta, đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới. Đại hội diễn
ra tại Hà Nội từ ngày 18 tháng 04 đến ngày 25 tháng 04 năm 2006 trong bối cảnh thế
giới có những chuyển biến lớn và Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội dự báo về xu thế chủ
yếu của thời đại gồm một số đặc điểm như sau:
Tình hình thế giới diễn biến hết sức phức tạp, nhưng hịa bình, hợp tác và phát
triển là xu thế lớn. kinh tế thế giới đan xen những biểu hiện suy thoái, phục hồi và phát
triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Tồn cầu hóa kinh tế tạo ra
nhiều cơ hội nhưng cũng chứa nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức
cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. Khoa học và
khơng nghệ sẽ có bước đột phá mới. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,
chủ nghĩa khủng bố, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Đồng thời, nhiều vấn đề tồn cầu bức xúc
địi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phải phối hợp giải quyết như: khoảng cách
chênh lệch giữa các nhóm nước giàu nghèo ngày càng lớn; tình trạng mơi trường tự
nhiên bị hủy hoại, khí hậu diễn biến ngày càng xấu… khu vự châu Á – Thái Bình

Dương nói chung và Đơng Nam Á nói riêng, xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển tiếp
tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Đại hội đánh giá tổng quát về thành tựu sau 20 năm đổi mới và 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội IX: nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ
tăng trưởng khá cao (bình quân trong 5 năm 2001 – 2005 là 7,51%) và phát triển tương
đối tồn diện; văn hóa và xã hội phát triển tương đối về mọi mặt, việc gắn phát triển
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, đời sông các tầng lớp nhân
dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường,
quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xa hội
chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, sức mạnh
16


khối đại đoàn kết dân tộc được phát huy. Đại hội cũng vạch rõ những khuyết điểm và
yếu kém: tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; cơ chế, chính
sách về văn hóa xã hội chậm đổi mới, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa giải quyết tốt;
quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế; tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và đồn thể nhân dân cịn một số khâu chậm đổi mới; công tác
xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực nhưng cịn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đại
hội cũng chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó tác động tổng
hợp và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực đến nước ta cũng là đáng
kể.
Đại hội xác định rõ thời gian tới tuy cịn khó khăn nhưng đất nước ta cố nhiều cơ
hội đẻ tiến lên; toàn dân tộc ta phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền hơn với
mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hương hiện đại. Đại hội đề
ra Nghị quyết là: “Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” với chỉ tiêu tăng
trưởng GDP bình quân đạt 7,5 – 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm.

Để hồn thành mục tiêu đó, cơng tác ngoại giao đóng vai trị rất quan trọng: “giữ
vững mơi trường hịa bình, tạo các điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Trong môi trường đối ngoại hiện nay và trước những yêu cầu ngày càng khẩn
trương của sự nghiệp đổi mới tồn diện, việc tạo dựng, giữ gìn một mơi trường quốc tế
hịa bình đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngồi cho cơng cuộc cơng hiệp
hóa, hiện đại hoa đất nước đòi hỏi hoạt động ngoại giao phải luôn được thực hiện trên
tinh thần đổi mới, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và mang lại hiệu quả lớn
hơn.
Sau 20 năm đổi mới và 5 năm thực hiện Nghi quyết Đại hội IX, thế và lực của
đất nước ta ngày càng được tăng cường. Đây là thuận lợi trước hết và cơ bản nhất
trong bối cảnh tình hình nước ta hiện nay. Với nền kinh tế tăng trưởng nhanh và mơi
trường chính trị - xã hội luôn ổn định, Việt Nam ngày càng tỏ rõ sức hút mạnh mẽ đối
17


với các đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư nước ngồi và sự nghiệp của chúng ln
được thế giới đánh giá rất cao, coi là một trong những cơng cuộc đổi mới thành cơng
nhất. Trong bối cảnh đó, với Đại hội X khẳng định Việt Nam sẽ tiếp bước mạnh mẽ
trên con đường đổi mới đã được cộng đồng quốc tế nhiệt liệt hoan nghênh. Khơng khí
dân chủ, nghiêm túc, nhìn thẳng vào sự thật của Đại hội và quyết tâm nâng cao năng
lực của Đảng, lãnh đạo đất nước vươn tới phồn vinh đã tạo nên hình ảnh đầy sức
thuyết phục về một Việt Nam đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. Thuận lợi cơ
bản thứ hai là, cùng với sự lớn mạnh của đất nước, vị thế của Việt Nam trong những
năm qua ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Đánh giá về thành tựu của công tác
đối ngoại trong những năm qua, Nghị quyết Đại hội X nêu rõ: “Hoạt động đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và nhân dân phát triển mạnh, góp phần giữ vững mơi trường hịa
bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên

thế giới”
Chúng ta đã tạo dựng được khuôn khổ hợp tác hữu nghị ổn định lâu dài và ngày
càng đi vào chiều sâu với các nước láng giềng, khu vực. Đồng thời, từ việc bình
thường hóa quan hệ, chúng ta từng bước nâng cấp, xác lập khn khổ quan hệ hợp
tascc bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, các trung tâm kinh tế - tài chính
lớn, các nước cơng nghiệp phát triển, tạo bước đột phá trong quan hệ quốc tế của Việt
Nam. Bên cạnh các mối quan hệ đó, chúng ta củ động củng cố, phát triển quan hệ hợp
tác với các bạn bè truyền thống, các nước phát triển trên thế giới. Có thể nói, hiện nay
chúng ta đã tạo được một môi trường quan hệ và hợp tác quốc tế thuận lợi hơn bao giờ
hết, những thành tựu đạt được đó có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở thuận lợi cho việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới. Thuận lợi thứ ba là mặc dù
tình hình thế giới và khu vực vẫn có thể diễn biến phức tạp nhưng hịa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn và chủ đạo, Khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày càng
gia tăng vài trị của mình trong các mối quan hệ quốc tế nói chung và kinh tế quốc nói
riêng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thúc đẩy quan hệ với tất cả các đối tác. Tuy
nhiên bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, chúng ta cũng đứng những thách thức
không thể coi nhẹ. Về chủ quan, đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Quá trình hội nhập ngày càng sâu vào nền
kinh tế thế giới đòi hỏi chúng ta gia tăng sức cạnh tranhh trong toàn nền kinh tế,
ngành, nghề, lĩnh vực. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
18


của một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viện; nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí nếu
khơng được giải quyết tích cực sẽ làm suy giảm nội lực và tác động nghịch đến hình
ảnh và vị thế Việt Nam trước quốc tế. Về khách quan, những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới tiếp tục tác động nhiều chiều tới an ninh và sự phát triển của Việt
Nam; kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường; tồn cầu hóa tạo cơ
hội nhưng cũng chứa nhiều yếu tố rủi ro, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước
đang phát triển. Bên cạnh những vấn đề an ninh truyền thống như chiến tranh cụ bộ,

xung đột dân tộc và tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố…tiếp tục diễn biến phức tạp, các
vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tài, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, bùng nổ dân
số…liên tục nổi lên. Ngồi ra, chúng ta phải cảnh giác trước những âm mưu diễn biến
gịa bình, gây bạo loạn, những hành động ẩn núp dưới các chiêu bài khác nhau hòng
gây mất ổn định chính trị trong nước.
Những thuận lợi và khó khăn đó đặt ra trên con đường phát triển đất nước, địi
hỏi chúng ta kiên trì ngun tắc, song linh hoạt về sách lược, có những lựa chọn đúng
đắn, phù hợp về đường lối, chính sách và tranh thủ mọi cơ hội, đẩy lùi và giảm thiểu
các nguy cơ thách thức, nhằm bứt phá tạo thành thế và lực mới cho đất nước.
Trong Ngị quyết Đại hội X khẳng định rõ đường lối, chính sách đối ngoại: “Thực
hiện nhất quan đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế”, với
phương châm: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Đây là đường lối được
đề ra và ngày càng hồn thiện trong 20 năm đổi mới, góp phần nâng cao vị thế quốc tế
của nước ta trên trường quốc tế.
Trên cơ sở thế và lực của đất nước được tạo lập qua 20 năm đổi mới, Đại hội
khẳng định nhiệm vụ đối ngoại “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Như vậy, tư tưởng chỉ đạo đối
ngoại của Đại hội X không chỉ nhấn mạnh tính chủ động mà cả tính tích cực của nước
ta trong hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng cũng như trong việc tham gia vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực nói chung, đóng vai trị là thành viên tích cực của cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, hợp tác và phát triển. Trong tình hình mới, Đrang
ta đặc biệt quan tâm việc bổ sung làm rõ thêm quan điểm, chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X nêu ra 5 bài học lớn: Một là, trong quá
19


trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu

chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và
được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính
trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống
chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng
điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba
nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn
hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện
vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trị quan trọng trong việc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết
thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa
của thành cơng.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là
nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại
lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát
huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và
bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

20


dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có
hiệu quả quyền cơng dân, quyền con người. Phát huy vai trị Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Trong đó, bài học thứ tư là hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ trong điều kiện mới. Hội nhập kinh tế quốc tế xác định là yêu cầu khách
quan, do đó phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực, vững chắc, khơng do dự
chần chừ, nhưng cũng khơng nóng vội, giản đơn. Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế
trước hết là hoàn toàn chủ động quyết định đương lối, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội nói chung, chủ trương chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Chủ động hội
nhập có nghĩa là phải nắm vững quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn
cầu, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh, xác định lộ trình, nội dung, quy mơ, bước đi
phù hợp, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế quốc tế. Chủ động còn bao
hàm sự sáng tạo, lựa chọn phương thức hành động đúng, dự báo được những tình
huống trong hội nhập. Quan điểm tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương
chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt
động thực tiễn, từ trung ương đến địa phương, doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hồn chỉnh hệ thống pháp luật… Tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế cịn là khơng duy trì q lâu chính sách bảo hộ của Nhà nước,
khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại sự bao cấp của Nhà nước; tích cực hội nhập
nhưng phải thận trọng vững chắc.
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế đòi hỏi tiếp túc đẩy mạnh hoạt độnh kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thế chế kinh toàn cầu, khu vực song phương, “lấy phục vụ lợi ích đất nước
làm mục tiêu cao nhất”.
Hội nhập kinh tế đối với nước ta phải trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiểu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo

vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường. Để tiếp tục mở rộng tăng cường hiệu quả hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ
trương: “đưa các mối quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền
vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ
chức quốc tế”. Đương nhiên, việc quán triệt thực hiện chủ trương này phải dựa trên cơ
21


sở các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đối ngoại được xác định là: “Tôn trọng độc
lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau;
không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thơng qua thương lượng hịa bình; tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi”. Đây
là sự cụ thể hóa nguyên tắc bao trùm xuyên suốt trong quá trình thực hiện đường lối
đối ngoại đổi mới là giữ vững hịa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng
thời phải rất sáng tạo, năng động linh hoạt trong xử lý các tình huống, phù hợp với
hồn cảnh cụ thể, vị thế của nước ta cũng như diễn biến tình hình quốc tế, phù hợp với
đặc điểm của từng đối tác mà nước ta có quan hệ, trong bất kỳ tình huống nào cũng
tránh khơng để rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố hịa bình, an ninh, tạo
mơi trường thuận lợi cho phát triển.
Trong nhiệm kỳ Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ
phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu, đồng thời mở rộng trên nhiều lĩnh vực khác. Do
đó, một mặt cần đặc biệt coi trọng kết hợp chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại
trong quan hệ với các nước để thúc đẩy hợp tác kinh tế phát triển; mặt khác tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp, chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các
hiệp định thương mại song phương và đa phương. Đảng và Nhà nước ta chú trọng
những hoạt động đối ngoại như tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các
nước lớn; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN,
các nước châu Á – Thái Bình Dương; phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy
với các đối tác chiến lược. Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản và
công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế

giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền; phát triển công tác đối ngoại
nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, tích cực tham
gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và
nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngồi để phát triển kinh
tế - xã hội; đẩy mạnh cơng tác văn hóa thơng tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự
hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân các nước; một điểm mới đáng chú ý
trong quá trình hội nhập quốc tế là lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta ghi
rõ nhiệm vụ cần chủ động tham gia đấu tranh chung vù quyền con người, sẵn sàng đối
thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.
song đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định rõ việc kiên quyết làm thất bại âm mưu,
22


×