Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ NHÂN TỐ TÍCH CỰC TRONG VĂN HÓA TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.4 KB, 19 trang )

ĐỀ TÀI: PHÁT

HUY CÁC GIÁ TRỊ NHÂN TỐ
TÍCH CỰC TRONG VĂN HĨA TƠN GIÁO,
TÍN NGƯỠNG


MỤC LỤC
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU ...................................................................................................1
CHƯƠNG II: NỘI DUNG ..............................................................................................2
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN ...........................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 17


CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia thống nhất đa dân tộc, đa tơn giáo, trong đó có khoảng
24 triệu tín đồ thuộc 40 tổ chức tơn giáo được công nhận, chiếm tới 27% dân số. Sự đa
dạng các hình thức tơn giáo là nhân tố quan trọng góp phần hình thành bản sắc văn hóa
dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta khơng chỉ khẳng
định chính sách nhất qn là tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo,
mà còn chủ trương phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tơn giáo trong
cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng ta đã từng bước
đổi mới về vấn đề tôn giáo và cơng tác tơn giáo. Trong q trình đó, tư duy lý luận của
Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ,
hoàn thiện hơn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hồn thiện chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng"1.
Thật vậy, sau 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, quan điểm đổi mới
của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo ngày càng phát triển hồn thiện và đi vào
cuộc sống. Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo


được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị ngày 16/10/1990 "Về
tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới”. Về nhận thức lý luận,Đảng ta đã
nêu lên "3 luận đề" có tính đột phá về vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng: Một là, tơn giáo là
vấn đề cịn tồn tại lâu dài; Hai là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân và Ba là, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây
dựng xã hội mới. Đồng thời nêu lên “3 quan điểm” đổi mới về công tác tôn giáo: Một
là, công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng, vừa cảnh giác kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách
mạng; Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
và Ba là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị. Để có được
những tư tưởng đổi mới có tính "đột phá” nêu trên, Đảng ta tìm tịi, trăn trở trên cơ sở
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo vào
tình hình tơn giáo ở nước ta. Trong quá trình đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về
vấn đề tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp
theo. Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị (2/7/1998) chỉ rõ: "Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt
đẹp của tơn giáo được tơn trọng và khuyến khích phát huy"2. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) về Xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (16/7/1998), dành quan điểm thứ 8 về “Chính sách
văn hóa đối với tơn giáo", khẳng định: "Khuyến khích ý tưởng cơng bằng, bác ái,
hướng thiện ... trong tôn giáo”3.
1


CHƯƠNG II: NỘI DUNG
Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) của
Đảng ra ngày 12/3/2003, đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận đổi mới của Đảng ta
về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Theo đó, nhận thức về vấn đề tơn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và khơng tính

những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng, dứt
khoát quan điểm của Đảng ta về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Từ quan điểm "tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài" do Nghị quyết 24 của Bộ
Chính trị (1990) nêu ra, đến Nghị quyết 25 của Đảng đã phát triển lên một bước mới,
khẳng định rõ hơn tôn giáo "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội". Nhận thức này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự phát triển có
tính sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh đúng
quy luật tồn tại khách quan của tín ngưỡng, tơn giáo ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Luận điểm này đã cụ thể hoá quan điểm "tồn tại lâu dài" của tôn
giáo, nhưng phát triển rõ hơn trong mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Trên phương diện nhận thức, quan điểm này tránh được các cuộc
tranh luận không cần thiết về vấn đề tôn giáo sẽ tồn tại đến khi nào. Đồng thời khắc
phục được tư tưởng chủ quan, duy ý trí, nóng vội cho rằng tơn giáo sẽ mất đi nhanh
chóng trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, đã chỉ ra rằng, tôn giáo chỉ mất đi khi những cơ sở kinh
tế-xã hội, thậm chí là cả cơ sở tâm lý, nhận thức cho sự tồn tại của nó khơng cịn nữa.
Nghĩa là khi nào những cơ sở cho sự tồn tại của tơn giáo "khơng cịn gì để phản ánh
nữa, như Ph. Ăngghen đã chỉ ra, thì khi ấy tơn giáo sẽ mất đi. Trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với thế giới tự nhiên còn nhiều điều chưa thể đạt đến sự hợp lý, đặc biệt mặt trái
của cơ chế thị trường, như tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, những rủi ro, bệnh tật,
mơi trường sinh thái bị hủy hoại,... vẫn còn là cơ sở khách quan cho tôn giáo tồn tại và
phát triển trên những phạm vi nhất định. Do đó, tơn giáo vẫn cịn tồn tại, khó có thể
đốn định được "tuổi thọ” của tôn giáo, song chắc chắn rằng tôn giáo vẫn là một thực
thể tồn tại trong chủ nghĩa xã hội4.
Như vậy, với cách nhìn mới, Đảng ta khẳng định tơn giáo cịn tồn tại lâu dài,
khơng thể đơn giản cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người đã
khám phá, chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật chất ngày một tăng, tức là đã
giải quyết được nguồn gốc tự nhiên. Đây là một nhận định mang tính khoa học và cách

2


mạng sâu sắc của Đảng, phản ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại và phát
triển của tín ngưỡng, tơn giáo.
Khơng dừng lại ở việc thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta còn khẳng định những điểm "tương đồng" giữa lý tưởng của
tôn giáo với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 25 chỉ rõ: "Mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó
đồng bào các tơn giáo với mục tiêu chung"5. Đây là một luận điểm mới có giá trị lý
luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn nét đặc sặc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hố,
đạo đức của các tơn giáo với mục tiêu của công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta.
Một mặt, quan điểm này làm thất bại những âm mưu tuyên truyền xuyên tạc của các
thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn giáo, vi phạm nhân quyền,
dân chủ, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Mặt khác, hạn chế mặt tiêu cực,
phát huy mặt tích cực của các tôn giáo tạo cơ sở cho sự đồng thuận xã hội. Mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" chính là điểm tương
đồng, là mạch kết nối, nơi gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong tôn giáo với giá trị nhân
văn của chủ nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của khối đại đồn kết dân
tộc trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Tín ngưỡng hay khơng tín ngưỡng là quyền tự
do lựa chọn của mỗi công dân. Phấn đấu cho sự phồn vinh của Tổ quốc và hạnh phúc
của nhân dân là lý tưởng thiêng liêng chung cho mọi người, là mục tiêu mà công cuộc
xây dựng xã hội mới của chúng ta đang hướng tới, đồng thời cũng chính là ước vọng
mà các tơn giáo theo đuổi. Đó chính là mẫu số chung để gắn kết đồng bào các tơn giáo
với tồn thể nhân dân trong khối đại đồn kết dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Mục đích cao cả của Phật Thích ca và Chúa
Giêsu đều giống nhau: Thích ca và Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc,
bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng"6. Còn: "Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua
tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín

ngưỡng tự do. Như thế những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh
thần Phúc âm"7. Kế thừa tư tưởng ấy, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ: "Giáo dục truyền
thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc, làm cho các tôn giáo
gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc"8.
Mỗi tơn giáo đều có những hạt nhân triết học hợp lý, có giá trị nhân văn sâu sắc,
như đức "từ bi" của Phật giáo, lòng "nhân nghĩa" của đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa
Hảo, tư tưởng "bác ái" của đạo Kitô, truyền thống uống nước nhớ nguồn, lịng tự hào,
tự tơn dân tộc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đó chính là chân giá trị mà nhân loại
cũng như dân tộc ta luôn hướng tới. Hồ Chủ tịch đã đúc kết một cách sâu sắc những
3


giá trị đạo đức của các tôn giáo lớn. Người viết: "Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái.
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” 9. Đại đa
số đồng bào tơn giáo ở nước ta đều có tinh thần u nước, đồng hành cùng dân tộc
trong quá trình chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước, tham gia vào xây dựng và
giữ gìn bản sắc dân tộc, đó là chủ nghĩa yêu nước, dân tộc và quốc gia có chủ quyền.
Để phát huy được những điểm tương đồng ấy đòi hỏi phải kết hợp một cách biện
chứng giữa lợi ích chung của sự phát triển đất nước với lợi ích cụ thể của đồng bào có
đạo trên cả hai mặt đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu về đời
sống tâm linh tơn giáo. Đây chính là động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước
trong đồng bào các tôn giáo nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội và phương châm,
định hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật của các tôn giáo. Phát huy
những điểm tương đồng, hướng về mục tiêu chung của công cuộc đổi mới đất nước có
tác dụng huy động sức mạnh tiềm năng của đồng bào các tôn giáo, tăng cường khối đại
đồn kết tồn dân tộc, giúp đồng bào các tơn giáo đấu tranh chống các thế lực lợi dụng
tôn giáo gây mất đồn kết dân tộc, đồn kết tơn giáo.
Việc Đảng ta chỉ rõ đồng bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, cũng có nghĩa là đã khẳng định đồng bào các tôn giáo là một bộ phận

không thể tách rời của khối đại đồn kết tồn dân tộc trong q trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trước khi trở thành tín đồ của một tôn giáo, họ là công dân của nước
Việt Nam, cùng chung lo tới vận mệnh của dân tộc. Đảng ta khẳng định thực hiện nhất
quán chính sách tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, quyền được sinh hoạt tơn
giáo bình thường theo đúng pháp luật của đồng bào có đạo và sự bình đẳng giữa các
tơn giáo. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo trước hết là tạo điều kiện, đảm
bảo cho quần chúng có đạo được tham gia sinh hoạt tơn giáo bình thường theo đúng
pháp luật. Mặt khác, phải chăm lo đến lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng đặc
thù này. Nghĩa là phải chủ động giải quyết kịp thời những nhu cầu sinh hoạt tín
ngưỡng chính đáng của đồng bào có đạo đúng với pháp luật. Trong đó, quan trọng
nhất là chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
Hai là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng
ta về vấn đề tôn giáo.
Trước đây, tôn giáo thường tiếp cận từ hai góc độ tư tưởng triết học và chính trị
với hai định nghĩa mang tính kinh điển: "tơn giáo là hình thái ý thức xã hội" và "tơn
giáo là thuốc phiện của nhân dân". Đó là hướng tiếp cận đúng, nhưng chưa đủ theo
quan điểm mới của Đảng ta về vấn đề tơn giáo. Bởi vì, tơn giáo không chỉ là triết học
(một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan),
không chỉ là vấn đề chính trị (bị các thế lực chính trị xấu lợi dụng), mà tơn giáo cịn là
4


lịch sử (phản ánh tiến trình lịch sử của nhân loại), là nhận thức (giải thích về thế giới
và con người), là văn hóa (góp phần hình thành nên những nền văn minh và nếp sống
văn hóa của lồi người), là đạo đức (góp phần điều chỉnh hành vi của con người hướng
tới những giá trị chân, thiện, mỹ)10, là lối sống (góp phần hình thành lối sống của
những người có đạo) và tơn giáo là một thực thể xã hội (có lực lượng tín đồ hùng hậu,
có tổ chức giáo hội, tơn giáo chân chính góp phần vào củng cố cộng đồng và sự ổn
định xã hội) v.v.

Như vậy, với quan điểm nhìn nhận mới, Đảng ta khơng chỉ bó hẹp tơn giáo trong
khn khổ của tư tưởng triết học và chính trị mà đa diện hơn đúng với sự tồn tại và
phản ánh của nó. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện tầm sâu trong
tư duy nhận thức lý luận của Đảng ta về vấn đề tơn giáo. Điều đó đã khẳng định rõ thái
độ của những người cộng sản Việt Nam về sự tôn trọng nhu cầu đời sống tâm linh của
nhân dân, một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có đạo, thể hiện sự quan
tâm và bảo đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng bào các tôn giáo. Việc tôn trọng,
bảo đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng
giống như việc bảo đảm các quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức
khoẻ, tự do, nhân quyền, dân chủ v.v.
Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền
thống tốt đẹp của tơn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Luận điểm này là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong cách
mạng dân tộc, dân chủ, nhưng được bổ sung, phát triển làm sâu sắc hơn trong thời kỳ
đổi mới. Tơn giáo trong q trình tồn tại và phát triển ln bộc lộ hai mặt tích cực và
tiêu cực. Trước đây, do yêu cầu của cách mạng cần phải tập trung cho nhiệm vụ đấu
tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống
phá cách mạng nên chúng ta thường nhấn mạnh đến mặt tiêu cực, hạn chế của tôn
giáo, như tư tưởng yếm thế, ru ngủ con người. Nhưng quan điểm đổi mới của Đảng,
bên cạnh mặt hạn chế cần khắc phục, phải trân trọng và phát huy những giá trị tích cực
của tơn giáo, trong đó có mặt tích cực về đạo đức, văn hóa tơn giáo. Tơn giáo có chức
năng điều chỉnh hành vi xã hội của con người, hướng con người đến cái chân, thiện,
mỹ. Tín đồ các tôn giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau khi
chết, lo sợ bị trừng phạt hoặc bị "quả báo" nếu phạm tội hoặc làm điều ác nên đã có
hành vi đạo đức hướng thiện. Giáo lý giáo luật và những lời răn dạy của tôn giáo đã
tạo ra những quy phạm đạo đức hướng con người làm các việc thiện lành, tránh điều
ác, tu nhân tích đức để được giải thốt (theo quan niệm của Phật giáo), được lên thiên
đàng (theo quan niệm của Kitô giáo, Hồi giáo). Các tôn giáo không chỉ "thiêng hóa"
các quy phạm đạo đức mà cịn tạo ra dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi của tín đồ
hướng về cái thiện, bài trừ cái ác. Như vậy, đạo đức tơn giáo góp phần điều chỉnh hành

5


vi xã hội của con người. Thực tế cho thấy, ở những nơi tơn giáo ổn định, có đơng tín
đồ thì các tệ nạn xã hội ít hơn, trật tự ổn định và lối sống đạo đức nền nếp hơn11.
Tôn giáo, tín ngưỡng khơng đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh,
tinh thần, mà còn là vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống có những giá trị tốt đẹp mà công
cuộc xây dựng xã hội mới có thể tiếp thu. Điều ấy thể hiện một cách sâu sắc quan
điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội của
Đảng ta về vấn đề tôn giáo, một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm. Bên cạnh những hạn
chế, tôn giáo cũng chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý bởi tính nhân bản, nhân văn, hướng
thiện của nó, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tơn giáo có nhiều điều phù
hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới, góp phần bổ sung hồn thiện cho việc xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, mọi tôn giáo
chân chính đều đều răn dạy tín đồ hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội với chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta,
các tôn giáo đã và sẽ có sự điều chỉnh để thích ứng với xã hội mới. Đồng bào các tơn
giáo ngày càng tham gia tích cực hơn vào phong trào thi đua yêu nước xây dựng cuộc
sống "tốt đời, đẹp đạo". Quan điểm nêu trên của Đảng đã góp phần khơi dậy, động
viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp, mặt tích cực, điểm
tương đồng của tơn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát huy tinh thần yêu nước của đồng
bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc âm
mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tơn giáo, chức
sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tô quốc"12.
Bốn là, "giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ
tiên, tơn vinh những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân".
Quan điểm này hồn tồn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta

về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo. Lần đầu tiên nội hàm của tín ngưỡng được Đảng ta đề
cập tới một cách chính thức trong văn kiện của mình. Đây là quan điểm đúng đắn,
phản ánh rõ truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có cơng với làng, với
nước của nhân dân ta. Trong tâm thức của người Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tơn vinh
những có cơng với dân, với nước khơng đơn thuần chỉ là một loại hình tín ngưỡng mà
cao hơn đó cịn là một đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. Đó là một truyền
thống lâu đời đã ăn sâu trong tiềm thức, đời sống tâm linh, văn hóa, tinh thần của mỗi
người dân Việt Nam, trở thành một di sản văn hóa phi vật thể đậm đà bản sắc dân tộc,
thể hiện lịng tự tơn, tự hào dân tộc. Chính vì vậy, các tơn giáo ngoại nhập, kể cả
6


những tôn giáo độc thần như Công giáo khi vào Việt Nam cũng phải thừa nhận, tiếp
thu loại hình tín ngưỡng truyền thống này.
Việc Đảng ta thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền thống thờ cúng tổ tiên,
tôn vinh những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân, có một ý nghĩa hết sức quan
trọng có tác dụng to lớn, góp phần định hướng cho các tơn giáo đồng hành, gắn bó với
dân tộc. Mặt khác, việc phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ
tiên còn là nhân tố để khắc phục sự hẫng hụt, thiếu vắng trong đời sống tâm linh, văn
hố, tinh thần vốn là khoảng trống để các tơn giáo, nhất là các tà đạo phát triển. Đoàn
kết đồng bào các tơn giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống
thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân, đồng thời
phải nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo;
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách
của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh
quốc gia. Đó là những quan điểm mang tính biện chứng sâu sắc trong lĩnh vực tín
ngưỡng, tơn giáo, giữa xây dựng khối đồn kết tồn dân với việc chống sự phân biệt,
đối xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động gây rối; giữa giữ gìn, phát huy các
giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ các tệ nạn mê tín hủ tục nhằm bảo
đảm cho mơi trường sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh.

Từ những nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, Đảng ta đã nêu lên những quan
điểm mới về công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Một là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đế phá hoại cách
mạng.
Trong quan điểm này, Đảng ta nhấn mạnh đến hai nội dung rất quan trọng của
cơng tác tơn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tôn giáo của nhân dân và đấu tranh
chống sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Trên cơ sở xác định tôn giáo là
tình cảm, nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng ta chủ trương thực hiện
nhất quán chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân
dân. Mọi người được tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, "khắc phục nhận
thức thiển cận đối với tôn giáo và thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với
đồng bào có đạo”. Tín đồ các tơn giáo được tự do sinh hoạt tơn giáo tại gia đình và nơi
thờ tự theo nghi lễ truyền thống, "có kinh sách để tu học, có chức sắc hướng dẫn việc
đạo". Đặc biệt, Nghị quyết 24 đã mở ra việc giải quyết, công nhận về mặt tổ chức các
tôn giáo nếu hội đủ các điều kiện: có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tơn
chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp và luật pháp, chuẩn bị tốt về mặt nhân sự, . . . Sau khi
đã được công nhận, tổ chức tôn giáo được thực hiện đầy đủ theo Hiến chương, Điều lệ
(hoặc giáo luật), như tổ chức đại hội, hội nghị, việc đào tạo, phong chức, bổ nhiệm
7


chức sắc, xuất bản kinh sách, sản xuất đồ dùng việc đạo xây sửa cơ sở thờ tự, quan hệ
đối ngoại,... Đây là quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng để ứng xử cụ thể đối với từng
tôn giáo, một mặt tạo điều kiện cho các tôn giáo hợp pháp chăm lo đời sống sinh hoạt
của tín đồ, mặt khác đưa sinh hoạt tôn giáo vào khuôn khổ quản lý nhà nước, góp phần
loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tơn giáo.
Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, phải đấu
tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp
cách mạng. Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trước đây khi xâm lược nước ta,

các thế lực đế quốc đều tìm cách lợi dụng tơn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị
của chúng. Ngày nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để
chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy trong khi tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân, Đảng ta chủ trương phải cảnh giác đấu tranh với
những hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Hai nhiệm vụ này có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau. Giải quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín
ngưỡng, tơn giáo chính đáng của quần chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chế độ và sự nghiệp đổi mới đất nước, hiểu rõ
âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn tạo của các thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ
"tự giác đấu tranh chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của
mình, bảo vệ an ninh Tổ quốc". Ngược lại, khi làm tốt công tác đấu tranh chống địch
lợi dụng tôn giáo sẽ tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, không bị địch lợi
dụng để quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo.
Khi xác định mối quan hệ hữu cơ giữa hai nhiệm vụ trên, Đảng ta đã đặt vấn đề
giải quyết nhu cầu giáo của quần chúng trước việc đấu tranh chống địch lợi dụng tơn
giáo nhằm khắc phục tình trạng có nơi, có lúc khi tập trung chống địch lợi dụng tơn
giáo lại chưa quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của quần chúng, thậm chí có
nơi cịn đồng nhất quần chúng có đạo với các phần tử lợi dụng tơn giáo chống phá
cách mạng13. Điều đó vơ hình chung đã đẩy một bộ phận quần chúng có đạo về phía
các thế lực lợi dụng tơn giáo.
Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Đây là quan điểm thể hiện tư duy lý luận sâu sắc của Đảng ta về cơng tác quần chúng
nói chung, cơng tác tơn giáo nói riêng.
Khi nói nội dung cốt lõi của cơng tác tơn giáo là công tác vận động quần chúng,
Đảng ta muốn nhấn mạnh đến bản chất và vai trò quyết định của công tác vận động
quần chúng trong công tác tôn giáo; Suy cho cùng, công tác vận động quần chúng có
đạo là cơng tác đối với con người, đó là những con người-cơng dân-tín đồ. Họ là một
đối tượng quần chúng đặc thù, có điểm giống, nhưng cũng có điểm khác với các đối
tượng quần chúng khác. Ở họ, giữa con người cơng dân với con người tín đồ ln
8



quyện chặt vào nhau, bổ xung cho nhau không thể tách rời và luôn hướng tới "tốt đời,
đẹp đạo". Trong họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người cơng dân có
quyền lợi, nghĩa vụ với Tổ quốc và con người tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo,
với giáo hội của mình. Bởi vậy, cơng tác vận động quần chúng có đạo khơng đơn
thuần chỉ là cơng tác tun truyền giáo dục mà cịn là cơng tác tập hợp tín đồ các tơn
giáo trong các đồn thể quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công tác đối với các
chức sắc, nhà tu hành, các nhân sỹ trí thức trong các tơn giáo. Cơng tác vận động quần
chúng cịn là "tăng cường cơng tác giáo dục, y tế văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nâng cao
dân trí, nhất là ở những vùng đơng đồng bào có đạo", tức là phải chăm lo việc ăn, mặc,
ở, đi lại, giáo dục, y tế, hưởng thụ văn hóa,... để nâng cao đời sống dân sinh, trình độ
dân trí cho quần chúng. Về khía cạnh tơn giáo, cơng tác vận động quần chúng có đạo
phải thực hiện tốt chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
chứ không phải là tuyên truyền thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng để
"giải phóng" quần chúng khỏi "đám mây mù” tôn giáo; cũng không phải tốn thời gian
vào các cuộc tranh luận vơ bổ có hay khơng có Đấng tối cao, có hay khơng có Thiên
đường mà là vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc ngay trên thế gian này. Nói tóm lại, cơng tác vận động quần chúng có đạo là
làm cho đồng bào được "phần xác no ấm, phần hồn thong dong"14) như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy. Làm được điều đó cũng chính là đã tạo điều kiện để đồng bào có đạo
tích cực tham gia xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo", góp phần cùng tồn dân thực
hiện thắng lợi mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo.
Trên cơ sở xác định công tác tôn giáo mang nét đặc thù với sự tinh tế trong nhiều
mối quan hệ, khơng chỉ là giải quyết chính sách đối với tín đồ, ứng xử với chức sắc và
tổ chức giáo hội mà cịn là cơng tác đấu tranh chống địch lợi dụng tơn giáo, liên quan
đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng ta xác định
lực lượng làm công tác tôn giáo trong thời kỳ mới là tồn bộ hệ thống chính trị. Gồm

Đảng, chính quyền, mặt trận, các đồn thể chính trị,... Tồn bộ hệ thống chính trị tham
gia làm cơng tác tôn giáo, nhưng mỗi ngành tuỳ theo chức năng có những nhiệm vụ cụ
thể: Đảng giữ vai trị lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo thông qua chủ trương, đường
lối mang tính định hướng đối với tơn giáo nói chung và đối với từng tơn giáo cụ thể.
Đồng thời, thơng qua mặt trận và các đồn thể thực hiện công tác vận động quần
chúng xây dựng lực lượng cốt cán trong tín đồ, chức sắc. Các cấp chính quyền có trách
nhiệm thể chế hóa chủ trương của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật về tôn
giáo; thực hiện quản lý các hoạt động tôn giáo, đưa cáo hoạt động tôn giáo vào khuôn
khổ của pháp luật. Mặt khác, các cấp chính quyền cịn phải chăm lo đến đời sống vật
9


chất và tinh thần của tín đồ các tơn giáo bằng các chính sách phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội và đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tơn giáo nhằm làm lành mạnh
hóa các sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng. Mặt trận và các đồn thể tun truyền, vận
động quần chúng, đưa quần chúng tín đồ các tôn giáo theo từng giới, từng lứa tuổi
tham gia các đồn thể chính trị-xã hội, các đồn thể xã hội và các đoàn thể nghề
nghiệp khác15.
Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo (sinh hoạt động, truyền
đạo và quản đạo) phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật.
Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt quan trọng phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo ở nước ta ngày càng được mở rộng cùng với q trình đổi mới, dân
chủ hóa đời sống xã hội. Nhưng đồng thời cũng xuất hiện những vấn đế phức tạp trong
đời sống sinh hoạt tôn giáo cần được chấn chỉnh. Cùng với việc khẳng định quyền tự
do hoạt động tơn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm
các tổ chức, cá nhân chưa được nhà nước thừa nhận tư cách pháp nhân truyền đạo,
nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín
dị đoan, trục lợi cá nhân hay ép buộc người khác theo đạo. Điều đó khơng chỉ bảo đảm
cho hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình hình chính trị-xã hội
mà cịn bảo vệ các tơn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện tượng mê tín dị

đoan nhằm làm lành mạnh hố mơi trường sinh hoạt tơn giáo theo nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tơn giáo.
Hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo ln mang tính xã hội và ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, nó cũng phải tuân thủ và chịu sự
quản lý của nhà nước thế tục. Vì vậy, bất cứ một quốc gia nào dưới những hình thức
khác nhau đều có các chính sách hay pháp luật để quản lý các hoạt động tôn giáo, nhất
là hoạt động truyền giáo nhằm giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ các giá trị văn hóa
truyền thống của mình.
Có thể nói, những quan điểm đổi mới nêu trên đã từng bước được thể chế hóa
bằng chính sách, pháp luật của nhà nước, như Nghị định 69/HĐBT năm 1991 của Chủ
tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ); Nghị định 26 CP năm 1999 của Chính
phủ, đặc biệt Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo của UBTV Quốc hội (2004); Nghi định
22 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn
giáo; Chỉ thị số 01 (năm 2005) của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với
đạo Tin lành. Đó là những văn bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhằm giải quyết vấn
đề tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Theo đó, nhiều vấn đề cơ bản, quan trọng của các
tôn giáo đã cơ bản được giải quyết, như sinh hoạt tơn giáo của tín đồ; vấn đề đào tạo
chức sắc, in ấn kinh sách, đồ dùng việc đạo; vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự; đặc biệt vấn
đề thừa nhận tư cách pháp nhân về mặt tổ chức của các tôn giáo (đến nay đã có 12 tơn
10


giáo với 32 tổ chức, hệ phái tôn giáo đã được thừa nhận); vấn đề hoạt động từ thiện,
nhân đạo, văn hóa, xã hội, giáo dục y tế, đối ngoại,. . . của tơn giáo. Điều đó đã tạo nên
niềm tin tưởng, phấn khởi của đại đa số tín đồ, chức sắc các tơn giáo, có tác dụng động
viên, khuyến khích họ tích cực tham gia cơng cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta còn nhiều hạn chế, chưa thể
hiện đầy đủ những tư tưởng đổi mới của Đảng về vấn đề tôn giáo cũng như chưa phù
hợp với thực tiễn đời sống tôn giáo đang đặt ra ở nước ta trong thời kỳ mở rộng, hội
nhập quốc tế. Vì vậy, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện chính

sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng” 16. Đây là
vấn đề quan trọng nhất mà thời gian tới chúng ta cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.
Trên thực tế, nhất là Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo và Nghị định 22 của Chính phủ
hướng dẫn một số điều trong Pháp lệnh tín ngưỡng tơn giáo sau 6 năm đi vào thực tế
đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, cần phải chinh sửa, bổ sung, hoàn thiện và nâng cao
cho phù hợp với tình hình thực tế đời sống tơn giáo đang diễn ra. Do đó, bên cạnh
những vấn đề đã được khẳng định, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục hồn
thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín
đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước thừa nhận, đúng quy định của
pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi
dụng tín ngưỡng, tơn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết dân tộc”17.
Tóm lại, cùng với cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, dân chủ hóa đời sống
xã hội, Đảng và Nhà nước ta cũng từng bước xây dựng hồn thiện chính sách đổi mới
về công tác tôn giáo theo quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên,
nhiều vấn đề về chính sách, pháp luật cũng cần được bổ sung, hồn thiện tạo cơ sở
pháp lý cho cơng tác tơn giáo cũng như phù hợp với tình hình thực tế cũng như tạo
điều kiện cho các tơn giáo tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự ổn định và phát triển đất nước
trong điều kiện mới.

11


CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
Đối với vấn đề tôn giáo, chúng tơi thấy rằng:
- Thời đại nào cũng có tơn giáo, trong thời đại ngày nay, nhìn chung các tơn giáo
trên thế giới có sự biến đổi mạnh mẽ, đa dạng với những nét mới.
- Tôn giáo thuộc phạm trù ý thức hệ nhưng rất đặc biệt, bởi lẽ nó tồn tại xuyên

thời gian và không gian, là một lực lượng đáng kể trong một quốc gia và trong thời đại
ngày nay. Tôn giáo là một thành tố xã hội, văn hố, đạo đức mang tính cộng đồng.
Trong thời đại ngày nay, tôn giáo là một sức mạnh. Với các quốc gia đa dân tộc, có
nhiều tơn giáo sống đan xen. Việc xác định rõ đặc điểm, tính chất của thời đại càng có
ý nghĩa quan trọng. Trong nhiều vấn đề đặt ra của một quốc gia, vấn đề tôn giáo chiếm
giữ một vị trí rất quan trọng, bởi bản thân vấn đề ln ẩn chứa trong nó nhiều yếu tố,
có thể chi phối, tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thậm chí là
sù mất, còn; sự phát triển hay suy yếu của quốc gia, dân tộc.
- Thực tiễn đời sống tôn giáo ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, tôn giáo
không chỉ có vai trị tích cực đối với xã hội thơng qua các giá trị văn hố, đạo đức của
nó, mà tơn giáo cịn có nhiều giá trị tiến bộ và tích cực khác đối với ổn định xã hội,
đồn kết, khoan dung xã hội và sự phát triển bền vững. Tôn giáo cũng là một lực lượng
quan trọng để thúc đẩy mở rộng tình đồn kết hữu nghị giữa nhân dân các nước; tôn
giáo là lực lượng tham gia giải quyết các vấn đề có tính chất tồn cầu như: Bảo vệ môi
trường, chống chiến tranh, bá quyền, bạo lực, nghèo đói, thảm hoạ thiên tai, các căn
bệnh thế kỷ...
- Tơn giáo là nhân tố góp phần giữ gìn bản sắc văn hố của các dân tộc trong q
trình giao lưu, hội nhập phát triển và tồn cầu hố.
- Tơn giáo là nhân tố quan trọng tạo ra hệ giá trị xã hội vì tơn giáo là lực lượng xã
hội, có các hệ giá trị văn hố, đạo đức riêng để điều chỉnh hành vi, chuẩn mực, lối
sống... của đông đảo tín đồ.
Thơng qua các sinh hoạt, điều chỉnh hành vi, chuẩn mực của tu sĩ và tín đồ và
cùng với thời gian, tôn giáo sẽ tạo ra các hệ giá trị xã hội nhất định.
- Trong xu thế vận động chung của lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc phải tự xác
định được con đường đi riêng phù hợp với mình. Mỗi quốc gia cũng như có những tơn
giáo mang bản sắc riêng, phù hợp với đặc điểm, điều kiện, trình độ phát triển và truyền
thống văn hố của dân tộc mình, nhưng khơng tách rời xu thế vận động khách quan và
những giá trị, quy luật chung của nhân loại .
Trong sự vận động, phát triển của tôn giáo thời gian tới, chúng tôi thấy rằng:
- Cách mạng khoa học – công nghệ phát triển nhanh, mạnh và xã hội hóa cao sẽ

tác động sâu sắc khơng chỉ đến sản xuất kinh tế mà cả những vấn đề chính trị, xã hội,
trong đó có vấn đề tơn giáo.
12


- Q trình tồn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin đem lại nhiều sự thay đổi trong
quá trình hội nhập và quan hệ quốc tế. Các nước sẽ ngày càng mở rộng quan hệ giao
lưu, hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội...; các
luồng di cư, xuất khẩu lao động, các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hoá, khoa học,
giáo dục, đầu tư kinh doanh... giữa các quốc gia, các khu vực ngày càng được tăng
cường... Điều đó tạo ra sự đan xen và hội nhập văn hóa, kinh tế giữa các quốc gia dân
tộc. Trong xu thế tồn cầu hố, các tơn giáo có cơ hội, điều kiện khách quan để thâm
nhập và lan tỏa ra khắp thế giới. Trong xã hội tương lai sẽ khó có thể cưỡng lại sự cải
đạo, bỏ tôn giáo này theo tôn giáo kia hoặc cùng một lúc tin theo nhiều tôn giáo của
người dân trước một sự phát triển đa dạng và phong phú của tơn giáo.
- Cùng với q trình dân chủ hoá xã hội, sự phát triển của tự do cá nhân trong xã
hội mới, xu hướng thế tục hoá (nhập thế), dân tộc hoá và dân chủ hoá trong các tôn
giáo tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, kể cả đối với những tổ chức tơn giáo có tổ chức chặt
chẽ và giáo quyền mạnh mang tính tồn cầu như Vatican.
Bên cạnh những suy tư, nghiên cứu về mặt tâm linh, thần học, các tổ chức tơn
giáo sẽ tích cực và tăng cường phát huy thế mạnh sở trường của mình trong việc tham
gia vào các hoạt động chung của xã hội, nhất là tham gia xã hội hoá các hoạt động y tế,
văn hoá, giáo dục, nhân đạo từ thiện, bảo vệ mơi trường, phịng chống chiến tranh, bạo
lực,... Để thích nghi, tồn tại và phát triển phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hoá
của các dân tộc, tránh nguy cơ xung đột về mặt văn hoá, các tổ chức tơn giáo sẽ chủ
động dân tộc hố các suy tư thần học, giáo lý và các nghi thức sinh hoạt tơn giáo của
mình;
Bản thân các quy định, thứ bậc trong quan hệ nội bộ tổ chức tôn giáo, cũng như
trong quan hệ giữa chức sắc, nhà tu hành tôn giáo với tín đồ cũng được cải tiến theo

hướng ngày càng dân chủ hơn, tính thiêng và sự tơn sùng đối với các phẩm trật trong
giáo hội cũng giảm đi.
- Các tôn giáo trên thế giới sẽ khai thác xu thế tồn cầu hố, cũng như những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin để
đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo và phát triển tín đồ trong quốc gia dân tộc, trong
khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.
- Sự phát triển sức sản xuất, của khoa học công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức,
chạy đua vũ trang... từng bước dẫn đến trật tự thế giới mới. Vai trò của các nước có
tiềm lực kinh tế, quân sự và ưu thế chính trị, ngoại giao sẽ tác động mạnh mẽ và ảnh
hưởng không nhỏ đến các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề tơn giáo.
13


- Tồn cầu hóa, quốc tế hóa khơng làm lu mờ quốc gia, dân tộc. Xu hướng chung
là mỗi khu vực, mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều muốn vươn lên khẳng định vai trò
quốc gia, ý thức dân tộc và sức mạnh của dân tộc mình, nhất là sức mạnh mềm, trong
đó có vai trị của tơn giáo.
- Nhìn chung, các hoạt động tôn giáo sẽ sôi động và "sầm uất" hơn, nhất là các
hoạt động đối ngoại tôn giáo. Nếu có chính sách pháp luật tốt, phát huy được mặt tích
cực trong các tơn giáo thì các tơn giáo sẽ là yếu tố góp phần cho sự ổn định và phát
triển bền vững của mỗi quốc gia dân tộc, kể cả trong việc xây dựng con người mới, xã
hội mới nhân văn và tốt đẹp hơn.
- Thế kỷ XXI là thế kỷ có nhiều diễn biến phức tạp về tôn giáo và dân tộc. Trong
nhiều trường hợp vấn đề tôn giáo gắn kết với vấn đề dân tộc, khơng chỉ liên quan đến
nhân quyền, mà cịn là ngun nhân, nguyên cớ của những xung đột vũ trang. Vấn đề
tơn giáo trong điều kiện tồn cầu hố và cách mạng khoa học, công nghệ thông tin dễ
dàng vượt khỏi phạm vi quốc gia và trở thành vấn đề quốc tế. Do đó, chính sách pháp
luật về tơn giáo, dân tộc nếu không được xây dựng và thực hiện tốt, thường dễ bị lợi
dụng, kích động trở thành mâu thuẫn, thù hận, chia rẽ giữa các tơn giáo, thậm chí trở
thành xung đột xã hội dưới vỏ bọc tôn giáo.

Các thế lực xấu, cực đoan sẽ tiếp tục tìm cách lợi dụng tơn giáo để chia rẽ sự
đồn kết trong cộng đồng từng dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc, chống lại xu
hướng phát triển tiến bộ của lồi người, thậm chí thúc đẩy xu hướng ly khai...
Trong bối cảnh đó, chúng ta cần xây dựng hệ thống luật pháp như thế nào để tăng
cường được sự đoàn kết, khoan dung giữa các tôn giáo và phát huy được vai trị tích
cực của các tơn giáo trong đời sống xã hội? Từ kinh nghiệm thực tiễn, xin đề xuất một
số ý kiến như sau:
- Hệ thống luật pháp tôn giáo của mỗi quốc gia cần được xây dựng một cách dân
chủ, có sự tham gia ý kiến của tất cả các tôn giáo trong các giai đoạn của quá trình xây
dựng luật: giai đoạn dự thảo, thẩm định, ban hành và thực hiện.
- Hệ thống luật pháp đối với tơn giáo ngồi việc phản ánh và thể hiện đặc điểm,
điều kiện, bản sắc mỗi quốc gia, đồng thời thể hiện được các đặc điểm, nội dung và
tính chất của thời đại ngày nay. Trong đó cần chú ý điều chỉnh xu hướng thế tục hoá
(nhập thế), dân tộc hố và dân chủ hố của các tơn giáo trong thời đại ngày nay.
Để khẳng định tính dân tộc của tôn giáo, các quốc gia đều thông qua hệ thống các
chính sách pháp luật để điều tiết và dân tộc hoá các nội dung, nghi thức, phong cách
diễn tả và thể hiện đức tin của các tơn giáo, thậm chí cả giáo lý, giáo luật của các tôn
giáo.
- Hệ thống luật pháp phải thể hiện và đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng tơn
giáo của nhân dân, thực hiện sự bình đẳng giữa các tơn giáo (dù lớn hay nhỏ); không
14


phân biệt đối xử hay kỳ thị vì vấn đề có liên quan đến tơn giáo; đồng thời phát huy
được tư tưởng đồn kết, khoan dung giữa các tơn giáo, giữa tôn giáo với xã hội, giữa
tôn giáo và tự nhiên.
Pháp luật cần có các quy định cụ thể nhằm tăng cường sự giao lưu, chia sẻ, giúp
đỡ lẫn nhau giữa các tôn giáo trong cộng đồng; hỗ trợ và thúc đẩy các tơn giáo đồn
kết với nhau, cùng nhau hành động vì các vấn đề chung như: Xố đói giảm nghèo, bảo
vệ môi trường, cứu trợ thiên tai, bão lũ, chống khủng bố, chiến tranh, bá quyền, bạo

lực...
- Các tơn giáo chân chính, dù lớn hay nhỏ, dù có tính quốc gia, khu vực hay có
tính quốc tế... đều có mẫu số chung đó là hướng con người tới cái chân - thiện - mỹ
theo cách riêng của mình, đều đề cao sự khoan dung, đoàn kết cộng đồng, đó là điểm
tiến bộ, tích cực mà hệ thống luật pháp cần tính tới để điều chỉnh theo hướng phát huy
những điểm mạnh, tiến bộ của tơn giáo.
Với vai trị, tính chất, đặc điểm của tơn giáo trong thời đại ngày nay, cần nhận
thức khách quan và đúng đắn bản chất của tôn giáo; tôn trọng tự do tôn giáo và chủ
động phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức và những yếu tố tích cực khác của tơn
giáo trong đời sống xã hội, thực hiện đoàn kết các tơn giáo trong khối đại đồn kết
cộng đồng của các quốc gia dân tộc.
Hệ thống luật pháp cần chú ý điều chỉnh để phát huy vai trị của các tơn giáo
khơng chỉ ở các khía cạnh đạo đức, văn hố, mà còn ở một phạm vi tổng thể hơn trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là vai trị tơn giáo trong việc tham gia giải
quyết các vấn đề chung của dân tộc và tồn cầu như: Xố đói giảm nghèo, đồn kết và
ổn định xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, mở rộng và tăng cường tình
hữu nghị giữa nhân dân các nước; chống chiến tranh, khủng bố, áp bức bóc lột, bạo
lực, bất công...
Hệ thống luật pháp cần ưu tiên lấy các xu thế tích cực, tiến bộ trong tơn giáo để
khắc phục, hạn chế và đẩy lùi tư tưởng tôn giáo cực đoan hoặc lợi dụng tôn giáo vào
các hoạt động khủng bố, ly khai, chiến tranh và bạo lực... trong một nhóm nhỏ cực
đoan hay lực lượng xấu.
- Hệ thống luật pháp dù điều chỉnh các quan hệ xã hội, con người và trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phịng... song luật pháp phải định
hướng, xác định được bản chất, vai trò và quan hệ của tôn giáo trong mối quan hệ với
những lĩnh vực, vấn đề khác (kinh tế, chính trị, dân chủ hóa xã hội, văn hố, đạo đức,
đối ngoại...).
Bên cạnh đó, hệ thống luật pháp phải có tính răn đe, đấu tranh, trừng trị nghiêm
và có tính giáo dục cao đối với những tư tưởng, hành vi tôn giáo cực đoan, kích động
thù hằn, gây chia rẽ giữa các tơn giáo hay kỳ thị, phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo. Xử

15


lý nghiêm minh đối với những hành vi lợi dụng tơn giáo vào các mục đích tiêu cực, phi
nhân bản, chính trị cực đoan, trục lợi về kinh tế, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự
chung của cộng đồng và các quyền tự do khác của công dân và quyền của người khác.
Trong vấn đề đoàn kết và khoan dung tôn giáo, chúng tôi vui mừng thấy rằng,
trong lịch sử Việt Nam từ hàng nghìn năm nay, trên cơ sở một nền tảng văn hoá nhân
văn, khoan dung của dân tộc Việt Nam, các tôn giáo Việt Nam luôn có xu hướng đồn
kết, khoan dung, hồ đồng, khơng có mâu thuẫn đối kháng, dù là tôn giáo nội sinh hay
tơn giáo từ bên ngồi du nhập vào. Hàng nghìn năm trước, các tôn giáo lớn lúc bấy giờ
ở Việt Nam là Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo đã có xu hướng "Tam giáo quy
ngun" (tức là 3 tơn giáo cùng tồn tại hồ đồng, đồn kết, gắn bó với nhau, không kỳ
thị hoặc tranh chấp nhau) và hiện nay cũng vậy. Vào các ngày lễ lớn của tôn giáo hay
lễ tết của dân tộc Việt Nam, với sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam từ trung ương xuống địa phương, lãnh đạo của các tôn giáo đều tổ chức
nhiều hoạt động đi thăm hỏi, chúc mừng lẫn nhau, chia vui với nhau, mời cơm nhau
thân mật. Trong ngôi nhà chung đại đoàn kết toàn dân tộc của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các nhà lãnh đạo của 12 tôn giáo cùng ngồi trao đổi, bàn bạc và phối hợp thống
nhất hành động để xây dựng, phát triển đất nước, cùng phối hợp tham gia thực hiện các
hoạt động nhân đạo, từ thiện như: Xố đói, giảm nghèo; cứu trợ người dân vùng bị
thiên tai, bão lũ; nuôi dạy trẻ mồ côi; bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi của các nạn
nhân bị chất độc da cam/diôxin; chống chiến tranh, bạo lực, nghèo đói; chống phổ biến
vũ khí hạt nhân; phịng chống HIV/AIDS;...

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nxb CTQG, HN, 2011, tr.245.
2. Viện nghiên cứu Tôn giáo và tín ngưỡng: Lý luận về tơn giáo và chính sách
tơn giáo ở Việt Nam (tài liệu tham khảo), Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.323.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, HN, 1998, tr.67.
4. Nguyễn Thanh Xuân, “Trở lại những quan điểm đổi mới về công tác tơn giáo
của Nghị quyết 24”, tạp chí Cơng tác Tôn giáo, số 2, 2005, tr.8.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
trung ương khóa IX, Nxb CTQG, HN, 2003, tr.49.
6. Hồ Chí Minh: Về vấn đề tơn giáo tín ngưỡng. Nxb KHXH, HN, 1996, tr. 194.
7. Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 7, tr. 197.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành Trung
ương khóa IX, Nxb CTQG, HN, 2003, tr52.
9. Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 6, tr. 225.
10. Xem Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công
tác tôn giáo của Nghị quyết 24”, tạp chí Cơng tác Tơn giáo, số 2 (10/2005), tr. 7-8.
11. Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn
giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 8.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
sđd, tr. 245.
13. Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn
giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 9.
14. Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 10, Nxb CTQG, HN, 1996, tr. 606.
15. Xem Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công
tác tôn giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 10.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
sđd, tr. 245.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
sđd, tr. 245.


17



×