Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Thực trạng công tác chăm sóc người bệnh trầm cảm của điều dưỡng tại bệnh viện tâm thần phú thọ năm 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 52 trang )

NGUYỄN THỊ NHUNG

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NGUYỄN THỊ NHUNG

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHĂM SÓC
NGƯỜI BỆNH TRẦM CẢM CỦA ĐIỀU DƯỠNG
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN PHÚ THỌ
NĂM 2021

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - 2021

NAM ĐỊNH -2021


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ NHUNG

THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHĂM SĨC NGƯỜI BỆNH
TRẦM CẢM CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI
BỆNH VIỆN TÂM THẦN PHÚ THỌ NĂM 2021
Chuyên ngành: Chăm sóc sức khỏe tâm thần
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP



GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths.Vũ Thị Là

NAM ĐỊNH – 2021


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................. i
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................... ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................... iii
DANH MỤC HÌNH ẢNH ............................................................................. iv
ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH ..................................... 3
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 3
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 14
Quy trình chăm sóc người bệnh Trầm cảm; Quyển 01: Mã số QT.05.ĐD/2018.
(Ban hành kèm theo Quyết định số 423/QĐ-BV ngày 18/6/2018 v/v Ban hành
bổ xung quy trình điều dưỡng tại Bệnh viện)................................................ 17
Chương 2: MƠ TẢ TRƯỜNG HỢP ............................................................. 17
CHĂM SĨC NGƯỜI BỆNH TRẦM CẢM.................................................. 17
2.2. Thực trạng cơng tác chăm sóc người bệnh trầm cảm tại Bệnh viện Tâm
thần Phú Thọ 6 tháng đầu năm 2021. ........................................................... 19
2.3. Một số ưu điểm và tồn tại ...................................................................... 27
Chương 3...................................................................................................... 28
BÀN LUẬN ................................................................................................. 28
3.6. Bàn luận kết quả chăm sóc người bệnh .................................................. 35
3.9. Nguyên nhân của các tồn tại .................................................................. 37
3.10. Đề xuất giải pháp ................................................................................. 38
3.10.1. Giải pháp về quản lý ......................................................................... 38

3.10.2. Giải pháp về kỹ thuật ........................................................................ 38
3.10.3. Đối với gia đình người bệnh ............................................................. 39
KẾT LUẬN .................................................................................................. 41
ĐỀ XUẤT .................................................................................................... 43


i
LỜI CẢM ƠN
Trong q trình học tập và hồn thành chuyên đề tốt nghiệp tôi nhận được
sự giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo sau
đại học cùng các thầy cô giáo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã nhiệt
tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập.
Tơi xin chân thành cảm ơn đến Ban Lãnh đạo Bệnh viện, các cán bộ y tế
trong Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ đã giúp đỡ, chia sẻ cho tôi những kinh
nghiệm quý báu trong thời gian tôi học tập và làm chuyên đề.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Thạc sỹ Vũ Thị Là - Trưởng Bộ môn Điều
dưỡng cơ sở đã giúp đỡ, hướng dẫn tơi trong suốt thời gian tơi thực hiện và
hồn thành chuyên đề này.
Tôi xin chân thành cảm ơn người bệnh, gia đình người bệnh đã thơng cảm
tạo điều kiện cho tôi được thăm khám tiếp xúc, lắng nghe và thực hiện nghiêm
túc những lời khuyên dành cho họ.
Tôi xin được cảm ơn các bạn trong lớp Chuyên khoa I, khóa 8 hệ 2 năm
đã cùng vai sát cánh với tơi để hồn thành tốt chun đề này.
Xin chân thành cảm ơn!


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là báo cáo của riêng tôi. Các kết quả trong chuyên

đề là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Phú Thọ, ngày 30 tháng 6 năm 2021
Học viên

Nguyễn Thị Nhung


iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NB

Người bệnh

NNNB

Người nhà người bệnh

NVYT

Nhân viên y tế


iv

DANH MỤC HÌNH ẢNH
Ảnh 1: Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ
Ảnh 2: Bác sỹ, ĐD Thăm khám, động viên người bệnh
Ảnh 3: Bs, ĐD chơi thể thao với người bệnh
Ảnh 4: Thực hiện y lệnh thuốc tại buồng tiêm.

Ảnh 5: ĐD chăm sóc bữa ăn, giấc ngủ cho người bệnh.
Ảnh 6: ĐD phối hợp với salon cắt tóc và vệ sinh cho người bệnh
Ảnh 7: Bác sỹ, điều dưỡng TT-GDSK cho NB tại BV


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một bệnh lý của cảm xúc, khi bị trầm cảm người bệnh cảm
thấy nặng trĩu một nỗi buồn vơ cớ, khơng gì làm cho họ khuây khoả và vui lên
được. Tất cả cảm xúc của họ đều mang dấu tích của tình trạng khơng lối thốt,
khơng thể nào hàn gắn được. Những cảm xúc và lời nói của người bệnh đều
kèm theo cảm giác bản thân hèn kém, mắc một tội lỗi nào đó. Cuộc sống quá
khứ của họ là một loạt dày đặc những khuyết điểm và tội nặng, họ có thể gây
nhiều điều cay đắng và tai hại cho những người thân ruột thịt, hàng xóm của
mình.
Theo đánh giá mới của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2017 về trầm
cảm thì số người mắc bệnh trầm cảm tăng lên 18% từ năm 2005 đến năm 2015
[11]. Ngoài ra trầm cảm là nguyên nhân lớn nhất của khuyết tật trên toàn thế
giới. Hơn 80% gánh nặng bệnh tật này là những người sống ở những nước có
thu nhập thấp và trung bình [11]. Chính vì vậy mà WHO đã chọn trầm cảm là
chiến dịch của ngày sức khoẻ thế giới (7/4/2017) với chủ đề “ Depression Let’s talk” tạm dịch là “ Trầm cảm - Hãy cùng trò chuyện” nhằm nâng cao nhận
thức của người dân trên toàn thế giới về bệnh trầm cảm, qua đó nâng cao được
cách phịng chống bệnh trầm cảm cho người dân [11]. Qua đây ta có thể thấy
được tầm quan trọng và mối nguy hiểm của bệnh trầm cảm tới cuộc sống của
nhân dân trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ước tính của
WHO năm 2015 thì trên tồn thế giới có khoảng 322 triệu người có rối loạn
trầm cảm, trong đó khu vực Đông Nam Á chiếm cao nhất tới 27% trong tổng
số các bệnh nhân trầm cảm [13]. Tại Việt Nam, tỷ lệ rối loạn trầm cảm chung
là 3-5%.
Theo bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và

hành vi (ICD-10, 1992), trầm cảm là một hội chứng bệnh lý của rối loạn cảm
xúc biểu hiện đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất mọi quan tâm thích thú, giảm
năng lượng dẫn tới sự tăng mệt mỏi và giảm hoạt động, phổ biến là mệt mỏi rõ
rệt chỉ sau một cố gắng nhỏ, tồn tại trong một khoảng thời gian kéo dài ít nhất


2
là 2 tuần [13]. Có tới 75% số trường hợp tự sát liên quan đến trầm cảm, trong
đó 2/3 là trầm cảm có loạn thần và 10-15% bệnh nhân đã tự sát thành công [4].
Đến nay hiểu biết về bệnh trầm cảm cịn hạn chế, khi có biểu hiện trầm
cảm thường không phát hiện được hoặc phát hiện được nhưng không được đưa
đến bệnh viện để điều trị kịp thời, từ đó kéo theo hệ lụy xã hội vơ cùng lớn.
Hiện nay người bệnh (NB) có rối loạn trầm cảm ngày càng gia tăng, trở
thành một vấn đề lớn của xã hội cần phải tập trung giải quyết. Đây không phải
là vấn đề riêng của ngành y tế mà đòi hỏi sự tham gia của toàn cộng đồng và
xã hội.
Thực tế NB trầm cảm ở Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ được chăm sóc hồn
tồn bởi nhân viên y tế tại 04 khoa lâm sàng. Để thấy được cái nhìn tổng quan
về cơng tác chăm sóc người bệnh trầm cảm tại Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ
cũng như có các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc người
bệnh trầm cảm tơi tiến hành nghiên cứu chun đề : “Thực trạng cơng tác
chăm sóc người bệnh trầm cảm của điều dưỡng tại Bệnh viện Tâm thần
Phú Thọ năm 2021”, nhằm mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng công tác chăm sóc người bệnh trầm cảm tại Bệnh viện
Tâm thần Phú Thọ năm 2021.
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả chăm sóc người bệnh trầm
cảm tại bệnh viện Tâm thần Phú Thọ


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm trầm cảm
Trầm cảm là một tình trạng bệnh lý mà người bệnh cảm thấy mệt mỏi,
buồn bã chán nản, thấy cuộc sống vô nghĩa, không có hứng thú, khơng thiết
sống, khơng có hy vọng, họ mất tự tin, cảm thấy mình thấp kém và bất lực.
Theo Nguyễn Việt (1984), cơn trầm cảm thường xuất hiện sau một sang chấn
tâm thần, một hoàn cảnh xung đột, sau những nhân tố làm suy yếu cơ thể. Cũng
có thể tự phát xảy ra. Cơn thường hình thành từ từ trong nhiều tuần với hội
chứng suy nhược và khi sắc ngày càng giảm. Cuối cùng hội chứng trầm cảm
xuất hiện đầy đủ với bộ ba triệu chứng sau: Cảm xúc bị ức chế; tư duy bị ức
chế; hoạt động bị ức chế.
1.1.2. Các yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm và ảnh hưởng của
rối loạn trầm cảm đến cuộc sống.
1.1.2.1. Các sự kiện trong cuộc sống và các stress từ môi trường
Các nghiên cứu hiện nay cho rằng rối loạn trầm cảm có liên quan đến
các sự kiện gây stress. Những yếu tố gây stress chủ yếu là sự mất mát, những
biến cố bất lợi liên quan đến các điều kiện sống và hành vi của cá nhân, gia
đình cũng như các bệnh cơ thể mạn tính khác nhau. Tất cả những yếu tố gây
stress và những biến cố trong cuộc sống tích luỹ dần, gom góp lại một cách
mạn tính gây ra sự quá tải về tâm lý làm cho bệnh xuất hiện từ từ và tiến triển
làm cho thay đổi nhiều hoạt động thần kinh cấp cao là nguyên nhân gây nên
trầm cảm. Một nghiên cứu ở những người bệnh lupus ban đỏ cho thấy tỷ lệ
bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm và loạn thần chiếm 43% các bệnh nhân lupus
đến điều trị. Đặc điểm lâm sàng trầm cảm: thường gặp là các biểu hiện trầm
cảm (43,8%), giai đoạn trầm cảm nhẹ 18,7%. Nghiên cứu ở Thái Lan về bệnh
nhân đột quỵ liên quan đến trầm cảm cho kết quả là trong 200 người bị đột quỵ
có tuổi trung bình từ 62,1±12,5 tuổi được theo dõi trong 12 tháng sau khi đột



4
quỵ thì có 21% số người mắc trầm cảm. Theo nghiên cứu của Đặng Hồng Hải
tại thành phố Hồ Chí Minh, các yếu tố liên quan đến trầm cảm như ly thân, ly
dị là 11,5%. Tỷ lệ trầm cảm ở người thất nghiệp là 8,7%. Tỷ lệ người có thu
nhập thấp liên quan đến trầm cảm là 13,3%. Tại Ấn Độ, nghiên cứu trên sinh
viên cho kết quả 37,7%, 13,1% và 2,4% học sinh bị trầm cảm vừa phải, nặng
và trầm trọng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những sinh viên có quan điểm tích
cực về mơi trường học tập và mơi trường sống có trầm cảm thấp hơn so với các
sinh viên khác.
1.1.2.2. Nhân cách tiền bệnh lý
Những người có đặc điểm nhân cách dễ bị tổn thương như lo âu, tránh
né, dễ phụ thuộc, cảm xúc không ổn định, ám ảnh và phơ trương thì có nguy cơ
cao dễ bị trầm cảm. Tuy nhiên bất cứ kiểu nhân cách nào cũng có khả năng bị
trầm cảm trong hồn cảnh khó thích ứng. Tiền sử bệnh nhân có nhân cách bất
thường là nhân cách khép kín mắc trầm cảm chiếm tỷ lệ cao 22,62%.
1.1.2.3. Lý thuyết nhận thức và hành vi
Rối loạn trầm cảm diễn ra ở những người có suy nghĩ lệch lạc, những ý
nghĩ tiêu cực tự động thuộc về hiện tại, kể cả tiên đoán về tương lai, kết hợp
với cảm xúc âm tính, phát sinh nỗi buồn trong óc, hình thành trầm cảm với 5
triệu chứng chính: Triệu chứng hành vi, sự rút lui về mặt xã hội; triệu chứng về
động cơ, thiếu quan tâm thích thú, mất động cơ sống; triệu chứng về cảm xúc,
nỗi buồn tội lỗi, xấu hổ, lo lắng; triệu chứng về nhận thức, sự kém tập trung,
càu nhàu, tự ti; triệu chứng cơ thể, sự ít ngon miệng, ngủ kém, sút cân.
1.1.2.4. Giới tính
Ở hầu hết các quốc gia, khơng phân biệt về văn hoá, đều thấy rằng tỷ lệ
trầm cảm ở nữ cao hơn ở nam. Lý do của sự khác biệt này có thể do khác nhau
về hormone và do phụ nữ phải sinh con, cũng như sự khác biệt về yếu tố chấn
thương tâm lý xã hội khác nhau ở nam và nữ. Ở tuổi thiếu niên thì nam và nữ
có tỷ lệ trầm cảm bằng nhau. Nhiều nữ bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm

xấu đi đáng kể khi sắp có kinh nguyệt, sau đó các triệu chứng trầm cảm lại nhẹ


5
đi. Nghiên cứu ở bệnh nhân trầm cảm nặng cho thấy, trầm cảm nặng ở nữ giới
chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, tỷ lệ nam/nữ là 1/1,55.
Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Cao (2011) ở Bắc Cạn cho thấy tỷ lệ trầm
cảm ở nữ cao hơn ở nam (8,3% và 1,6%). Các yếu tố liên quan đến rối loạn
trầm cảm ở các đối tượng nghiên cứu: nữ giới (67.05%) là kết quả nghiên cứu
tại Huế.
Vấn đề sinh con ở phụ nữ cũng là một sự khác biệt lớn đối với nam giới.
Trầm cảm sau sinh ở phụ nữ Thái Lan là 8,4%. Các yếu tố độc lập liên quan
đến tỷ lệ trầm cảm sau sinh bao gồm sức khoẻ bà mẹ, xung đột hôn nhân, gánh
nặng kinh tế, các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống, và trầm cảm trước đây.
Hỗ trợ từ gia đình họ là một yếu tố bảo vệ từ trầm cảm sau sinh. Theo nghiên
cứu của Lê Thị Thanh Thuỷ (2015), phụ nữ Việt Nam cũng bị trầm cảm sau
sinh với mức độ tương đương các nước khác trên thế giới khi 15,5% phụ nữ có
những biểu hiện trầm cảm sau sinh.
1.1.2.5. Tuổi
Trầm cảm có thể khởi phát bệnh ở bất kỳ lứa tuổi nào, từ tuổi thiếu niên
đến tuổi già. Hay bị trầm cảm nhất là độ tuổi 40. Tỷ lệ trầm cảm cao nhất ở
nhóm tuổi 25-44, nhưng sau tuổi 65, tỷ lệ trầm cảm giảm dần ở cả nam và nữ.
Khoảng 50% trong tất cả các trường hợp trầm cảm có khởi phát bệnh trong
khoảng từ 20 đến 50 tuổi. Các số liệu nghiên cứu gần đây đầu cho rằng tỷ lệ
trầm cảm đang tăng lên ở lứa tuổi dưới 20. Điều này có thể liên quan đến việc
gia tăng sử dụng rượu và ma tuý trong nhóm tuổi này. Ở Thái Lan, trong một
nghiên cứu về trầm cảm ở tuổi vị thành niên, 34,9% tất cả người trả lời có biểu
hiện triệu chứng trầm cảm: 27,6% nam giới và 40,4% phụ nữ. 26% thanh thiếu
niên cho biết họ có chất lượng cuộc sống kém. Cũng một nghiên cứu ở Thái
Lan, tỷ lệ trầm cảm ở những người trong độ tuổi từ 45 tuổi đến 88 tuổi là 29,2%,

một tỷ lệ rất cao. Tại Singapore, trầm cảm người cao tuổi là 3,7%, tỷ lệ này cao
hơn rõ rệt ở những người từ 75 đến 84 tuổi so với những người từ 60 đến 74


6
tuổi. Nghiên cứu ở Bắc Cạn cho thấy, nhóm học sinh sinh viên cũng là nhóm
đứng vào tốp có tỷ lệ mắc trầm cảm cao.
1.1.2.6. Tình trạng hơn nhân
Rối loạn trầm cảm chủ yếu rất thường xuyên ở những người khơng có
mối quan hệ tốt với người khác. Những người đã ly hơn, ly thân hoặc gố bụa
rất hay bị trầm cảm. Bệnh nhân có vấn đề hơn nhân liên quan đến trầm cảm
chiếm 17,86% (trong đó ly thân là 10,71%).
1.1.2.7. Tình trạng kinh tế văn hố
Khơng có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế và trầm cảm chủ yếu.
Nghĩa là trầm cảm chủ yếu có thể gặp ở bất kỳ tầng lớp nào trong xã hội, từ
người giàu đến người nghèo, nhưng điều đáng ngạc nhiên là trầm cảm phổ biến
hơn ở vùng nông thôn so với vùng thành thị. Bệnh nhân mắc trầm cảm có hồn
cảnh kinh tế quá khó khăn chiếm tỷ lệ 35,71%, làm ăn thua lỗ chiếm 29,24%,
thường xun khơng có cơng ăn việc làm chiếm 20,24%. Theo Nguyễn Hữu
Kỳ (2001), các nhân tố thúc đẩy rối loạn trầm cảm lo âu như trong gia đình
đơng con, xung đột vợ chồng, xung đột giữa cha mẹ với con cái, cũng có ý
nghĩa thúc đẩy rối loạn trầm cảm và lo âu phát triển, chiếm tỷ lệ 3,23 – 77,42%.
Điều kiện kinh tế khó khăn (94,32%).
Văn hố có thể ảnh hưởng đến biểu hiện của các triệu chứng trầm cảm.
Ở các dân tộc có các nền văn hố khác nhau thì bệnh cảnh lâm sàng của trầm
cảm cũng khơng hồn tồn giống nhau. Với nền văn hố này thì bệnh nhân có
thể có nhiều triệu chứng bị kích thích hơn, trong khi bệnh nhân ở nền văn hố
khác có thể biểu hiện triệu chứng buồn bã và bị cô lập rõ hơn. Nghiên cứu ở
Thái Lan cho thấy có mối liên quan giữa trầm cảm và nơi sinh của thanh thiếu
niên (p<0.02). Tại Trung Quốc, tỷ lệ trầm cảm phân bố không đồng đều giữa

các vùng miền.
1.1.2.8. Các bệnh mạn tính
Rối loạn trầm cảm cũng thường hay gặp ở những bệnh nhân có các bệnh
nội khoa kèm theo. Các bệnh nội khoa mạn tính dai dẳng, hay tái phát những


7
đợt cấp tính làm bệnh nhân khơng hỏi suy nghĩ lo lắng về tình trạng bệnh của
mình. Theo Trần Hữu Bình (2007), rối loạn trầm cảm hay gặp ở các bệnh lý
chức năng tim mạch (32%), tiêu hoá (28%), thần kinh (16%), và cơ xương khớp
(14%). Rối loạn chức năng của các cơ quan là thường xuyên và kéo dài làm
cho bệnh nhân khó chịu , họ thường xuyên đến khám và điều trị nhiều tháng
nhiều năm tại các chuyên khoa đó nhưng ít có kết quả. Nghiên cứu tại Huế
(2006) cho kết quả 53,41 % những người mắc trầm cảm có bệnh cơ thể. Tại
Nhật Bản, tỷ lệ trầm cảm ở bệnh nhân ngoại trú mắc bệnh tim mạch là 5,6%.
Mắc các bệnh cơ thể (53.41%), các sàng chấn tâm lý (68,18%).
1.1.2.9. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp cũng là một yếu tố liên quan đến trầm cảm. Những người
làm công việc khác nhau, các ngành nghề khác nhau cho thấy tỷ lệ mắc trầm
cảm cũng khác nhau. Tỷ lệ trầm cảm ở nữ công nhân làm trong các nhà máy
công nghiệp điện tử là 28,8%. Phân tích hồi quy hậu phân tích cho thấy những
người có mối quan hệ gia đình nghèo, khen thưởng thấp và hỗ trợ xã hội nghèo.
Nghiên cứu các triệu chứng trầm cảm của các nhân viên làm việc trong ngân
hàng cho thấy tỷ lệ hiện mắc các triệu chứng trầm cảm là 32%, khơng có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ.
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng của trầm cảm
1.1.3.1. Rối loạn trầm cảm điển hình
Biểu hiện khởi phát: Thường bệnh khởi phát từ từ bằng các dấu hiệu
bệnh nhân cảm thấy suy nhược, mệt mỏi, khó tập trung khi làm việc, ngại tiếp
xúc, chậm chạp trong hoạt động rút, khỏi các hoạt động xã hội thường lệ, trí

nhớ nghèo nàn, dễ bị kích thích và rối loạn giấc ngủ (thường thức giấc sớm).
Biểu hiện tồn phát: Trạng thái trầm cảm điển hình được biểu hiện bằng
sự ức chế các hoạt động tâm thần, nổi bật là cảm xúc bị ức chế, tư duy bị ức
chế, hoạt động bị ức chế và các triệu chứng cơ thể (xem phần triệu chứng)
1.1.3.2. Trầm cảm khơng điển hình


8
Tuỳ theo cấu trúc lâm sàng và sự nổi bật của một loại triệu chứng nào
đó, chia ra các thể loại lâm sàng như sau:
Trầm cảm uể oải (Trầm cảm suy nhược): Trên nền tảng khí sắc giảm,
nổi bật lên sự suy yếu, mệt mỏi, mất sinh lực, mất khả năng hưng phấn thích
thú, lạnh nhạt với xung quanh, suy nhược cả về thể chất và tinh thần.
Trầm cảm kích thích: Khí sắc giảm, khơng giảm vận động mà kích thích, vật
vã kèm theo lo âu. Bệnh nhân bồn chồn, không thể đứng ngồi một chỗ, rên rỉ, than
vãn về tình trạng của mình, có thể kích động địi tự sát. Trong cơn xung động trầm
cảm nặng có thể tự sát rất nhanh chóng hoặc giết người rồi tự sát.
Trầm cảm mất cảm giác tâm thần: Hình ảnh lâm sàng chủ yếu là mất
cảm giác về tâm thần, khơng cịn cảm giác đau đớn, vui buồn, mất phản ứng
cảm xúc thích hợp. Bệnh nhân cảm giác rất đau khổ vì tình trạng đó.
Trầm cảm với hoang tưởng tự buộc tội: Người bệnh tập trung vào khiển
trách, lên án bản thân. Họ cho rằng mình có những lỗi lầm, những sai trái địi
được trừng phạt như đồi bại, ăn bám, vơ trách nhiệm, có nhiều hành vi xấu xa
vi phạm đạo đức. Những lỗi lầm, sai phạm cũ trong quá khứ có thể bị đánh giá
q mức trong tình trạng trầm cảm.
Trầm cảm loạn khí sắc: Đi đơi với cảm giác buồn là sự cáu kỉnh, càu
nhàu, bực bội, không hài lòng lan tràn sang cả những người xung quanh, người
bệnh có khuynh hướng cục cằn, cơng kích.
Trầm cảm sững sờ: Ức chế vận động nặng nên biểu hiện lâm sàng chủ
yếu là hội chứng bất động, nét mặt sững sờ đau khổ, nước mắt lưng tròng.

Trầm cảm lo âu: Trên nền tảng khí sắc trầm, lo âu nổi lên chiếm vị trí
hàng đầu, thường bệnh nhân lo âu khơng có chủ đề, lo sợ chờ đợi rủi ro bất
hạnh không gắn vào bất kỳ một sự kiện nào đặt ra trong đời thường.
Trầm cảm với rối loạn cơ thể và thần kinh thực vật: Nổi bật trong bệnh
cảnh là các rối loạn thực vật nội tạng, suy nhược, loạn cảm giác bản thể như: Cơn
đánh trống ngực, dao động huyết áp, vã mồ hơi, chân tay lạnh, rối loạn trí nhớ, nơn,
chóng mặt... Nền tảng khí sắc giảm biểu hiện không rõ ràng, không than vãn buồn


9
phiền, khơng có ức chế tâm thần vận động. Thường nhận thấy dao động khí sắc khá
lên về buổi chiều. Nhiều trường hợp khác xuất hiện các triệu chứng cơ thể thay thế:
Đau vùng ngực dai dẳng, chóng mặt, rối loạn tiêu hố... Nhưng khơng phát hiện
được tổn thương thực thể tương xứng.
Vì khơng có biểu hiện trầm cảm rõ rệt, hình thái lâm sàng này cịn được
gọi là trầm cảm ẩn, trầm cảm che đậy, trầm cảm tương đương... Thể bệnh này
rất hay gặp trong lâm sàng ở hệ thống y tế cơ sở và thực hành đa khoa.
Trầm cảm với loạn cảm giác bản thể, giải thể nhân cách: Trầm cảm với
cảm giác khó chịu khơng xác định rõ ràng ở các cơ quan, bộ phận khác nhau
trong cơ thể, đầu óc nặng nề, cảm giác như rỗng tuếch hoặc đặc sệt như đất sét,
bị bóp thắt hoặc tù mù.
Trầm cảm ám ảnh: Hiện tượng ám ảnh được hình thành nổi lên trên nền
trầm cảm với các nội dung đa dạng: ám ảnh sợ chỗ đông người, sợ khoảng
trống, sợ lây bệnh hoặc sợ chết đột ngột... Thường xuất hiện trên những người
có nhân cách hồi nghi, lo âu.
Trầm cảm nghi bệnh: Trên nền tảng khí sắc giảm, bệnh nhân xuất hiện
những cảm giác rất khó chịu khác nhau và từ đó khẳng định rằng mình đã bị
mắc một bệnh nào đó trầm trọng, nan giải. Vì thế bệnh nhân thường kiên nhẫn
đi tìm sự giúp đỡ của các thầy thuốc chuyên khoa. Bệnh nhân chỉ được khám
xét về tâm thần sau khi đã nhiều năm theo dõi, điều trị ở nhiều chuyên khoa

khác nhau mà không hề tìm được dấu hiệu bệnh lý cơ thể nào tương xứng với
các than phiền về bệnh tật của bệnh nhân.
Trầm cảm Paranoide (trầm cảm hoang tưởng).
Liên quan với trầm cảm và nổi lên trong bệnh cảnh là những hoang tưởng
như: hoang tưởng bị theo dõi, bị truy hại, bị đầu độc, bị thiệt hại, buộc tội,
hoang tưởng liên hệ. Ngày nay ít gặp trầm cảm với hoang tưởng mở rộng
(hoang tưởng phủ định mang tính chất kỳ qi cịn gọi là hội chứng Cotard).
Trầm cảm ở trẻ em: Ở trẻ em, tuỳ theo lứa tuổi có biểu hiện trầm cảm
khác nhau. Trẻ sơ sinh có biểu hiện thờ ơ, bỏ bú, chán ăn, rối loạn phát triển


10
toàn thân, rối loạn giấc ngủ. Trẻ 7 tuổi thường biểu hiện thiếu nhiệt tình vui
chơi, tách rời xung quanh, khóc lóc, từ chối ăn, ít ngủ. Trẻ đi học biểu hiện
kích thích, buồn chán, hay than vãn mất quan tâm thích thú. Trẻ lớn hơn thường
kể về những thất vọng bản thân, lo âu và ý tưởng hành vi tự sát cũng phổ biến
hơn. Ở tuổi thanh thiếu niên, bệnh cảnh lâm sàng gần giống của người lớn.
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến bệnh trầm cảm
1.1.4.1. Giả thuyết về yếu tố di truyền
Các nghiên cứu gia đình cho thấy 50% số bệnh nhân rối loạn trầm cảm
có ít nhất một người cha hoặc mẹ mắc rối loạn trầm cảm. Nếu cha hoặc mẹ mắc
rối loạn trầm cảm thì 25% con cái họ mắc bệnh. Nếu cả hai bố mẹ cùng mắc
bệnh thì 50 - 75% các trường hợp có con mắc rối loạn trầm cảm. Đồng thời
nghiên cứu rối loạn trầm cảm ở các cặp sinh đôi cùng trứng cho thấy tỷ lệ rối
loạn cảm xúc lưỡng cực là 33 - 90% và rối loạn trầm cảm là 50%. Nghiên cứu
ở các cặp sinh đôi khác trứng thấy tỷ lệ rối loạn cảm xúc lưỡng cực là 5 25% và rối loạn trầm cảm là 10 - 15%. Một số nghiên cứu sâu hơn về gen
cho biết, có thể xác định được một số điểm đặc biệt về gen trên các nhiễm sắc
thể X, 5, 11, ở các gia đình có trầm cảm.
1.1.4.2. Giả thuyết về rối loạn các chất hố học dẫn truyền thần kinh
Có rất nhiều các nghiên cứu mới đây về cơ chế bệnh sinh của rối loạn

trầm cảm cho thấy sự liên quan của bệnh với hệ thống chất dẫn truyền thần
kinh trong hệ thần kinh trung ương. Các chất này bao gồm các mono - amine
của não như dopamine, noradrenaline và serotonine. Các thuốc IMAO, TCAs,
SSRIs được xác định hiệu quả của chúng thông qua việc làm thay đổi các
monoamine hoặc các amin sinh học khác tại vị trí receptor ở vùng dưới đồi
hoặc hệ viền của não có thể gây ra sự thay đổi cảm xúc. Nồng độ của các chất
này và chất chuyển hố của nó trong nước tiểu, dịch não tuỷ bị dao động ở bệnh
nhân trầm cảm và hưng cảm. Chức năng của hệ GABA cũng có sự bất thường
trong rối loạn khí sắc.
1.1.4.3. Giả thuyết về yếu tố mơi trường


11
Những sự kiện sống mang tính chất stress (sự mất mát, chia ly, mất việc,
bị xúc phạm nặng nề ...) như là một yếu tố khởi phát đối với rối loạn trầm cảm.
Trong đó sự mất mát do chết chóc hoặc chia ly có tầm quan trọng đặc biệt, nhất
là ở thời thơ ấu. Hơn nữa các stress xảy ra trong gia đình, xã hội cịn ảnh hưởng
đến sự hồi phục, tái phát của các giai đoạn trầm cảm.
1.1.4.4. Giả thuyết về rối loạn nội tiết
Một số cơ sở của giả thuyết này dựa trên rối loạn trầm cảm hay gặp ở
phụ nữ, các giai đoạn thường xuất hiện vào thời kỳ dậy thì, có thai, sau đẻ, rối
loạn kinh nguyệt... Rối loạn trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận được
cho rằng có liên quan đến rối loạn trầm cảm. Bên cạnh đó, vai trị của nội tiết
tố giáp trạng như TSH, TRH và T3 - T4 cũng được nêu lên trong quan điểm về
bệnh sinh của rối loạn trầm cảm.
1.1.6. Tiến triển, tiên lượng và tái phát của bệnh trầm cảm
Biến chứng nguy hiểm nhất của trầm cảm là người bệnh có ý tưởng, hành vi
tự sát.
Người bệnh có thể suy kiệt do từ chối ăn uống.
1.1.7. Điều trị trầm cảm

1.1.7.1. Nguyên tắc điều trị:
- Chỉ định nhập viện tuyệt đối với các giai đoạn RLTC mức độ nặng đặc biệt
trầm cảm có ý tưởng tự sát. Nếu RLTC ở mức độ nhẹ có thể điều trị ngoại trú.
- Cần phát hiện sớm các biểu hiện RLTC để kịp thời điều trị ngay từ lúc
cường độ các rối loạn còn nhẹ.
- Xác định rõ mức độ của RLTC, cấu trúc lâm sàng, sự có mặt của các
triệu chứng loạn thần ở giai đoạn hiện tại.
- Chỉ định sớm các liệu pháp điều trị, có kiến thức chọn lựa nhóm thuốc, loại
thuốc và liều lượng phù hợp với các trạng thái bệnh của từng người bệnh.
- Điều trị dự phòng tái phát sau mỗi giai đoạn cấp.
1.1.7.2. Điều trị cụ thể:
a. Theo dõi sát ngày đêm đề phịng nguy cơ tự sát: trầm cảm nặng có ý tưởng
tự sát hoặc hoang tưởng bị tội là một cấp cứu tâm thần (xem thêm phần cấp cứu
tâm thần).
b. Liệu pháp hoá dược:


12
Dùng thuốc CTC, khi dùng thuốc cần tuân thủ các nguyên tắc sử dụng,
các chỉ định và chống chỉ định.
Lựa chọn thuốc phụ thuộc vào triệu chứng lâm sàng và yếu tố cơ thể nên
tuỳ theo từng trường hợp mà chỉ định từng loại thuốc cho phù hợp:
Trầm cảm có ức chế rõ rệt (trầm cảm sững sờ) nên sử dụng các thuốc
chống trầm cảm hoạt hóa như survector 100 - 250 mg/24 giờ hoặc thuốc chống
trầm cảm trung gian như Anafranil 50 - 200 mg/24 giờ...
Với trầm cảm kích thích, trầm cảm có lo âu thì nên dùng thuốc chống trầm
cảm yên dịu như amitriptylin 50 - 150 mg/24, mirtazapin 15 - 45 mg/24 giờ...
Trầm cảm ám ảnh nên lựa chọn anafranil hoặc prozac...
Trầm cảm ở người già, người có bệnh tim mạch, người có nguy cơ tự sát
cao nên lựa chọn nhóm thuốc khơng có tác dụng độc với tim như nhóm chống

trầm cảm đa vịng hoặc nhóm ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc.
IMAO và RIMAO có hiệu quả tốt trong trầm cảm khơng biệt định.
Trầm cảm nặng, trầm cảm kháng thuốc cần sử dụng thuốc chống trầm
cảm đường tiêm tĩnh mạch như chlorimipramine từ 25- 125mg/24h, anafranil
100 - 300 mg/24 giờ sau đó chuyển sang đường uống.
Với trầm cảm có triệu chứng loạn thần, trầm cảm có ý tưởng và hành vi
tự sát: ngồi dùng các thuốc chống trầm cảm cần phối hợp với thuốc an thần
kinh.
c. Liệu pháp sốc điện: hiện nay vẫn là phương pháp tốt trong điều trị trầm cảm.
Chỉ định trong các trường hợp trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự sát, trầm cảm
sững sờ, các trạng thái trầm cảm được điều trị bằng liệu pháp hoá dược khơng
kết quả, các trường hợp có chống chỉ định điều trị bằng thuốc.
Giai đoạn trầm Sốc điện ngày một lần hoặc cách ngày. Một liệu trình điều
trị từ 6 - 12 lần sốc.
d. Liệu pháp tâm lý: là liệu pháp rất cần thiết ngay cả khi liệu pháp hoá dược
đang được sử dụng chủ yếu trong đợt điều trị.
Các liệu pháp tâm lý hỗ trợ như liệu pháp nhận thức, liệu pháp nhóm hoặc
thư giãn.
e. Liệu pháp kích thích từ xuyên sọ
Được chỉ định ưu tiên cho các trường hợp trầm cảm nhẹ và vừa.


13
Cần tuân thủ chặt chẽ chỉ định và chống chỉ định để hạn chế tai biến khi
tiến hành can thiệp.
d. Nội dung chăm sóc, quản lý người bệnh trầm cảm
* Người bệnh trầm cảm nhẹ và vừa
- Thường xuyên gần gũi, tiếp xúc thăm hỏi, động viên tinh thần người
bệnh, giải thích tình trạng bệnh và tiến triển của bệnh cho người bệnh hiểu để
hợp tác trong quá trình điều trị.

- Làm tốt cơng tác tâm lý, giải thích khun giải động viên người bệnh
yên tâm chữa bệnh, tin tưởng vào điều trị, tạo môi trường tâm lý xã hội lành
mạnh. Giải thích tình trạng bệnh cho gia đình người bệnh và hướng dẫn cách
theo dõi diễn biến bệnh của người bệnh để phịng tình huống nguy hiểm cho
bản thân người bệnh nếu bệnh nặng thêm.
- Tăng cường vui chơi giải trí cho người bệnh để loại bỏ những ý nghĩ
xấu, không muốn sống, những biểu hiện lệch lạc về bệnh tật
- Thường xuyên động viên người bệnh tham gia lao động liệu pháp và
các hoạt động liệu pháp khác.
- Tìm hiểu tâm lý người bệnh.
- Sắp xếp người bệnh trầm cảm vào buồng bệnh cùng với người bệnh ổn
định để theo dõi.
* Người bệnh trần cảm nặng có ý tưởng tự sát
- Điều dưỡng làm tốt các phần chăm sóc người bệnh trầm cảm nhẹ và
vừa.
- Loại bỏ các vật dụng nguy hại đến tính mạng (dao, kéo, dây, vật
nhọn…)
- Đảm bảo chế độ dinh dưỡng, vệ sinh thân thể người bệnh.
- Thường xuyên theo dõi giám sát người bệnh khi giao trực, lúc giao thời
và đêm khuya, đặc biệt giai đoạn người bệnh tỉnh táo đủ sức khỏe để thực hiện
ý tưởng tự sát.
- Phải đi tua kiểm tra 15 phút/ lần.


14
- Thơng báo cho nhân viên trong tồn khoa về diễn biến của người bệnh
để cùng phối hợp.
- Trường hợp người bệnh có loạn thần như ảo giác, hoang tưởng báo cáo
cho bác sỹ để xử trí kịp thời.- Nếu người bệnh phải dùng liệu pháp EC, điều
dưỡng phải chăm sóc theo mục EC.

* Ghi chép các cơng việc đã làm
- Các diễn biến bất thường đã xảy ra.
- Trạng thái tâm lý, tâm thần đặc biệt.
- Các chỉ số sinh học: mạch, nhiệt độ, HA, nhịp thở.
- Thể trạng chung: cân nặng, sắc màu niêm mạc, môi, da.
- Mức độ ăn uống của người bệnh.
* Dặn dò hướng dẫn
+ Người bệnh
- Uống thuốc đều theo đơn đề phòng cơn tái phát
- Tin tưởng bác sỹ điều trị
- Kiêng chè, rượu, cà phê và các chất kích thích
+ Gia đình
- Thường xuyên động viên người bệnh
- Tạo môi trường gia đình xã hội lành mạnh, hài hồ, tránh gây sang chấn
tâm lý.
- Quản lý thuốc chặt chẽ và bảo quản thuốc khỏi nơi khơ ráo, đề phịng
người bệnh lấy thuốc để thực hiện hành vi tự sát.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nghiên cứu về trầm cảm trên thế giới
Theo tổ chức y tế thế giới, trầm cảm là một bệnh phổ biến trên toàn thế
giới, với hơn 300 triệu người bị ảnh hưởng. Đặc biệt khi bệnh kéo dài kèm theo
mức độ vừa hoặc nặng thì trầm cảm có thể trở thành một bệnh nghiêm trọng.
Nó có thể làm cho những người bị ảnh hưởng phải chịu đựng rất nhiều và các
chức năng kém đi, ảnh hưởng đến công việc, học tập và gia đình. Và tồi tệ hơn,


15
trầm cảm có thể dẫn đến tự tử. Gần 800.000 người chết do tự tử mỗi năm. Tự
tử là nguyên nhân thứ 2 dẫn đến cái chết ở tuổi 15-29 tuổi. Trầm cảm là bệnh
khá phổ biến, nhiều khi bị bỏ sót, khơng được chẩn đốn ra. Ước tính có 17

triệu người Mỹ bị trầm cảm, con số này cũng bằng số người bị tiểu đường.
Trầm cảm xảy ra ở mọi người, mọi lứa tuổi.
Các nghiên cứu về rối loạn trầm cảm chủ yếu đã cho thấy những sự khác
biệt lớn về tỷ lệ bệnh này ở người lớn. Nguy cơ trong toàn bộ cuộc đời bị rối
loạn trầm cảm chủ yếu được xác lập từ 10-25% cho phụ nữ và 5-12% cho nam
giới. Tỷ lệ tối đa của rối loạn trầm cảm chủ yếu ở người lớn dao động từ 5-9%
cho nữ và 2-3% chon nam. Năm 1961, Moller cho rằng tỷ lệ bệnh trầm cảm nói
chung là 6-7% dân số, trong đó chỉ có 1% dân số là bị trầm cảm điển hình. Đến
năm 1992, Romansky trong nghiên cứu của mình cho rằng, trầm cảm ở phụ nữ
là 8,3% dân số và tỷ lệ này ở nam giới chỉ 2,9%. Mới đây, năm 1997, Greenfield
đã xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm là 10-13% dân số, trong đó 55% số bệnh
nhân đã có một cơn trầm cảm trong vòng 12 tháng trở lại đây.
Theo Sadock (2004), trầm cảm chủ yếu là một rối loạn rất phổ biến, tỷ
lệ bệnh trong suốt cuộc đời là khoảng 15% riêng phụ nữ thì tỷ lệ này là 25%.
Rối loạn trầm cảm gặp ở 10% số bệnh nhân đi khám bệnh và chiếm 15% tổng
số các bệnh nhân phải nằm viện điều trị.
Một nghiên cứu về tỷ lệ trầm cảm và các triệu chứng trầm cảm ở Trung
Quốc năm 2012 cho thấy số người mắc trầm cảm là 23,2% và 24,79% là những
người thường xuyên gặp các triệu chứng trầm cảm . Tỷ lệ mắc trầm cảm phân
bố không đều giữa các vùng miền và giữa các quần thể khác nhau. Cũng theo
nghiên cứu này, những người có mức thu nhập thấp, có trình độ văn hố thấp
và người già thì có yếu tố nguy cơ cao hơn những đối tượng khác.
1.2.2. Nghiên cứu về trầm cảm tại Việt Nam
Tại Việt Nam, đã có một vài nghiên cứu về dịch tễ bệnh trầm cảm và các
thể bệnh, đặc điểm của bệnh trầm cảm cũng như các yếu tố liên quan đến bệnh
trầm cảm. Nghiên cứu của Trần Viết Nghị, Nguyễn Văn Siêm năm 2002 tại


16
một số quần thể cộng đồng trong cả nước cho tỷ lệ trầm cảm mắc điểm là 8,35%

dân số 15 tuổi và trên 15 tuổi ở xã nông thôn; 4,2% ở phường đơ thị. Tại Hải
Phịng, nghiên cứu của Phạm Tú Dương và cộng sự (2000) cho thấy tỷ lệ mắc
trầm cảm là 5,8%; và tỷ lệ mắc ở nữ nhiều hơn nam (nữ/nam = 2,1/1). Năm
2013, một nghiên cứu điều tra dịch tễ lâm sàng 10 rối loạn tâm thần thường gặp
ở cộng đồng thuộc 8 vùng kinh tế - xã hội khác nhau trên cả nước cho thấy tỷ
lệ mắc bệnh trầm cảm là 2,45% dân số. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Cao tại
thị xã Sông Cầu – Bắc Cạn cho thấy tỷ lệ trầm cảm là 4,3%. Tỷ lệ trầm cảm tại
thành phố Hồ Chí Minh là 6,6%. Tỷ lệ bệnh nhân bị trầm cảm tái diễn là 22%.
Tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở người cao tuổi tại xã Thuỷ Xuân – TP Huế là 27,76%.
Qua đây ta có thể thấy, tỷ lệ mắc trầm cảm ở Việt Nam là khá cao dao động từ
3-5% tương đương với các nước trên thế giới. Tại tỉnh Phú Thọ – một tỉnh vùng
Tây Bắc chưa có nghiên cứu cụ thể được công bố về tỷ lệ mắc trầm cảm.
1.3. Quy định hiện hành về cơng tác chăm sóc người bệnh trầm cảm
Năm 2011, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Thông tư 07/2011/TT-BYT
Hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện và
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2011, thay thế Quy chế chăm sóc người
bệnh tồn diện trong Quy chế Bệnh viện ban hành kèm theo Quyết định số
1895/1997/BYT-QĐ ngày 19/9/1997, nhằm đáp ứng yêu cầu chất lượng chăm
sóc ngày càng cao hơn. Thông tư này là sự cập nhật phù hợp giữa các văn bản
pháp luật, tình hình thực tế, nâng cao vị thế nghề nghiệp, đặt công tác điều
dưỡng trong mối quan hệ mang tính hệ thống, trao quyền cho các đơn vị vận
dụng linh hoạt trong tổ chức quản lý điều dưỡng, quy định cụ thể về nhiệm vụ
chăm sóc. Thơng tư nêu rõ người bệnh là trung tâm của cơng tác chăm sóc nên
phải được chăm sóc tồn diện, liên tục, đảm bảo hài lịng, chất lượng và an
tồn, trong đó người bệnh phải được tư vấn hướng dẫn giáo dục sức khỏe, được
chăm sóc về tinh thần, vệ sinh các nhân, dinh dưỡng…


17
Quy trình chăm sóc người bệnh được ban hành kèm theo Quyết định số

940/2002/QĐ-BYT ngày 22/3/2002 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành
Hướng dẫn quy trình chăm sóc NB .
Quy trình chăm sóc người bệnh Trầm cảm; Quyển 01: Mã số
QT.05.ĐD/2018. (Ban hành kèm theo Quyết định số 423/QĐ-BV ngày
18/6/2018 v/v Ban hành bổ xung quy trình điều dưỡng tại Bệnh viện)

Chương 2
MƠ TẢ TRƯỜNG HỢP
CHĂM SĨC NGƯỜI BỆNH TRẦM CẢM
2.1. Giới thiệu tóm tắt về bệnh viện Tâm thần Phú Thọ


18
Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ được thành lập tháng 7/1977. Với 200
giường bệnh thực kê, hàng năm Bệnh viện đều hồn thành các chỉ tiêu kế hoạch
được giao, có đủ khả năng phục vụ 180 – 200 người bệnh điều trị nội trú hàng
ngày quản lý điều trị ngoại trú 4.439 người bệnh tại cộng đồng/năm.
Bệnh viện đã thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao như: Cấp cứu, khám
bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng cho người mắc bệnh tâm thần, thần
kinh của tỉnh Phú Thọ và các tỉnh lân cận; triển khai thực hiện quản lý, điều trị,
phục hồi chức năng cho người bệnh tâm thần phân liệt, động kinh, rối loạn tâm
thần khác tại cộng đồng theo Chương trình mục tiêu quốc gia - Dự án BVSKTT
cộng đồng.

Hình ảnh 1: Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ.

Qua 44 năm xây dựng và trưởng thành hiện nay Bệnh viện có 13 Khoa,
phịng; với 122 cán bộ, CC-VC, cơ sở vật chất nhà cửa khang trang, buồng bệnh
đầy đủ tiện nghi, sạch sẽ, các trang thiết bị hiện đại, trên 90% cán bộ, CC-VC có
trình độ đại học, sau đại học, có y đức, tâm huyết với nghề, tận tâm với người

bệnh.Bệnh viện đã vinh dự đón nhận: 02 Huân chương lao động hạng 3, 01 Bằng
khen của Chính phủ trao tặng, 01 Kỷ niệm chương Hùng Vương; 04 Bằng khen


×