Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Thực trạng chăm sóc người bệnh trầm cảm tại khoa bán cấp bệnh viện tâm thần phú thọ năm 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.23 KB, 49 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

PHẠM THỊ HẰNG THU

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TRẦM CẢM TẠI
KHOA BÁN CẤP BỆNH VIỆN TÂM THẦN PHÚ THỌ
NĂM 2021

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH – NĂM 2021


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
---------------

PHẠM THỊ HẰNG THU

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TRẦM CẢM TẠI
KHOA BÁN CẤP BỆNH VIỆN TÂM THẦN PHÚ THỌ
NĂM 2021
Chuyên ngành:Điều dưỡng tâm thần
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯƠNG DẪN
TS. Mai Thị Lan Anh

NAM ĐỊNH-NĂM 2021



MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. ii
CÁC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................................... iii
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
CHƯƠNG I ........................................................................................................ 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................................. 3
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 3
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 5
CHƯƠNG II .................................................................................................... 29
MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT ............................................................ 29
2.1. Giới thiệu về bệnh viện.......................................................................... 29
2.2. Thủ tục hành chính ................................................................................ 30
2.3. Một số ưu điểm và hạn chế .................................................................... 36
CHƯƠNG III ................................................................................................... 38
BÀN LUẬN ..................................................................................................... 38
3.1. Đối với nhân viên y tế . ......................................................................... 38
3.2. Với mạng lưới y tế cấp cơ sở ................................................................. 38
3.3. Đối với gia đình người bệnh. ................................................................. 39
3.4. Đối với bệnh viện Tâm thần Phú Thọ .................................................... 40
KẾT LUẬN...................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 42


i
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành tốt chun đề này tơi xin cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi hồn
thành chương trình học của mình.

Tơi xin chân thành cảm ơn Giảng viên hướng dẫn TS. Mai Thị Lan Anh đã giúp
đỡ và hướng dẫn tôi rất tận tình trong suốt thời gian tơi thực hiện chun đề này
Xin được cảm ơn các Phòng QLĐT Sau đại học cùng quý thầy cô giáo trong bộ
môn Tâm thần kinh- Trường Đại học diều dưỡng Nam Định, các cán bộ y tế trong 13
khoa lâm sàng của Bệnh viện Tâm Thần Phú Thọ đã giúp đỡ chia sẽ cho tôi những kinh
nghiệm quý báu trong thời gian thực tập và làm chuyên đề này
Xin được cảm ơn các bạn trong lớp đã cùng vai kề vai sát cánh với tơi để hồn
thành tốt chun đề này
Xin được cảm ơn những người bệnh, gia đình người bệnh đã thơng cảm và tạo
điều kiện cho tôi được thăm khám tiếp xúc lắng nghe và thực hiện nghiêm túc những lời
khuyên dành cho họ.
Nam Định, Ngày....tháng....năm 2021
NGƯỜI LÀM BÁO CÁO

Phạm Thị Hằng Thu


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là báo cáo của riêng tơi. Những thơng tin trong khố luận
là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Nam Định, Ngày....tháng....năm 2021
NGƯỜI LÀM BÁO CÁO

Phạm Thị Hằng Thu


iii
CÁC TỪ VIẾT TẮT
- AG: Áo giác

- BN: Bệnh nhân
- CTC: Chống trầm cảm
- HT: Hoang tưởng
- RLCXLC: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
- RLTC: Rối loạn trầm cảm
- Th.s: Thạc sỹ
- TTPL: Tâm thần phân liệt
- TS: Tiến sỹ
- PGĐ: Phó giám đốc
- ETP: Cán bộ liệu pháp
- SSRI: Loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng và loại thuốc tái hấp thu chọn
lọc
- GDSK: Giáo dục sức khoẻ
- PHCN: Phục hồi chức năng


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là trạng thái buồn rầu, chán nản, khơng cịn hứng thú gì trong cuộc
sống, ngủ khơng ngon, ăn uống nhạt miệng, làm việc không xong tới chót mặc cảm thua
kém, khi rầu rĩ lâu ngày hay nghĩ đến cái chết. Ngoài ra, người bệnh hay kèm lo lắng,
nặng đầu, đau mỏi vai gáy, ngực hồi hộp, tay chân lạnh[1]
Rối loạn trầm cảm là một trạng thái bệnh lý hay gặp trong thực hành tâm thần
học cũng như trong thực hành đa khoa. Rối loạn trầm cảm có xu hướng gia tăng chiếm
khoảng 20-30% dân số, trong đó rối loạn trầm cảm chủ yếu chiếm 4,4% Mỹ; 5,2% Itali;
3,4% Nam và 6% Nữ; 2,85% ở Việt Nam. Hàng năm trên thế giới có tới hàng trăm triệu
người được phát hiện là trầm cảm. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 18-44 tuổi khởi phát
trung bình là 25,6 tỷ lệ nữ bị rối loạn trầm cảm cao gấp 3 làn nam. Khoảng 45-70%
những người tự sát mắc bệnh trầm cảm và 15% người bệnh trầm cảm chết do tự sát. Rối
loạn trầm cảm có tỷ lệ tái phát cao[3][6][12].

Rối loạn trầm cảm là do rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, nhiều tác giả
cho là có sự biến đổi các chất trung gian hoá học trong hệ thống thần kinh trung ương.
Các thay đổi một số hormon, một số chất điện giải hoặc một số thành phần miễn dịch
đều có thể gây ra trầm cảm. Trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu về yếu
tố di truyền của bệnh rối loạn trầm cảm và người ta thấy có sự liên quan giữa trầm cảm
với nhiễm sắc thể X và một số nghiên cứu cũng cho thấy có những biến đổi 3 vùng là
Hồi Hải mã, Hạnh nhân và vỏ não ở những người bệnh trầm cảm điển hình[1][2]
Bệnh trầm cảm để lại gánh nặng cho gia đình và xã hội về sức lao động cũng như
về kinh tế. Không những thế nhiều người trầm cảm đã tìm đến cái chết để giải thốt mọi
khổ cực và bi quan về cuộc đời do bệnh gây ra. Do vậy nhiều nước đã đưa chương trình
phịng và chống bệnh trầm cảm vào chương trình quốc gia trong đó có Việt Nam. Bệnh
trầm cảm cũng đã được phân loại một cách chi tiết trong Bảng phân loại bệnh Quốc tế
năm 1992 từ các bệnh trầm cảm điển hình nhất đến các bệnh trầm cảm khơng điển hình,
bị che đậy bởi cá thực tế cũng như các giai đoạn tái diễn trầm cảm
Hiện nay người bệnh có rối loạn trầm cảm ngày càng gia tăng, trở thành một vấn
đề lớn của xã hội cần phải tập trung giải quyết. Đây không phải là vấn đề riêng của
ngành y mà đòi hỏi sự tham gia của toàn cộng đồng và xã hội với những người bệnh này


2
thì việc chăm sóc của điều dưỡng nói riêng và nhân viên y tế nói chung chỉ là một phần
nhỏ, mà cần sự chăm sóc, quan tâm, theo dõi hỗ trợ của gia đình xã hội, bạn bè cũng
như của cả cộng đồng
Để nâng cao cơng tác chăm sóc người bệnh trầm cảm nam thì cần có cái nhìn
tổng thể một bức tranh thực về tình hình chăm sóc người bệnh này từ đó đưa ra được
những can thiệp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh
Do vậy tôi tiến hành nghiên cứu chuyên đề này: “ Thực trạng chăm sóc người
bệnh trầm cảm tại khoa bán cấp- Bệnh viện tâm thần Phú Thọ” với mục đích:
1. Tìm hiểu thực trạng về chăm sóc người bệnh trầm cảm tại khoa Bán cấp- Bệnh
viện Tâm thần Phú Thọ

2. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chăm sóc người bệnh trầm cảm tại
Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ


3

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Khái niệm về trầm cảm
Trầm cảm là một bệnh lý y tế liên quan đến tâm trí và cơ thể. Cũng được gọi là
rối loạn trầm cảm chính và trầm cảm lâm sàng, nó ảnh hưởng đến cảm nhận, suy nghĩ
và hành xử.
Trầm cảm có thể dẫn đến một loạt các vấn đề tình cảm và thể chất. Có thể gặp
khó khăn khi thực hiện các hoạt động bình thường hàng ngày và trầm cảm có thể làm
cho cảm thấy như thể cuộc sống là không đáng sống
Trầm cảm là một loại rối loạn tâm thần thường gặp nhất trong các dạng rối loạn
tâm thần, bao gồm nhiều triệu chứng, nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc và người
bệnh khơng cịn quan tâm hay thích thú đối với tất cả những gì xảy ra xung quanh hoặc
đối với bản thân mình. Người bệnh ln cảm thấy mệt mỏi, mất hy vọng vào tương lại,
nghĩ rằng thế giới xung quanh dường như lúc nào cũng u ám
Rối loạn trầm cảm có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào nhưng thường gặp nhất là ở
lứa tuổi từ 18-44 nữ dễ bị trầm cảm gấp đôi nam tuy nhiên phát hiện và chăm sóc người
bệnh trầm cảm nam sẽ khó hơn nữ
Trầm cảm nhiều hơn chỉ là cơn nhảy máu, trầm cảm không phải là điểm yếu,
cũng không phải là một cái gì đó mà có thể chỉ đơn giản là thể hiện ra. Trầm cảm là một
căn bệnh kinh niên thường đòi hỏi phải điều trị lâu dài, như bệnh tiểu đường hoặc huyết
áp cao. Nhưng không được nản lòng, hầu hết những người bị trầm cảm cảm thấy tốt
hơn với thuốc, tư vấn tâm lý hoặc điều trị khác

1.1.2. Vài nét về lịch sử bệnh trầm cảm
Sinh lý bệnh của trầm cảm vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng các lý thuyết hiện tại
xoay quanh hệ thống monoaminergic, nhịp sinh học, rối loạn chức năng miễn dịch, rối
loạn chức năng trục HPA và các bất thường về cấu trúc hoặc chức năng của mạch cảm
xúc.
Lý thuyết monoamine, bắt nguồn từ hiệu quả của các loại thuốc monoaminergic
trong điều trị trầm cảm, là lý thuyết thống trị cho đến gần đây. Lý thuyết cho rằng hoạt


4
động không đủ của chất dẫn truyền thần kinh monoamine là nguyên nhân chính gây ra
trầm cảm. Bằng chứng cho lý thuyết monoamine đến từ nhiều lĩnh vực. Thứ nhất, sự
suy giảm cấp tính tryptophan, một tiền chất cần thiết của serotonin, một monoamine, có
thể gây trầm cảm ở những người đang thuyên giảm hoặc người thân của bệnh nhân trầm
cảm; điều này cho thấy rằng giảm dẫn truyền thần kinh serotonergic là quan trọng trong
bệnh trầm cảm. Thứ hai, mối tương quan giữa nguy cơ trầm cảm và tính đa hình trong
gen 5-HTTLPR, mã hóa các thụ thể serotonin, cho thấy một mối liên hệ. Thứ ba, giảm
kích thước của locus coeruleus, giảm hoạt động của tyrosine hydroxylase, tăng mật
độ thụ thể adrenergic alpha-2, và bằng chứng từ mô hình chuột cho thấy giảm dẫn truyền
thần kinh adrenergic trong bệnh trầm cảm. Hơn nữa, giảm nồng độ axit homovanillic,
thay đổi phản ứng với dextroamphetamine, phản ứng của các triệu chứng trầm cảm
với chất chủ vận thụ thể dopamine, giảm liên kết thụ thể dopamine D1 trong
thể vân, và tính đa hình của gen thụ thể dopamine liên quan đến dopamine, một
monoamine khác, trong bệnh trầm cảm. Cuối cùng, sự gia tăng hoạt động
của monoamine oxidase, chất phân hủy monoamine, có liên quan đến chứng trầm cảm.
Tuy nhiên, lý thuyết này không phù hợp với thực tế rằng sự suy giảm serotonin không
gây ra trầm cảm ở người khỏe mạnh, thực tế là thuốc chống trầm cảm làm tăng mức độ
monoamines ngay lập tức nhưng phải mất vài tuần để phát huy tác dụng và sự tồn tại
của thuốc chống trầm cảm khơng điển hình có thể có hiệu quả mặc dù không nhắm vào
con đường này. Một lời giải thích được đề xuất cho sự chậm trễ trong điều trị, và hỗ trợ

thêm cho sự thiếu hụt các monoamine, là giải mẫn cảm của sự tự ức chế trong nhân
raphe bằng cách tăng serotonin qua trung gian của thuốc chống trầm cảm. Tuy nhiên,
việc ức chế raphe lưng đã được đề xuất xảy ra do làm giảm hoạt động của hệ
serotonergic trong sự suy giảm tryptophan, dẫn đến trạng thái trầm cảm do tăng
serotonin. Tiếp tục phản bác giả thuyết monoamine là thực tế rằng những con chuột bị
tổn thương raphe lưng không trầm cảm hơn so với đối chứng, phát hiện thấy tăng 5HIAA ở những bệnh nhân trầm cảm bình thường với điều trị SSRI và sự ưa thích đối
với carbohydrate ở những bệnh nhân trầm cảm.[47] Vốn đã bị hạn chế, giả thuyết về
monoamine đã được đơn giản hóa hơn nữa khi được trình bày với công chúng


5
Các tiến bộ quan trọng trong việc mô tả, phân loại RLTC trong 30 năm qua đã
giúp thúc đẩy các nghiên cứu quan trọng về dịch tễ, bệnh nguyên và bệnh sinh các RLTC
này một cách chi tiết, hợp lý
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Dịch tễ học trầm cảm
1.2.1.1.Một số nghiên cứu ở các nước trên thế giới
Tổ chức Y tế Thế giới WHO ghi nhận Trầm cảm là căn bệnh phổ biến và là gánh
nặng bệnh lý đứng thứ 2 của toàn thế giới:
Khoảng 350 triệu người đang phải chịu nhiều ảnh hưởng của bệnh trầm cảm.
-

75% tổng số ca bệnh tự tử vì chứng trầm cảm nặng

-

5% ca bệnh trở thành mối đe dọa nguy hiểm cho xã hội

-


22% do nghiện các chất kích thích và cờ bạc

-

3% do tâm thần phân liệt hay bệnh động kinh

Điều này cho thấy số người mắc bệnh trầm cảm trên thế giới đã tăng quá nhanh
trong những năm thàng gần đây
Theo The Huffing ngày 27/7/2011 thì: Trung bình tỷ lệ dân số mắc bệnh trầm
cảm ở 10 nước giầu là 15% và ở các nước nghèo là 11%. Nước Pháp có tỷ lệ mắc cao
nhất 21% trong 5 người Pháp thì có một người bị mắc bệnh trầm cảm trong cuộc đời
của họ. Kế đến là Mỹ: 19,2%; Brazil: 18,4%; Hà Lan: 17,9%; Hàn Quốc: 9,8%; Ấn Độ:
9%; Nhật: 6,6%; Trung Quốc: 6,5%
Tại Mỹ hiện nay có khoảng 27 triệu người mắc trầm cảm, mỗi năm có trên 300
000 người tử tự trong đó chiếm 60% là những người mắc bệnh trầm cảm
Tại Châu Âu, số người mắc bệnh trầm cảm và tử tử tăng đột biến vì khủng hoảng
¼ dân số Châu Âu tương đương sẽ bị rối loạn tâm lý bởi cuộc sống quá khó khăn. Số
lượng các ca yêu câu điều trị chống trầm cảm ở Anh đã tăng tới 28% từ 34 triệu người
trong năm 2007 lên 43,4 triệu người trong năm 2011
Với quốc gia Trung Quốc hàng năm có khoảng 300 000 người tử tự đặc biệt tại
Trung Quốc khác với các quốc gia khác là nữ tự sát nhiều hơn nam giới theo tỷ lệ 3: 1;
ở nông thôn nhiều hơn ở thành phố
1..2.1.2. Thực trạng về bệnh trầm cảm ở Việt Nam hiện nay


6
Tỷ lệ trầm cảm ở Việt Nam hiện tại đang rất phức tạp và có xu hướng gia tăng
rất nhanh và phức tạp. Theo tài liệu của chính phủ Việt Nam thì năm 2000 tỷ lệ mặc
bệnh trầm cảm ở nước ta là 2,47% dân số, nhưng hiện nay con số này tăng lên khoảng
15%. Theo báo cáo cuối buổi hội thảo quốc tế về “ Vấn đề toàn cầu hoá, thành thị hoá

và sức khoẻ tâm thần” được tổ chức tại Huế vào ngày 25 đến ngày 27/11/2010 thì hiện
nay 20% dân số tức khoảng 18 riệu người Việt Nam đang mắc các chứng bệnh “ Tâm
thần hiện đại”. Theo tác giả La Đức Cương có khoảng 12 triệu người đang có vấn đề về
rối loạn tâm thần, trong đó phần lớn là bệnh trầm cảm, sau đó là bệnh nặng hơn như
Tâm thần phân liệt, nghiện rượu, lạn dụng rượu, ma tuý và chậm phát triển trí tuệ. Theo
TS. BS Tơ Thanh Phương thì khoảng 15% dân số nước ta có vấn đề sức khoẻ tâm thần.
Phần lớn bệnh nhân trầm cảm nặng thuộc lứa tuổi từ 16-35 tuổi
Bệnh trầm cảm là bệnh gây mất sức lao động đứng thứ hai trên thế giới và là
nguyên nhân của 2/3 trường hợp tử tự.Điều nguy hiểm là do sự mặc cảm hoặc thiếu hiểu
biết về căn bệnh này có đến 60% người mắc bệnh trầm cảm không được phát hiện và
điều trị trầm cảm thường gặp ở nữ nhiều hơn nam, xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Một cuộc
điều tra diện hẹp do Viện quân Y 103 tiến hành cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở người già cô
đơn trên 60 tuổi là 50%
Hậu quả của trầm cảm rất nghiêm trọng. Theo trung tâm phòng chống khủng
hoảng tâm lý, có tới 25,4% người dân có ý định tử tử; 15,6%, có kế hoạch tử tử và thực
hiện hành vi tử tử 4,2% tương đương khoảng 3,78 triệu người Việt Nam đã thực hiện
hành vi tử tử. Trên thực tế bệnh trầm cảm ở Việt Nam còn tệ hơn thế nếu có điều tra
tồn quốc theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.
Tại Việt Nam sau khi nghiên cứu lại các trường hợp trước đây được chẩn đoán
là suy nhược thần kinh, các bác sỹ nhận thấy phần lớn các bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn
để chẩn đốn trầm cảm. Hiện nay tại Bệnh viện Tâm Thần Phú Thọ chưa có cơng trình
nghiên cứu nào về dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm trên quy mô lớn như cấp bộ,
hay toàn quốc. Vấn đề nghiên cứu về dịch tễ lâm sàng trầm cảm và chỉ mang tính cục
bộ tại một vài địa phương chưa mang tính đại diện cho tỷ lệ trầm cảm của một quốc gia
1.2.1.3.Một số nghiên cứu ở trong nước


7
Hiện nay ở nước ta một số nghiên cứu về trầm cảm trong nước của một số tác giả
như sau:

- Lã Thị Bưởi, Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm điều tra trầm cảm tại một số
phường ở Hà Nội
- Trần Văn Cường và cộng sự năm 2002 rối loạn Trầm cảm điển hình chiếm 2,8%
khi điều tra dịch tễ lâm sàng một số bệnh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh tế- xã
hội khác nhau ở nước ta hiện nay
- Lâm Xuân Điển điều tra trầm cảm tại một phường của thành phố Hồ Chí Minh
- Tơ Thanh Phương nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị trầm cảm nặng
bằng Amitrioptyline phối hợp với thuốc chống loạn thần
- Ngô Ngọc Tản, Cao Tiến Đức điều tra trầm cảm tại một phường của Thị xã Hà
Đông- Hà Nội
- Nguyễn Văn Siêm điều tra trầm cảm tại xã Quất Động- Thường Tín- Hà Nội
1.2.2. Đặc điểm lâm sàng của trầm cảm
Trầm cảm là một triệu chứng loạn thần, có những triệu chứng rõ ràng như: mất
ngủ, mệt mỏi, chán ăn, mất hứng thú trong các sinh hoạt, buồn rầu, khó khăn khi tập
trung buông xôi, vượt xa những cảm xúc buồn bã bình thường mà mỗi người chúng ta
thỉnh thoảng đều trải qua
Ở phái nam, trầm cảm dễ bị xảy ra khi bị stress do căng thẳng trong công việc
hàng ngày, kinh tế vật chất, an hận vì lỡ thua cờ bạc, hạnh phúc tan vỡ, người thân mất,
thay đổi chỗ ở, chỗ làm việc, tương lai bấp bênh,.. Nam giới thường phải chịu áp lực về
sự thành đạt trong đời nếu không làm được điều này nhiều người ôm nỗi buồn đó một
cách lặng lẽ, khơng muốn người bệnh có những cơn giận dữ đột nghột, khơng kiểm sốt
bản thân, khơng thể quyết định được việc gì
Ở phái nữ, triệu chứng thường thấy là buồn, âu sầu, hay khóc thờ ơ, khơng thích
thú gì với những cơng việc hàng ngày, kể cả chuyện tình dục, tuyệt vọng hoặc thấy mình
chẳng có giá trị gì, ngủ q nhiều hoặc khơng ngủ được, li bì đánh thức cũng khơng tỉnh,
khơng thèm ăn, và gầy đi hoặc ăn quá nhiều và béo lên; Cảm giác mệt mỏi rã rời hoặc
uể oải, không tập trung chú ý được và không quyết định được làm việc gì, cảm thấy trên
thân thể đau đớn mà điều trị cũng không đỡ



8
Các triệu chứng của rối loạn trầm cảm điển hình
Khí sắc trầm cảm: Khí sắc trầm cảm thường gặp là buồn rầu uể oải, chân tay rời
rã, cảm giác khó chịu, bất an, đuối sức trước cuộc sống, luôn cảm thấy đau khổ, nét mặt
ủ rũ hoặc rơm rớm nước mắt, mệt mỏi, bệnh nhân thấy quá khứ hiện tại và tương lai chỉ
là một màu đen tối ảm đạm, thê thảm, đơi khi khó tả được cảm giác của mình, cảm thấy
mình bị thất bại, hỏng việc, bất lực tự đánh giá bản thân thấp kém, khơng có khả năg, là
ngõ cụt
Các rối loạn nhận thức: Quá trình liên tưởng ở BN chậm chạp, hồi ức xuất hiện
khó khăn, dịng tư duy bị ngừng trệ, khó diễn đạt ý nghĩ của mình thành lời nói, ít hoặc
khơng nói. Cũng có thể là các ý nghĩ tự ti, hèn kém, phẩm chất xấu, phạm nhiều tội lỗi,
ý nghĩ bị thiệt hại hoặc bị truy hại
- Các rối loạn tâm thần vận động: Ở những bệnh nhân RLTC nặng, bệnh nhân
ngồi hàng giờ ít đi lại hoặc nằm im một chỗ ở những nơi yên tĩnh, kín đáo như trong
buồng tối hoặc ở phịng tối, khơng muốn tiếp xúc với ai, BN cảm thấy nhanh chóng bị
kiệt sức khi làm việc gì đó gắng sức, ln cảm thấy mệt mỏi, suy nhược, mất nghị lực,
luôn phàn nàn về sự mệt nhọc đuối sức
- Các biểu hiện lo âu: BN thường có cảm giác lo lắng, sợ hãi cho các dự định
trong tương lai của họ. Sự lo lắng của BN xuất hiện dưới dạng căng thẳng và sự nguy
hiểm, chờ đợi điều không mong muốn sắp xẩy ra do vậy họ thường có phản ứng tấn
cơng người khác hoặc xung động, lo âu có thể xuất hiện hành vi tự sát
- Các triệu chứng cơ thể: Các biểu hiện rối loạn cơ thể thường xuyên biến đổi
trong ngày, mệt mỏi thường tăng vào buổi sáng, giảm cân đối khi nặng nề, có thể giảm
tới 10kg trong một vài tháng gặp ở nữ. Giảm trọng lượng có liên quan trực tiếp đến chán
ăn, lo âu, tức ngực, chóng mặt, đau vùng trước tim, cảm giác kiến bị, giảm tình dục, rối
loạn kinh nguyệt, dễ kích thích căng thẳng. Khi trầm cảm nặng BN thường từ chối ăn,
đôi khi gặp sự trái ngược là ăn vơ độ có thể gây tăng cân
- Hành vi tự sát ở bệnh nhân trầm cảm nặng: Có tới 80% BN trầm cảm nặng có
ý định tự sát. Đặc biệt có thể gặp tự sát trong q trình tiến triển của trầm cảm khi điều
trị chưa đạt kết quả. Việc xác định được nguy cơ tự sát không phải là dễ dàng, hơn nữa

họ có thể nói dối những ý định tự sát càng làm cho chúng ta không thể phát hiện được


9
những ý nghĩ và hành vi của họ. Mức độ nặng nề của nguy cơ tự sát thường có liên quan
nhiều giữa cường độ lo âu với mức độ trầm trọng của trầm cảm
Một số rối loạn trầm cảm
- Rối loạn trầm cảm khơng điển hình: Bệnh nhân khơng có biểu hiện của RLTC
điển hình, BN thấy ăn ngon miệng, tăng cân, ngủ nhiều, tăng hoạt động, mệt mỏi kèm
theo đau các chi, cảm thấy như bị liệt, dễ tủi thân
- Trầm cảm ẩn: Bệnh nhân thường phàn nàn về các triệu chứng cơ thể một cách
lờ mờ, không rõ ràng, đau khơng rõ vị trí, thường kèm đau vùng trước ngực, đau nhức
xương khớp,...
- Trầm cảm suy nhược: Nổi bật là những nét suy nhược với những ám ảnh sợ
bệnh, ám ảnh mắc bệnh
- Trầm cảm nhẹ: Các triệu chứng trầm cảm nằm dưới ngưỡng của trầm cảm điển
hình
- Trầm cảm đơi: Là trầm cảm điển hình xuất hiện ở bệnh nhân loạn khí sắc
Các loại trầm cảm chính
Trầm cảm nhìn chung có 3 loại chính
+ Trầm cảm tam căn
Thường gặp nhất là cường độ trung bình và những trầm cảm này có thể gây ra
loạn thần, thường là những hành vi tự sát hoặc muốn chết
+ Trầm cảm nội sinh
Trầm cảm nội sinh là loại trầm cảm có tính chất hệ thống đối lập với Trầm cảm
tâm căn và đáp ứng tốt với điều trị hoá dược
* Một số biểu hiện của trầm cảm nội sinh là
- Không có phản ứng với biến đổi mơi trường
- Khí sắc thường xấu hơn vào buổi sáng
- Mất hứng thú quan tâm sở thích

- Tự buộc tội hoặc bị tội
- Thức dậy sớm hoặc mất ngủ giữa đêm
- Vận động chậm chạp hoặc kích động
- Ăn khơng thấy ngon, giảm cân


10
+ Trầm cảm triệu chứng:
Thường do các bệnh nội tiết, nhiễm trùng, chấn thương sọ não. Trầm cảm thứ
phát do nguyên nhân bệnh cơ thể, nhất là các bệnh cơ thể nặng
Tất cả các Trầm cảm này dễ có ý định tự sát hoặc có hành vi tàn bạo khơng tự
chủ được. Để đánh giá năng lực chịu trách nhiệm cần dựa vào sự nặng nề của trầm cảm
có những cơn trong tiền sử. Một số gợi ý nghĩ tới loại trầm cảm này là:
- Khơng có các yếu tố tác động
- Khơng có tiền sử rối loạn khí sắc và yếu tố gia đình
- Khơng có biểu hiện bệnh lý tâm căn trong tiền sử
- Trạng thái suy nhược
- Có một số triệu chứng gợi ý: Lú lẫn, lo âu, tư duy chậm chạp cùng với đau đầu
kín đáo, động kinh, run....
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến trầm cảm
Nhân tố di truyền
Các rối loạn khí sắc của trẻ, thanh thiếu niên và người lớn hay gặp trong một số
thành viên trong gia đình họ. Nếu cha mẹ có một người bị trầm cảm thì nguy cơ con cái
mặc bệnh trầm cảm tăng gấp đôi so với con cái của cặp cha mẹ có tiền sử bình thường.
Nếu cả hai cha mẹ đều bị Trầm cảm thì xác xuất là 4 lần nguy cơ phát triển rối loạn khí
sắc ở trẻ em dưới 18 tuổi
Nhân tố mơi trường
Có ít bằng chứng là vấn đề hôn nhân của cha mẹ, ly thân, ly hơn, anh chị em vấn
đề cấu trúc gia đình hay kinh tế xã hội phát triển ở trẻ em trầm cảm hình như là thứ phát
sau Trầm cảm sẽ cải thiện sau khi trầm cảm hồi phục bền vững

Nhân tố sinh học
Trẻ em trước tuổi dậy thì trong một giai đoạn trầm cảm lớn, có tăng khá rõ
hocmon tăng trưởng trong giấc ngủ so với trẻ em bình thường với các trẻ em bị rối loạn
cảm xúc không trầm cảm. Các trẻ em này cũng tiết ít hocmon tăng trưởng khá rõ phản
ứng giảm đường huyết do Insulin gây ra so với các bệnh nhân không trầm cảm, hai bất
thường trên tồn ại bền vững ba bốn tháng sau khi trạng thái lâm sàng ổn định và trang
trạng thái không dùng thuốc


11
Một số thói quen dẫn đến bệnh trầm cảm
Người bị trầm cảm khơng thể tìm thấy hứng thú trong bất kỳ cơng việc gì
Có nhiều yếu tố gây ra trầm cảm, một số trong đó có thể chất, cịn một số khác
thuộc về tâm lý. Dưới đây là một số thói quen dễ dẫn đến Trầm cảm:
+ Khơng vận động
Thoạt nghe có vẻ hơi kỳ lạ, nhưng tập luyện rất quan trọng cho sức khoẻ thể chất
cũng như sức khoẻ tâm thần
Lười vận động có thể dẫn đến Trầm cảm con người cứ ru rú trong nhà cả ngày
và không tham gia bất kỳ hoạt động thể chất nào có thể khiến con người ta trở lên lười
biếng hoặc quá nhiều. Lười biếng và thân hình quá khổ là cách chắc chắn đưa bản thân
vào trạng thái trầm uất, nó không chỉ làm khả năng vận động cơ thẻ mà cịn làm giản cả
sự tự tin
+ Chế độ ăn khơng hợp lý
Ăn uống lành mạnh không chỉ tốt cho cơ thể mà cịn tốt cho trí não, những thực
phẩm chứa chất béo omega 3 được xem là những thực phẩm bổ não vì chúng có vai trị
thiết yếu đối với mơ não khoẻ mạnh
Ngồi ra cịn có nhiều chế phẩm bổ sung. Mặc dù những chế phẩm này không
phải lúc nào cũng ngon miệng nhưng chúng giúp cho bộ não khoẻ mạnh và ngăn ngữa
sự tấn công cảu bệnh Trầm cảm
+ Ngủ không đúng và stress

Nếu bạn thường xuyên để mình bị đói ngủ, thì bạn đang tạo ra hồn cảnh lý tưởng
cho bệnh trầm cảm. Nếu không được ngủ đủ, bạn sẽ dễ trở lên bị kích động và hoang
tưởng là nền tảng cho trạng thái Trầm cảm
Hơn nữa, những người không ngủ đủ thường không làm tốt công việc, khiến họ
bị stress và càng giảm năng xuất
Khi một người không thẻ ngủ hoặc không thể làm tốt vai trị của mình, họ sẽ trở
lên thất vọng và cảm thấy bị mắc kẹt thì kết cục là con người sẽ cảm giác trầm uất. Rất
ít người biết rằng chỉ cần ngủ đủ có thể ngăn chặn được bệnh Trầm cảm
+ Cuộc sống cô lập


12
Sống cơ lập là cịn đường chắc chắn dẫn đến trầm cảm. Khi bị láng tráng bạn bè
và người thân vì bất kỳ lý do gì, thì bạn đang tạo ra mảnh đất mầu mỡ cho bệnh Trầm
cảm
+ Tính hay lo nghĩ
Suy nghĩ tiêu cực là một trong những nguyên nhân chính của Trầm cảm. Thường
xuyên nghĩ vè các mối đe doạ, sự chối bỏ, mất mát hay thất bại là cách chắc chắn đưa
bạn đến với bệnh Trầm cảm. Với tất cả những áp lực của thế giới ngày nay, lo nghĩ q
nhiều đang trở thành ngịi nổ chính cho bệnh Trầm cảm
1.2.4. Một số nguyên nhân trầm cảm thường gặp ở Việt Nam
Trong cuộc sống hàng ngày
+ Lý do kinh tế
Cuối thế kỷ 20 và sang thế kỷ 21 có rất nhiều cơng ty tư nhân bị phá sản có rất
nhiều cá nhân hùn tiền vào cơng ty để hưởng lãi xuất cao, có rất nhiều người dồn tất cả
tài sản vào cơng ty đó với hy vọng làm giàu nhanh chóng. Vụ việc vỡ lở khi mọi người
biết bị lừa thì đã muộn, một số người cảm thấy thất vọng đã định nhảy lầu tử tử
- Tiếp theo là phong trào hụi, họ phát triển mạnh để lừa nhau cũng đã gây thiệt
hại nặng về kinh tế và tinh thần cho những người tham gia, chủ họ lớn nhất ôm tiền bỏ
trốn để lại hậu quả cho những chủ họ nhỏ hơn và cho những người tham gia. Rất nhiều

gia đình tan nát cửa nhà, mất nhà, nợ nần chồng chất, vợ chồng bỏ nhau con cái ly tán
do vậy khơng ít người bị rối loạn tâm thần trong đó có trầm cảm phải điều trị.
- Thời gian gần đây một số người có cả nam và nữ bị một số công ty đi lao động
xuất khẩu ở nước ngồi và mức lương cao.
- Và nạn lơ đề với lãi xuất tới 70 lần nên có rất nhiều người tham gia không kể
lứa tuổi già hay trẻ
+ Lý do về xã hội
- Do thi trượt: Trầm cảm thường gặp ở những bạn trẻ đã thi trượt vào trường đại
học hoăc trung học một vài lần, ít khi gặp ở những người thi trượt lần đầu
- Do thất nghiệp: Một số người sau khi đã tốt nghiệp nhưng khơng tìm được việc
làm theo đúng ngành nghề, hoặc bị áp lực là không muốn về nông thôn hoạc miềm núi
mà chấp nhận ở lại thành phố để được làm bất cứ cơng việc gì


13
- Một số cô gái trẻ con nhà nghèo qua cơng ty mơi giới để lấy chồng nước ngồi
nhưng khi đến nhà chồng thì cuộc sống lại khơng được như mong muốn coi như là ô sin
trong nhà bị quản thúc như tù giam lỏng mất tự do. Vỡ mộng họ tìm cách trốn về nước
và khơng ít người trong số họ bị trầm cảm cần phải điều trị
- Do ly hôn: Nhiều cặp vợ chồng trẻ ở các thành phố lớn họ có lối sống theo kiểu
phương tây yêu rất nhanh và cưới gấp sẵn sàng ly hôn và có xu hướng ly hơn ngày càng
nhiều. Chính ngun nhân này ảnh hưởng đến bộ phận giới trẻ trong xã hội.
- Do nghiện ma tuý- HIV: Hiện nay tình hình người nghiện ma tuý và nhiễm HIV
ngày càng tăng cao trong cộng đồng, mặc dù nhà nước có rất nhiều biện pháp giáo dục
và tuyên truyền đến từng xã, phường, người dân. Nhưng tỷ lệ mắc vẫn không ngừng gia
tăng có rất nhiều người nhiễm HIV đã tìm đến cái chết nhằm giải thốt cho bản thân
cũng như gia đình của họ
Trong các bệnh viện đa khoa, phòng khám đa khoa
Khá nhiều bệnh nhân nghĩ rằng mình bị bệnh, họ đã đến các bệnh viện để khám,
bác sỹ cho đơn thuốc nhưng bệnh chỉ ổn một thời gian ngắn rồi bệnh lại như cũ. Họ lại

khám ở các bệnh viện khác hoặc tìm đủ các loại xét nghiệm nhưng kết quả trả lời là bình
thường, chỉ đến khi họ tìm đến bác sỹ tâm thần và được là chẩn đoán là trầm cảm thì
bệnh mới ổn định
Ở Việt Nam hiện nay còn ảnh hưởng nặng nề bởi định kiến bị tâm thần fo vậy
người dân rất ngại đến với bác sỹ tâm thần vì họ sợ mang tiếng là bị bệnh tâm thần. Việc
dấu bị bệnh tâm thần đã làm cho nhiều bệnh nhân trầm cảm trở thành mãm tính, vì vậy
trong suốt thời gian dài họ khơng thể làm được gì mà lúc nào cũng chỉ muốn tìm các
bệnh viện tốt, các giáo sư và thấy thuốc giỏi. Khi đã đi nhièu nơi mà không ai để hỏi
nữa hoặc bệnh ngày càng nặng hơn thì họ mới tìm đến bác sỹ tâm thần. Mặt khác các
bác sỹ đa khoa hầu như ít phát hiện ra trầm cảm đối với bệnh nhân này. Do vậy gần đây
được sự quan tâm của nhà nước nên ngành tâm thần đã tăng cường tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng các hội nghị, hội thảo có mời đơng đảo các bác sỹ đa
khoa tham dự để bổ xung thêm cho họ kiến thức về trầm cảm
Trong các bệnh viện tâm thần


14
Trong các bệnh viện chuyên khoa tâm thần thì bệnh viện tâm thần phân liệt
thường chiếm tỷ lệ lớn, việc phân biệt giữa trầm cảm và TTPL nhiều khi khó khăn và
khó khăn nhất là bệnh viện tâm thần tuyến tỉnh hoặc khoa tâm thần nằm trong bệnh viện
đa khoa
Có thể là do 2 lý do sau:
- Khó phân biệt giữa triệu chứng âm tính của TTPL với trầm cảm
- Các bác sỹ trẻ mới ra trường và các bác sỹ ở xa trung ương nên khơng có các
thơng tin có tính cập nhật về trầm cảm, thâm niên làm trong ngành tâm thần cịn ít,...
cho nên chưa có nhiều kinh nghiệm, họ thường nghĩ là bệnh nhânbị TTPL thì n tâm
điều trị theo hướng TTPL mà chính họ khơng nghĩ là bệnh nhân bị cả trầm cảm nghĩa
là theo họ thì bệnh nhân hoặc là bị TTPL hoặc là bị trầm cảm. Do vậy trong quá trình
điều trị các bệnh nhân TTPL có trầm cảm mà khơng biết thường điều trị rất dai dẳng,
bệnh nhân thường xuyên kích động hoặc thậm chí tự sát nhưng vẫn cho là tự sát do các

triệu chứng TTPL hoặc do chán sống tâm lý.Vậy việc trang bị cho bác sỹ tâm thần kiến
thức đồng bệnh lý giữa trầm cảm và TTPL là cần thiết
1.2.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm
Để được chẩn đoán là trầm cảm phải đáp ứng được các tiêu chí triệu chứng nêu
ra trong chẩn đoán thống kê. Thống kê này được công bố bởi hiệp hội tam thần Mỹ và
được sử dụng bởi các nhà cung cấp sức khoẻ tâm thần để chẩn đoán các điều kiện tinh
thần
Để chẩn đốn là trầm cảm phải có năm hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau đây.
Ít nhất một trong các triệu chứng phải là tâm trạng chán nản, thất thoát một quan tâm
hay niền vui. Các triệu chứng có thể dựa vào cảm xúc của riêng bản thân hoặc có thể
dựa trên các quan sát của người khác. Chúng bao gồm:
- Sự yếu tâm trạng nhất trong ngày, gần như mọi ngày, chẳng hạn như cảm thấy
buồn, trống rỗng hoặc rơi lệ
- Giảm hoặc cảm thấy khơng có niềm vui trong tất cả hoặc gần như tất cả các
hoạt động trong ngày, gần như mỗi ngày
- Giảm cân đáng kể khi không ăn kiêng, tăng cân, giảm hoặc tăng cảm giác ngon
miệng gần như mỗi ngày


15
- Mất ngủ hoặc làm tăng ham muốn ngủ gần như mỗi ngày
- Kích động hoặc trở lên chậm chạp
- Mệt mỏi hay mất năng lượng gần như mỗi ngày
- Cảm xúc của vô dụng hoặc quá nhiều tội lỗi khơng thích hợp hoặc gần như mỗi
ngày
- Vấn đề ra quyết định hoặc khó tập trung suy nghĩ gần như mỗi ngày
- Thường xuyên suy nghĩ về cái chết hoặc tử tử hoặc cố gắng tử tử
Chuẩn ICD-10 F32
- F32.0: Giai đoạn trầm cảm nhẹ
- F32.1: Giai đoạn trầm cảm trung bình

- F32.2: Giai đoạn trầm cảm nặng
- F32.3: Giai đoạn trầm cảm nhẹ kèm theo các biểu hiện thần kinh khác
- F32.8 và F32.9: Những giai đoạn trầm cảm
1.2.6. Những dấu hiệu dự đoán về tiến triển tái phát của trầm cảm
Trầm cảm và vấn đề tự sát
Theo tác giả Kaplan các yếu tố tâm thần có ý nghĩa cao trong tự sát là nghiện
rượu, ma tuý, trầm cảm, tâm thần phân liệt... 95% số bệnh nhân tự sát khơng thành cơng
mắc một bệnh tâm thần được chẩn đốn xác định, bệnh nhân bị trầm cảm hoang tưởng
có nguy cơ tự sát cao nhất
Theo Leff và Hirsch cho là trầm cảm và TTPL luôn luôn kết hợp với nhau trong
đó các triệu chứng phân liệt thường rõ rệt hơn còn các triệu chứng trầm cảm bị lu mờ,
thường gặp trong giai đoạn loạn thần cấp và có tới 60% bệnh nhân TTPL trầm cảm có
ý tưởng tự sát, khoảng 10-15% bệnh nhân TTPL trầm cảm do tự sát
Bệnh nhân trầm cảm thường phàn nàn về ăn không thấy ngon trong khi bệnh
nhân chán ăn vẫn có cảm giác ăn ngon và đói và thường bị ám ảnh bởi béo. Có thể sau
nhiều lần tái phát của chán ăn tâm thần thì giai đoạn khởi phát tại gia đình, giai đoạn
cấp tại bệnh viện
Những dấu hiệu dự đoán về tiến triển của trầm cảm
- Tuổi khởi phát muộn trong giai đoạn đầu tiên sẽ có tiên lượng khơng tốt. Sự
tiến triển của trầm cảm tại người cao tuổi thường là nặng vì có thể kết hợp với nhiều


16
bệnh khác và thường có tự sát, bệnh thường phức tạp cùng với sự huỷ hoại trí tuệ và khó
có thể kết hợp với liệu pháp tâm lý- xã hội để điều trị
- Giai đoạn của cơn kéo dài cũng như việc điều trị muộn cũng là những yếu tố
làm cho bệnh tiến triển xấu
- Các triệu chứng hoang tưởng đáp ứng kém với thuốc chống trầm cảm thuần
- Các trạng thái hỗn hợp ít có tiên lượng tốt vì thường che đậy một triệu chưng
cơ thể

- Tính chất nặng nề của trầm cảm và các bệnh nội tiết thường là có tiên lượng tốt
và đáp ứng tốt với điều trị
- Các yếu tố nhân cách có ảnh hưởng khơng tốt đến tiến triển của trầm cảm
Tiến triển và tiên lượng
Trầm cảm gây ra các rối loạn nhận thức, tâm thần vận động và các dạng rối loạn
chức năng khác (ví dụ như tập trung kém, mệt mỏi, mất ham muốn tình dục, mất hứng
thú hoặc thích thú trong hầu hết các hoạt động trước đây, rối loạn giấc ngủ) cũng như
tâm trạng chán nản. Những người bị rối loạn trầm cảm thường có những suy nghĩ tự
sát và có thể nỗ lực tự sát Các triệu chứng hoặc rối loạn tâm thần khác (ví dụ như lo âu
và các cơn hoảng sợ) thường tồn tại cùng nhau, đôi khi làm phức tạp chẩn đốn và điều
trị.
Bệnh nhân có tất cả các hình thức trầm cảm thường có xu hướng lạm dụng rượu
hoặc các loại thuốc giải trí khác để tự điều trị rối loạn giấc ngủ hoặc các triệu chứng lo
lắng; tuy nhiên, trầm cảm là nguyên nhân ít phổ biến hơn của nghiện rượu và lạm dụng
ma túy hơn mà trước đó đã từng được nghĩ. Bệnh nhân cũng có xu hướng trở thành
những người hút thuốc nhiều và bỏ bê sức khoẻ, tăng nguy cơ phát triển hoặc tiến triển
các rối loạn khác (ví dụ COPD).
Trầm cảm có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch bảo vệ cơ thể. Trầm cảm làm tăng
nguy cơ rối loạn tim mạch, nhồi máu cơ tim và đột quỵ, có thể bởi vì trầm cảm, cytokin
và các yếu tố làm tăng đông máu tăng cao và sự biến đổi nhịp tim giảm - tất cả các yếu
tố nguy cơ tiềm ẩn đối với rối loạn tim mạch
Trầm cảm điển hình (rối loạn đơn cực)


17
Bệnh nhân có thể xuất hiện đau khổ, mắt rền rĩ, lơng mày lằn rãnh, góc dưới của
miệng hạ xuống, tư thế sụp, giao tiếp bằng mắt kém, thiếu biểu hiện trên khn mặt, cử
động cơ thể ít và thay đổi giọng nói (ví dụ: giọng mềm, thiếu thân tình, sử dụng của từ
đơn âm). Vẻ ngồi có thể bị nhầm lẫn với bệnh Parkinson. Ở một số bệnh nhân, khí sắc
trầm đến mức nước mắt khơ; họ báo cáo rằng họ không thể trải nghiệm cảm xúc thông

thường và cảm thấy rằng thế giới đã trở nên thiếu màu săc và khơng có sự sống.
Dinh dưỡng có thể bị suy giảm nghiêm trọng, cần can thiệp ngay lập tức.
Một số bệnh nhân trầm cảm không chú ý đến vệ sinh cá nhân hoặc thậm chí con
cái họ, những người thân u khác, hoặc vật ni.
Đối với chẩn đốn, ≥ 5 triệu chứng sau phải xuất hiện gần như mỗi ngày trong
cùng thời kỳ 2 tuần, và một trong số đó phải là khí sắc trầm hoặc mất các quan tâm thích
thú:
Khí sắc trầm hầu hết trong ngày
Giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động
trong hầu hết thời gian trong ngày
Tăng cân đáng kể (> 5%) hoặc giảm cân hoặc tăng khẩu vị
Mất ngủ (thường mất ngủ kiểu tỉnh giấc giữa đêm ) hoặc chứng ngủ nhiều
Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động được quan sát bởi người khác của
người khác (không phải tự nhận xét)
Mệt mỏi hoặc mất năng lượng
Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức hoặc khơng thích hợp
Suy giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung hoặc do dự thiếu quyết đính
Những suy nghĩ lặp lại về cái chết hoặc tự sát, toan tự sát, hoặc một kế hoạch cụ
thể để tự sát
Rối loạn trầm cảm dai dẳng
Triệu chứng trầm cảm kéo dài ≥ 2 năm mà không thuyên giảm được phân loại là
rối loạn trầm cảm dai dẳng (PDD), một thể loại hợp nhất các chứng rối loạn trước đây
gọi là rối loạn trầm cảm điển hình mạn tính và loạn khí sắc


18
Triệu chứng thường bắt đầu một cách âm thần trong thời thanh niên và có thể tồn
tại trong nhiều năm hoặc nhiều thập niên. Số lượng các triệu chứng thường dao động ở
trên và dưới ngưỡng trầm cảm điển hình.
Những bệnh nhân bị ảnh hưởng có thể thường ảm đạm, bi quan, mất hài hước,

thụ động, thờ ơ, sống nội tâm, tự phán xét bản thân hoặc người khác quá mức, và phàn
nàn. Bệnh nhân PDD cũng có nhiều khả năng bị rối loạn lo âu bên dưới, sử dụng chất
gây nghiện hoặc rối loạn nhân cách (ví dụ: rối loạn nhân cách ranh giới).
Để chẩn đoán, bệnh nhân phải có khí sắc trầm trong hầu hết các ngày trong thời
gian ≥ 2 năm cộng với ≥ 2 trong số những triệu chứng sau:
Chán ăn hoặc ăn quá nhiều
Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều
Giảm năng lượng hoặc mệt mỏi
Lòng tự trọng thấp
Kém tập trung hoặc khó khăn trong việc đưa ra các quyết định
Cảm giác tuyệt vọng
Rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt
Rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt liên quan tới các triệu chứng khí sắc và lo âu
mà có liên quan rõ ràng đến chu kỳ kinh nguyệt, khởi phát trong giai đoạn tiền kinh
nguyệt và khoảng thời gian khơng triệu chứng sau khi có kinh nguyệt. Triệu chứng phải
xuất hiện trong hầu hết các chu kỳ kinh nguyệt trong năm qua.
Các biểu hiện tương tự như các biểu hiện của hội chứng tiền kinh nguyệt nhưng nghiêm
trọng hơn, gây ra tình trạng đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng và / hoặc sự suy giảm
đáng kể về chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp. Rối loạn có thể bắt đầu bất cứ lúc nào
sau khi bắt đầu lần đầu có kinh nguyệt; nó có thể tồi tệ hơn như khi mãn kinh nhưng sẽ
chấm dứt sau khi mãn kinh. Tỷ lệ hiện mắc được ước đoán từ 2 đến 6% ở giai đoạn kinh
nguyệt của phụ nữ trong khoảng thời gian 12 tháng.
Đối với chẩn đoán, bệnh nhân phải có ≥ 5 triệu chứng trong tuần trước khi có
kinh nguyệt. Triệu chứng phải bắt đầu thuyên giảm trong vòng vài ngày sau khi bắt đầu
kinh nguyệt và đến mức tối thiểu hoặc biến mất hoàn toàn trong tuần ngay sau khi có
kinh nguyệt. Các triệu chứng phải bao gồm ≥ 1 trong số các triệu chứng sau:


19
Thay đổi khí sắc đáng kể (ví dụ, đột nhiên cảm thấy buồn hoặc khóc)

Bị kích thích hoặc tức giận hoặc xung đột với người khác đáng kể.
Khí sắc giảm đáng kể, cảm giác tuyệt vọng, hoặc những suy nghĩ tự hối lỗi
Lo âu, căng thẳng hoặc dễ cáu đáng kể
Ngồi ra, phải có ≥ 1 trong số những điều dưới đây:
Giảm sự quan tâm trong các hoạt động thông thường
Khó tập trung
Giảm năng lượng hoặc mệt mỏi
Sự thay đổi đáng kể trong cảm giác ngon miệng, ăn quá nhiều hoặc xung động
thèm thức ăn cụ thể
Ngủ nhiều hoặc mất ngủ
Cảm thấy q tải hoặc khơng kiểm sốt
Các triệu chứng cơ thể như tức ngực hoặc sưng, đau khớp hoặc cơ, cảm giác bị
phát phì và tăng cân
Rối loạn trầm cảm khác
Các nhóm triệu chứng có đặc điểm của một rối loạn trầm cảm mà không đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn cho các rối loạn trầm cảm khác nhưng gây ra tình trạng khó chịu
và suy giảm chức năng đáng kể trên lâm sàng được phân loại như rối loạn trầm cảm
khác (biệt định hoặc không biệt định).
Bao gồm những giai đoạn tái diễn với ≥ 4 triệu chứng trầm cảm kéo dài <2 tuần ở những
người chưa bao giờ đạt được tiêu chuẩn cho rối loạn khí sắc khác (ví dụ như trầm cảm
ngắn tái diễn) và giai đoạn trầm cảm kéo dài nhưng bao gồm các triệu chứng khơng đủ
để chẩn đốn một rối loạn trầm cảm khác.
Các biệt định
Trầm cảm chủ yếu và rối loạn trầm cảm dai dẳng có thể bao gồm một hoặc nhiều
biệt định mô tả các biểu hiện bổ sung trong giai đoạn trầm cảm:
Đau khổ lo lắng: Bệnh nhân cảm thấy căng thẳng và không thể nghỉ ngơi một
cách bất thường; họ khó tập trung bởi vì họ lo lắng hoặc sợ rằng điều khủng khiếp có
thể xảy ra, hoặc họ cảm thấy rằng họ có thể mất quyền kiểm sốt bản thân họ.



×