NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHĂM SĨC NGƯỜI BỆNH
CAI RƯỢU TẠI KHOA THẦN KINH
BỆNH VIỆN TÂM THẦN PHÚ THỌ NĂM 2021
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
NAM ĐỊNH - 2021
NAM ĐỊNH - 2021
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHĂM SĨC NGƯỜI BỆNH
CAI RƯỢU TẠI KHOA THẦN KINH
BỆNH VIỆN TÂM THẦN PHÚ THỌ NĂM 2021
Chuyên ngành: Điều dưỡng tâm thần
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths.Vũ Thị Là
NAM ĐỊNH – 2021
i
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................ iii
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH .................................. 3
1. Đặc điểm chung về lạn dụng rượu và nghiện rượu.................................. 3
1.2. Nghiện rượu ........................................................................................ 3
1.3. Mức độ phổ biến của lạn dụng rượu và nghiện rượu ............................ 4
1.4. Hậu quả của lạn dụng rượu và nghiện rượu ......................................... 5
2. Dịch tễ của nghiện rượu ......................................................................... 6
3. Biểu hiện lâm sàng của nghiện rượu ....................................................... 8
4. Hội chứng cai rượu ............................................................................... 13
5. Loạn thần do rượu ................................................................................ 15
6. Điều trị nghiện rượu ............................................................................. 20
7. CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH CAI RƯỢU ............................................ 22
8. Các quy định liên quan tới chăm sóc người bệnh cai rượu .................... 24
Chương 2: MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ .......................................... 26
2.1. Giới thiệu tóm tắt về bệnh viện Tâm thần Phú Thọ............................ 26
2.2. Thực trạng cơng tác chăm sóc người bệnh trầm cảm tại Bệnh viện Tâm
thần Phú Thọ 6 tháng đầu năm 2021......................................................... 26
2.3. Một số ưu điểm và tồn tại .................................................................. 35
Chương 3: BÀN LUẬN ............................................................................... 37
3.1. Bàn luận kết quả chăm sóc người bệnh .............................................. 37
3.2.Ưu điểm ............................................................................................. 38
3.3.Tồn tại ................................................................................................ 38
3.4. Nguyên nhân của các tồn tại .............................................................. 39
3.5. Đề xuất giải pháp............................................................................... 39
KẾT LUẬN ................................................................................................. 41
ĐỀ XUẤT ................................................................................................... 42
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CẢI THIỆN CHĂM SÓC
NGƯỜI BỆNH CAI RƯỢU TẠI BỆNH VIỆN ........................................ 50
KẾT LUẬN ................................................................................................. 52
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong q trình học tập và hồn thành chuyên đề tốt nghiệp tôi nhận được
sự giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo sau đại
học cùng các thầy cô giáo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã nhiệt tình
giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập.
Tơi xin chân thành cảm ơn đến Ban Lãnh đạo Bệnh viện, các cán bộ y tế
trong Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ đã giúp đỡ, chia sẻ cho tôi những kinh nghiệm
quý báu trong thời gian tôi học tập và làm chuyên đề.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Thạc sỹ Vũ Thị Là - Trưởng Bộ môn Điều dưỡng
cơ sở đã giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện và hồn thành
chun đề này.
Tơi xin chân thành cảm ơn người bệnh, gia đình người bệnh đã thơng cảm
tạo điều kiện cho tôi được thăm khám tiếp xúc, lắng nghe và thực hiện nghiêm túc
những lời khuyên dành cho họ.
Tôi xin được cảm ơn các bạn trong lớp Chuyên khoa I, khóa 8 hệ 2 năm đã
cùng vai sát cánh với tơi để hồn thành tốt chun đề này.
Xin chân thành cảm ơn!
Ngày 30 tháng 6 năm 2021
Học viên
Nguyễn Thị Thuý Hằng
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là báo cáo của riêng tơi. Những thơng tin trong khố
luận là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Ngày 30 tháng 6 năm 2021
Học viên
Nguyễn Thị Thuý Hằng
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, rượu được biết đến như một vấn đề nan giải trong xã hội hiện
đại. Nhiều người vẫn lầm tưởng rượu là một chất kích thích. Nhưng trên thực tế
nó là chất ức chế thần kinh trung ương, ảnh hưởng mạnh đến tâm tính sự phán
đốn, cử chỉ, tính tập chung và ý thức của người sử dụng. Với số lượng vừa phải
rượu làm cho người uống cảm giác khoan khoái dễ chịu vui vẻ, giải khuây, giúp
quên đi những khó khăn nhọc nhằn trong cuộc sống. Nhưng nếu lạn dụng rượu,
uống rượu lượng nhiều và đều đặn mỗi ngày trong thời gian dài sẽ dẫn đến chứng
nghiện rượu. Nó sẽ ăn mịn sức khoẻ và nhân cách, gây nhiều tác hại nặng nề, có
thể làm băng hoại đạo đức xã hội và đổ vỡ hạnh phúc gia đình
Số người sử dụng rượu trên thế giới có xu hướng ngày càng tăng, tuổi bắt
đầu uống ngày trẻ, bệnh lý do rượu ngày càng trầm trọng. Theo ước tính của tổ
chức y tế thế giới WHO có khoảng 2 tỷ người sử dụng rượu. Trong đó có khoảng
140 triệu người nghiện rượu. Nhiều bệnh viện tâm thần ở các nước phát triển đã
phải dành 30% giường nội trú cho các bệnh lý do rượu[9]
Ở nước ta qua một số điều tra năm 1988 tỷ lệ nghiện rượu ở một phường
tại Hà Nội là 1,15% dân số, năm 1988 tại một xã ở Hà Tây là 4,66% dân số[9]
Theo thống kê của Bệnh viện tâm thần Phú Thọ trong 3 tháng đầu năm
2021 số người phải nhập viện điều trị liên quan đến rượu lên đến 10-14% tổng số
người bệnh điều trị nội trú của bệnh viện là 259 bệnh nhân.
Đi kèm với số người bệnh phải nằm điều trị ngày càng tăng thì cơng tác
chăm sóc cho người bệnh cũng phải được quan tâm đúng mực để tăng cường hiệu
quả của điều trị. Chăm sóc hỗ trợ bao gồm hạn chế cơ học :Bệnh nhân nên được
đặt trong một mơi trường an tồn, n tĩnh, điều chỉnh cân bằng nước và điện giải,
đặc biệt bổ sung vitamin B1 và các vitamin nhóm B khác nhằm dự phịng bệnh
não Wernicke.
Để đảm bảo cho việc chăm sóc người bệnh cai rượu được tốt hơn và nhằm
hạn chế tỷ lệ tử vong góp phần làm giảm bớt gánh nặng cho nền kinh tế xã hội thì
vai trị của người điều dưỡng rất quan trọng. Do vậy tôi tiến hành nghiên cứu
2
chuyên đề: “Thực trạng chăm sóc bệnh nhân cai rượu tại Khoa Thần kinh - Bệnh
viện Tâm thần Phú Thọ năm 2021” với 2 mục tiêu sau:
1. Nhận xét thực trạng chăm sóc người bệnh cai rượu tại Bệnh viện
Tâm thần Phú Thọ.
2. Đề xuất các biện pháp cải thiện chăm sóc cho người bệnh cai rượu
tại Bệnh viện Tâm thần Phú Thọ
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH
1. Đặc điểm chung về lạn dụng rượu và nghiện rượu
1.1. Lạn dụng rượu
1.1.1. Khái niệm
Uống rượu là một tập quán của con người trong giao tiếp cộng đồng đã xuất
hiện và tồn tại từ rất lâu trên thế giới có tính xã hội rộng rãi được ghi nhận sâu sắc
trong nhiều nền văn hoá của nhiều nền dân tộc. Tuy nhiên rượu là chất tác động
tâm thần, uống rượu ở mức độ vừa phải đem lại cho người uống cảm giác sảng
khoái, vui vẻ, hoạt bát trong giao tiếp.... Nhưng uống rượu ở những liều lượng lớn
người uống dễ lâm vào trạng thái say rượu khơng cịn làm chủ được bản thân,
thậm chí có thể hơn mê, ngộ độc cấp do rượu gây hại cho sức khoẻ bản thân và
được coi là lạn dụng rượu. Lạn dụng rượu là một khái niệm đơi khi khó xác định
ranh giới giữa việc sử dụng rượu thông thường và sử dụng gây hại dẫn đến phụ
thuộc rượu, nghiện rượu
1.1.2. Tiêu chuẩn lạn dụng rượu theo DSM-IV(1994)
Theo hội tâm thần học Hoa Kỳ trong tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, thống
kê DSM-IV(1994) tiêu chuẩn lạn dụng rượu ghi nhận như sau:
- Hình thức sử dụng rượu khơng tương thích gây ra một sự biến đổi về chức
năng, hoặc một sự chịu đựng có ý nghĩa lâm sàng, đặc trưng bằng sự có mặt của
ít nhất một trong những biểu hiện sau trong vòng một năm
+ Sử dụng nhắc lại rượu dẫn đến làm mất khả năng thực hiện những nhiệm
vụ trọng yếu trong công việc, ở nhà hoặc ở trường
+ Sử dụng nhắc laiị rượu trong những tình huống gây hại về thể chất
+ Lập lại những vấn đề về tư pháp liên quan đến việc sử dụng rượu
+ Sử dụng rượu mặc dù biết có những vấn đề dai dẳng hoặc tái diễn giữa
các cá nhân hoặc xã hội xảy ra hoặc kịch phát lên do những tác động của rượu
+ Khơng có biểu hiện của sự phụ thuộc rượu
1.2. Nghiện rượu
1.2.1. Một số khái niệm về nghiện rượu
4
Năm 1894 Huss M( Thuỵ Sĩ)- Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “ Nghiện
rượu” để chi những người uống rượu thường xuyên và thái quá có những vấn đề
về sức khoẻ cơ thể và tâm thần. Cho đến nay người ta đã xác định nghiện rượu là
một loại bệnh lý do rượu, có các tác nhân thúc đẩy và nguyên nhân khác nhau.
Tuy nhiên, định nghĩa thế nào là nghiện rượu thì vẫn đang là một vấn đề cịn khó
xác định. Đã có những định nghĩa khác nhau đề cập đến nhiều khía cạnh của
nghiện rượu
+ Năm 1951 Pougyet định nghĩa: Gọi là nghiện rượu khi một cá nhân đã sử
dụng rượu mà bị mất tự do vì rượu
+ Năm 1994, Hardy O và Keureis O định nghĩa nghiện rượu như sau
- Về mặt số lượng: Nghiện rượu là sử dụng hàng ngày vượt quá 1ml cho 1
kg cân nặng hoặc ¾ lít rượu vang 10% cồn cho một người đàn ông nặng 70kg
- Về mặt xã hội: Nghiện rượu là tất cả những hình thái uống rượu vượt quá
việc sử dụng thông thường và truyền thống
1.2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu
* Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu theo ICD-10(1992) được xác định như
sau:
+ Thèm muốn mạnh liệt hoặc cảm thấy bắt buộc phải sử dụng rượu
+ Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về mặt thời gian bắt
đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng
+ Xuất hiện hội chứng cai rượu khi việc sử dụng rượu bị ngừng lại hoặc bị
giảm bớt
+ Cho những bằng chứng vè sự dung nạp như tăng liều
+ Dần dần xao nhẵng những thú vui hoặc những thích thú trước đây
+ Tiếp tục sử dụng mặc dù có những hậu quả tác hại
Chỉ được chẩn đoán nghiện rượu khi có từ 3 điểm trở lên đã được trải
nghiệm hoặc biểu hiện trong vòng 1 năm trở lại đây
1.3. Mức độ phổ biến của lạn dụng rượu và nghiện rượu
5
Người ta nhận thấy việc tiêu thu rượu, bia có chiều hướng tăng lên trog
những thập kỷ qua. Theo Godard J có sự tương đồng trong tiêu dùng rượu ở những
quốc gia khác nhau, thể hiện bằng việc sử dụng bia tăng lên ở các nước La Tinh,
tăng sử dụng rượu vang ở các nước Anglo Xacxông và rượu mạnh được dùng ở
nhiều nơi. Chính vì thế mà tỷ lệ người nghiện rượu có xu hướng tăng ở các nước
Tài liệu nghiên cứu của tổ chức y tế thế giới ở 15 nước công nghiệp phát
triển cho thấy năm 1929 chỉ có 0,03% dân số nghiện rượu, năm 1940 tăng lên
0,33% và năm 1975 tăng lên 1,23% dân số. Tỷ lệ nghiện rượu trong dân chúng ở
các nước phương Tây tăng lên so với nước chiến tranh khoảng 2-3 lần
Ở nước ta cac bài báo cáo tại “ Hội nghị sơ kết nghiên cứu dịch tễ, lâm sàng
lạn dụng rượu” Năm 1994 cho thấy: Tỷ lệ lạn dụng rượu ở khu vực thành phố
chiếm 5-10,4% dân số, khu vực nông thôn 0,57-1,2%. Tỷ lệ nghiện rượu ở thành
phố 1,16-3,61% dân số, miền núi 2,34%; nông thôn 0,14-0,42%. Năm 2005 theo
Lâm Xuân Điền tỷ lệ nghiện rượu riêng ở thành phố Hồ Chí Minh là 3% và chung
cho cả nước 0,31-3% dân số, ngày nay con số này có thể tăng lên rất cao
1.4. Hậu quả của lạn dụng rượu và nghiện rượu
Nghiện rượu và lạn dụng rượu không những để lại hậu quả nghiên trọng
cho chính bản thân người sư dụng rượu mà còn để lại những hậu quả xấu về mặt
kinh tế và an ninh toàn xã hội
1.4.1. Hậu quả đối với cá nhân
Rượu sau khi vào cơ thể sẽ được phân bố đến các cơ quan nội tạng, việc
Nghiện rượu và lạn dụng rượu lâu ngày sẽ từng bước ảnh hưởng đến chức năng
các cơ quan nội tạng, lâu dần sẽ gây rối loạn chức năng cơ quan nội tạng làm phát
sinh các rối loạn, các bệnh lý khác nhau
Năm 1996 Lâm Xuân Điền và cộng sự điều tra tại 5 bệnh viện đa khoa
Thành Phố Hồ Chí Minh cho thấy 17,1% số người có sử dụng rượu. Trong đócác
bệnh về tiêu hố 20,9%; các bệnh về xương khớp cơ 19,2%; các bệnh về hô hấp
11,6%; các bệnh nhiễm khuẩn 8,1%; tim mạch 7,0%
1.4.2. Hậu quả về kinh tế- xã hội
6
Theo Ades J 1990 tại Pháp Nghiện rượu và lạn dụng rượu là nguyên nhân
cảu 60% số tử vong tai nạn giao thông. 10-20% số tử vong do tai nạn lao động
25% số tử vong do tự sát. Ở Bắc Mỹ và Châu Âu tỷ lệ chét tăng 1,6-4,7 lần ở
những người lạn dụng rượu. Chính vì vậy từ lây tổ chức y tế thế giới đã xếp các
bệnh lý do rượu đứng hàng thứ 3 sau các bệnh tim mạch và ung thư vè nguyên
nhân gây tử vong
Ở Việt Nam tổng hợp báo cáo trong “ Hội nghị sơ kết nghiên cứu dịch tế,
lâm sàng lạn dụng rượu” cho thấy trong số những người lạn dụng rượu nghiện
rượu có tới 31% mất việc làm, gia đình bị tan vỡ chiếm từ 8-18% gây tai nạn cho
người khác từ 5-20% bị thương vì uống rượu gây tai nạn cho mình từ 5-34% phạm
pháp bị bắt giữ từ 5-25%. Số người lạn dụng rượu và nghiện rượu bị sa sút về kinh
tế chiếm từ 45-69%
2. Dịch tễ của nghiện rượu
2.1. Tuổi
Nghiện rượu hay gặp ở lứa tuổi từ 30 tuổi trở lên. Tuy nhiên nghiện rượu
tăng lên nhanh chóng theo lứa tuổi khoảng 70% dân số nghiện rượu gặp ở người
dưới 40 tuổi, 90% người nghiện rượu dưới 50 tuổi và 94% người nghiện rượu ở
dưới 60 tuổi
Theo nghiên cứu của tác giả Việt Nam như Nguyễn Viết Thiêm, Trần Viết
Nghị, Qch Văn Ngư...thì có 27-50% số người nghiện rượu nằm trong độ tuổi
30-40 nghĩa là độ tuổi lao động quan trọng. Một số tác giả đã tính ra tuổi trung
bình của người nghiện rượu ở Việt Nam là 42 tuổi
2.2. Giới
Tỷ lệ nam/ nữ nghiện rượu nói chung dao động từ 4/1 đến 8/1. Trong các
nghiên cứu lâm sàng ngày nay hầu hết người bệnh là nam giới
Theo tác giả Starova L.V tỷ lệ nghiện rượu ở nữ chỉ là 10% tổng số người
bệnh nghiện rượu
Ở Việt Nam các nghiên cứu về nghiện rượu đều cho thấy hầu hết người
bệnh là nam giới, số người bệnh là rất nhỏ nữ hầu như khơng có, có lẽ điều này là
7
do phong tục tập quán ở nước ta khác các nước Phương Tây. Phụ nữ Việt Nam
rất ít uống rượu nên hầu như khơng có người bệnh nữ bị nghiện rượu
2.3. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp là mơi trường có ảnh hưởng lớn đến lạn dụng rượu, từ đó phát
sinh ra nghiện rượu. Có 3 loại nghề nghiệp liên quan đặc biệt đến nghiện rượu là
nông dân với môi trường nông thôn, tầng lớp công nhân lao động chân tay nặng
nhọc, những nghề phải tiếp xúc với công chúng nhiều như bồi bàn, nhân viên
chuyển hàng và giới kinh doanh
Nghiên cứu của tác giả Lý Trần Tình cho thấy cơng nhân chiếm tỷ lệ 34,4%,
nông dân chiếm 32,3%; viên chức 6,3% và 21,7% làm nghề tự do
2.4. Trình độ học vấn
Các nghiên cứu trong và ngồi nước đều cho thấy có một tỷ lệ đáng kể
người bệnh có trình độ học vấn thấp. Theo Soayka M( 1990) cho thấy 64,2% có
học vấn phổ thơng trung học và 13,2% có học vấn tiểu học
Tác giả Trần Viết Nghị ( 1996) cho thấy có tới 80,6% số người nghiện rượu
chưa tốt nghiệp phổ thông trung học
2.5. Lượng rượu uống hàng ngày
Các nghiên cứu về lượng rượu uống hàng ngày của người bệnh nghiện rượu
còn khác nhau, tuỳ thuộc vào từng vùng miền và tập quán của nhân dân địa
phương. Nói chung lượng rượu uống trong ngày phải vượt qua 300ml rượu 40 độ
thì người bệnh mới có thể trở thành nghiện rượu sau 10 năm uống liên tục. Đây
chỉ là giới hạn dưới của nghiện rượu. Người bệnh nghiện rượu thực tế uống rải
rác trong ngày tổng lượng rượu uống có thể lên tới 1000ml rượu 40 độ
2.6. Thời gian uống rượu của người bệnh nghiện rượu
Đa số các tác giả đều cho rằng thời gian uống rượu phải trên 10 năm trở lên
thành nghiện rượu. Chỉ một số rất ít các người bệnh rượu trên 5 năm đã trở thành
nghiện rượu. Nói chung, tỷ lệ người nghiện rượu có thời gian uống dưới 5 năm
chỉ chiếm khoảng 10% số trường hợp, tỷ lệ cao nhất gặp trong nhóm uống rượu
8
từ 10-15 năm chiếm 60% các người bệnh ở các nhóm thời gian uống rượu 10-20
năm chiếm 30%
2.7. Tiền sử gia đình của người bệnh nghiện rượu
Những người con của các bệnh nhân nghiện rượu có tỷ lệ nghiện rượu cao
gấp 4-5 lần những người con của những người bệnh con khơng nghiện rượu. Các
nghiên cứu sau đó đã cho thấy nghiện rượu là một bệnh di truyền. Nghiện rượu ở
những người con một phần do ảnh hưởng trực tiếp từ lồi sống, sinh hoạt của bố
mẹ, phần khác do ảnh hưởng của tính di truyền đã được chứng minh qua nghiên
cứu những cặp sinh đôi cùng trứng và khác trứng. Khoảng 60% trường hợp người
bệnh nghiện rượu có bố mẹ anh em là người nghiện rượu
3. Biểu hiện lâm sàng của nghiện rượu
3.1. Giai đoạn 1( Giai đoạn giống suy nhược thần kinh)
Đây là giai đoạn khởi đầu của nghiện rượu. Thật ra lúc này người bệnh
chưa trở thành nghiện rượu và khi bỏ rượu họ khơng có hội chứng cai rượu. Tuy
nhiên đây là bước đầu tiên quan trọng mà người nghiện rượu nào cũng phải trải
qua. Người bệnh thích uống rượu và lượng rượu cũng tăng dần. Nếu khơng uống
rượu thì người bệnh cảm thấy thèm và nhớ rượu. Vì thế người bệnh tận dụng mọi
cơ hội để uống rượu
Đơi khi có thể ghi nhận các cơn say rượu bệnh lý của người bệnh. Đó là
tình trạng rối loạn ý thức trầm trọng, xuất hiện đột ngột sau khi uống một lượng
rượu nhỏ. Trong cơn say bệnh lý, người bệnh có thể có các rắc rối loạn hành vi
rất trầm trọng nhhư đánh người, đập phá,... Cơn say rượu bệnh lý thường kết thúc
đột ngột bằng một giấc ngủ. Khi thức dậy người bệnh không nhớ những gì đã xảy
ra trong cơn. Cơn say rượu bệnh lý tuy hiếm những rất đặc trưng cho giai đoạn I
của nghiện rượu
Cơn say bệnh lý có thể tái phát ngày càng trầm trọng và mật độ cơn ngày
càng nhiều nếu người bệnh vẫn tiếp tục uống rượu
Các người bệnh này dần dần thay đổi tính tình. Họ dần trở lên độc ác, hay
nổi cáu vô cớ, hay quấy nhiễu và đa nghi. Những nạn nhân của họ thường là vợ
9
con và các thành viên khác trong gia đình. Người bệnh hay quên mất ngủ, trí nhớ
và chú ý rất kém, hay mệt mỏi....khả năng lao động giảm sút nghiêm trọng. Vì
vậy giai đoạn này cịn gọi là giai đoạn giống suy nhược thần kinh
Trong giai đoạn này, nếu người bệnh cai rượu thì các triệu chứng trên dần
biến mất. Nếu người bệnh tiếp tục uống rượu thì bệnh nhân sẽ chuyển sang giai
đoạn II của nghiện rượu
3.2. Giai đoạn II( Giai đoạn có hơi chứng cai)
Trong giai đoạn này người bệnh đã thực sự trở thành nghiện rượu. Người
bệnh ln trong tình trạng thèm rượu bắt buộc, khơng thể kiềm chế. Vì thế họ có
thể uống rượu bất cứ lúc nào. Nếu bị cấm uống họ sẽ tìm mọi cách để uống rượu
Bình thường cứ sau một khoảng thời gian nhất định họ lại phải uống rượu
để giảm cơn thèm rượu. Quãng thời gian này càng ngày càng ngắn lại, vì thế
khơng có gì phải ngạc nhiên nếu người bệnh luôn triền miên trong trạng thái say
rượu
Nếu không được uống rượu người bệnh sẽ có hội chứng cai rượu. Hội
chứng cai rượu xuất hiện khi nồng độ cồn trong máu người bệnh giảm xuống. Vì
thế hội chứng cai hay xuất hiện vào buổi sáng, sau một đêm không được uống
rượu. Để ngăn chặn hội chứng cai rượu bệnh nhân phải uôgs ngay sau khi ngủ
dậy. Do vậy hành vi uống rượu vào buổi sáng bị coi là nghiện rượu ở hầu hết các
nền văn hoá trên thế giới
Trong giai đoạn này biểu hiện của trạng thái phụ thuộc thực tế chiếm ưu
thế. Tình trạng say rượu bệnh lý ngày càng gia tăng, khơng tự kiềm chế được và
có tính chất cưỡng bức( thèm bắt buộc). Người bệnh có đủ nghị lực để đấu tranh
chống lại cơn thèm rượu. Các triệu chứng ở giai đoạn I không những không biến
mất mà còn phát triển tăng lên. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là hội chứng
cai xảy ra khi người bệnh không uống rượu vài giờ hoặc vài ngày. Hội chứng cai
biểu hiện bằng các triệu chứng rối loạn tâm thần cũng như các triệu chứng rối loạn
thần kinh và các rối loạn cơ thể. Các triệu chứng này chỉ giảm hoặc mất đi khi
người bệnh uống trở lại. Các triệu chứng rối loạn tâm thần ở đây rất rõ ràng. Trên
10
nền khí sắc giảm xuất hiện trạng thái buồn rầu, dễ bực tức, giận dữ, độc ác, đa
nghi. Người bệnh cảm thấy sợ hãi vô duyên vô cớ và các ý tưởng buộc tội mình
có thể có ảo thị giác và ảo thính giác thật, giấc ngủ khơng sâu, nhiều ác mộng,
làm cho người bệnh có cảm giác khơng thoải mái sau khi ngủ dậy
Hội chứng cai còn biểu hiện ở rối loạn thần kinh và thần kinh thực vật: nhịp
tim nhanh, tăng huyết áp, run đầu chi, khô miệng, chóng mặt, chán ăn, buồn nn,
ỉa chảy, tăng tiết mồ hơi, có thể run nhẹ các cơ mặt
Biểu hiện rối loạn tâm thần trong giai đoạn này thường là tiến triển cấp tính
và kéo dài, triệu chứng đa dạng và ngày càng đậm nét hơn. Giai đoạn phụ thuộc
thực thể này có thể kéo dài 3-5 năm
Hội chứng cai rất hay gặp ở người nghiện rượu, nặng nề nhất la sảng rượu:
+ Giai đoạn khởi phát
Sảng rượu có khởi phát đột ngột, cấp tính trong khoảng thời gian từ một
đến vài ngày sau khi ngừng uống rượu. Biểu hiện ban đầu của sảng rượu là bệnh
nhân mất ngủ, chếnh choáng, run lẩy bẩy, rối loạn thần kinh thực vật (đỏ da, mạch
nhanh, ra nhiều mồ hôi, đánh trống ngực, lo lắng, sợ hãi). Quãng thời gian từ lúc
ngừng rượu cho đến khi có sảng rượu là khác nhau, thường từ 1-2 ngày, nhưng có
trường hợp phải sau 3-4 ngày. Sảng rượu luôn được bắt đầu bởi cơn co giật kiểu
động kinh, vì vậy, nếu bệnh nhân cai rượu có cơn co giật kiểu động kinh thì cần
phải đề phịng sảng rượu.
+ Giai đoạn toàn phát
Giai đoạn toàn phát của sảng rượu thường xuất hiện sau cai rượu 3-5 ngày
và có triệu chứng rất đa dạng và phong phú. Sảng rượu bao gồm 3 triệu chứng
chính sau:
– Mất ngủ hồn tồn: Bệnh nhân mất ngủ trầm trọng, họ không ngủ được
một tí gì trongvịng 24 giờ qua.
– Rối loạn ý thức: Bệnh nhân bị rối loạn định hướng không gian (không
biết đây là đâu), thời gian (không biết bây giờ là sáng hay chiều). Rối loạn định
hướng bản thân (không biết mình là ai) ít gặp.
11
– Hoang tưởng và ảo giác rất rầm rộ: Bệnh nhân có các ảo thanh thật, ảo
thị và hoang tưởng bị hại biểu hiện rất mạnh mẽ. Các hoang tưởng và ảo giác này
có bất kỳ lúc nào trong ngày và chi phối hành vi của bệnh nhân. Vì vậy họ hay
vùng chạy đột ngột, tấn công các kẻ thù vơ hình… kết quả là có thể gây ra các tai
nạn (ngã, chạm vào ổ điện, chém vào chân mình) có thể gây ra tử vong.Các triệu
chứng của sảng rượu thường tăng lên về chiều tối và giảm đi vào buổi sáng.
+ Tiêu chuẩn chẩn đoán sảng rượu theo DSM 5[1]
A. Rối loạn ý thức cùng với giảm sự tập trung chú ý.Sự chú ý luôn xê dịch.
B. Rối loạn nhận thức: Giảm trí nhớ, rối loạn định hướng, rối loạn ngôn
ngữ hoặc rối loạn khả năng quan sát.
C. Các rối loạn này xuất hiện cấp tính (trong vài giờ đến vài ngày) và tiến
triển có khuynh hướng dao động trong ngày.
D. Có bằng chứng về một hội chứng cai rượu.
3.3. Giai đoạn III( Giai đoạn bệnh não thực tổn thương do rượu)
Giai đoạn này có đặc điểm là biến đổi từ từ làm cho các triệu chứng ở giai
đoạn II nặng lên và xuất hiện thêm các triệu chứng mới. Thèm rượu có khuynh
hướng giảm đi bớt lè nhè và bớt quấy rối hơn trước, thèm bắt buộc đối với rượu
xây ra do các yếu tố loạn tâm thần nội sinh. Khả năng dung nạp rượu kém, trạng
thái say xảy ra với liều lượng nhỏ hơn giai đoạn I và giai đoạn II
- Hội chứng ở giai đoạn này diễn ra dài hơn, biểu hiện rối loạn thần kinh
vận mạch, rối loạn cơ thể và rối loạn kinh cũng nặng nề hơn giai đoạn I và giai
đoạn II. Biểu hiện trạng thái ở người bệnh với mạch chậm và xẹp mạch
Rượu đối với não:
Rượu không phải là một chất kích thích mà là một chất làm suy giảm cả hai
quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương. Nhưng rượu làm mất
ức chế mạnh hơn gây nên quá trình hưng phấn giả và vì vậy người uống rượu cảm
thấy hưng phấn, đỡ lo âu, sợ hãi, hoạt động nhiều, nói nhiều, khả năng tự kiềm
chế bản thân suy giảm nên lời nói thiếu tế nhị, suồng sã, sàm sỡ, cử chỉ hoạt động
thiếu chính xác.
12
Khi nồng độ rượu trong máu là 0,3% thì vận động và tư duy, tri giác đều bị
rối loạn. Khi nồng độ rượu lên tới 0,4% - 0,5% thì cả hai quá trình hưng phấn và
ức chế đều bị suy giảm, người uống rượu bị bất tỉnh, hôn mê và khi nồng độ rượu
lên đến 0,6% - 0,7% thì người uống rượu có thể tử vong.
Rượu ảnh hưởng đến các cơ quan khác:
- Tác dụng lên tuyến yên, gây nên rối loạn sự tăng trưởng, rối loạn kinh
nguyệt, rối loạn chuyển hóa nước và muối khống.
- Gây viêm dạ dày, viêm tụy cấp.
- Tác hại đối với gan: gây xơ gan, thối hóa mỡ gan.
- Các bệnh mạch máu, tim mạch, tăng lắng đọng choleterol ở mạch máu và
ở tim gây xơ mỡ động mạch.
3.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu
Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu (ICD-10):
Chỉ chẩn đoán nghiện rượu khi có từ 3 triệu chứng trở lên và được trải
nghiệm hay biểu lộ vào một lúc nào đó trong vòng 1 năm trở lại đây:
(1) Thèm muốn mãnh liệt. Cảm thấy bắt buộc phải uống rượu.
(2) Giảm hoặc ngừng uống rượu là một việc làm rất khó khăn (Khơng tự
làm chủ được mình).
(3) Khi ngưng sử dụng có hội chứng cai xuất hiện.
(4) Phải tăng liều dần mới đạt được khối cảm.
(5) Bỏ bê cơng việc hàng ngày và dùng nhiều thời gian để tìm kiếm và sử
dụng rượu.
(6) Tiếp tục sử dụng rượu dù đã có những hậu quả về mặt cơ thể.
Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai rượu theo DSM IV (1994):
Ngừng hoặc giảm uống rượu khi đang uống liều cao và kéo dài.
Có ít nhất là 2 dấu hiệu dưới đây xảy ra sau tiêu chuẩn A vài giờ đến vài
ngày:
+ Tăng hoạt động tự động nhịp tim (nhịp tim > 100 lần/phút, mồ hôi ra rất
nhiều).
13
+ Run tay.
+ Mất ngủ.
+ Buồn nôn hoặc nôn.
+ Ảo thị, ảo thanh và ảo khứu hoặc hoang tưởng.
+ Kích động tâm thần vận động.
+ Có trạng thái lo âu.
+ Có cơn co giật kiểu động kinh cơn lớn
4. Hội chứng cai rượu
4.1. Lâm sàng
Hội chứng cai rượu vẫn là một chẩn đoán lâm sàng nên cần loại trừ các
nguyên nhân khác đặc biệt khi có thay đổi ý thức và sốt. Các tình trạng như nhiễm
trùng thần kinh trung ương (viêm màng não), chấn thương (xuất huyết nội sọ), rối
loạn chuyển hóa, quá liều ma túy, suy gan và xuất huyết tiêu hóa có thể giống
hoặc cùng tồn tại với cai rượu. Có thể thực hiện chọc dị tủy sống và chụp cắt lớp
vi tính sọ não để loại trừ các chẩn đoán khác. Chẩn đoán sớm hội chứng cai rượu
có thể dẫn đến việc sử dụng thuốc an thần khơng phù hợp và trì hỗn các chẩn
đốn khác.
Người bệnh trong tình trạng mệt mỏi, uể oải, nhưng người bệnh khơng có
hiện tượng ngáp và chảy nước dãi như trong cai nghiện ma tuý. Họ chán ăn và ăn
được rất ít mà uống rượu là chủ yếu, nhiều người khơng chịu ăn uống gì. Người
bệnh hay buồn nơn và nơn, nhưng khi được uống rượu thì tình trạng này hết ngay
lập tức. Chúng ta có thể lợi dụng hiện tượng này để bù nước và điện giải cho
người bệnh bằng cách cho người bệnh uống nước pha với một chút rượu
Triệu chứng mất ngủ gặp ở hầu hết các người bệnh có hội chứng cai rượu.
Mất ngủ xuất hiện ngay tối đầu tiên sau khi cai rượu. Người bệnh khó vào giấc
ngủ khơng sâu hay tỉnh giấc sớm và đầy ác mộng. Đặc biệt khi ngủ dậy người
bệnh không cảm thấy thoải mái mà còn thấy rất mệt. Mất ngủ sẽ nặng dần vào các
ngày tiếp theo va đạt đỉnh là ở ngày thứ 3 và ngày thứ 5
14
Người bệnh có biểu hiện rối loạn thần kinh thực vật nặng nề mạch nhanh,
ra mồ hôi, huyết áp cao. Mạch của người bệnh thường lên trên 100 lần/ phút. Kèm
theo mạch nanh người bệnh có huyết áp cao. Bên cạnh đó người bệnh ra mồ hơi
rất nhiều quần áo họ thường ướt đẫm mồ hơi vì vậy chúng ra rất dễ nhận ra. Thân
nhiệt của người bệnh tăng do run cơ, người bênh có thể sốt cao sẽ làm tình trạng
rối loạn nước giải nặng hơn. Người bệnh có thể tử vong do rồi điện giải nặng hơn.
Người bệnh có thể tử vong do rối loạn điện giải trầm trọng
Đa số người bệnh có kích động tâm thần, vận động: họ la hét, chửi bới lung
tung đánh đập vợ con, đập phá đồ đạc
Hoang tưởng và ảo giác do cai rượu: Thường xuất hiện ở ngày thứ 3 đến
ngày thứ 5 sau khi ngừng uống rượu. Khi hoang tưởng và áo giác kết hợp trên
cùng một người bệnh, người ta gọi là hội chứng Paranoid do cai rượu
Khoảng 85% người bệnh có hội chứng cai rượu sẽ có ảo giác. Ảo giác hay
gặp nhất trong cai rượu là ảo thanh thật
Hoang tưởng cũng là triệu chứng hay gặp khoảng 65% người bệnh cai rượu
sẽ có hoang tưởng. Hoang tưởng ở người bệnh cai rượu thường gặp là hoang tưởng
ghen tng. Một số người bệnh có hoang tưởng bị hại cho rằng ma quỷ hại mình
Triệu chứng trầm trọng nhất trong hội chứng cai rượu đó là chính là cơn co
giật kiểu động kinh
Cơn co giật kiểu động kinh được coi là triệu chứng nặng vì nó xuất hiện khi
hội chứng cai rượu đạt đỉnh về mức độ trầm trọng hơn nữa nó là dấu hiệu cho thấy
người bệnh sắp vào giai đoạn sảng rượu
Sảng rượu là một cấp cứu tâm thần tối khẩn cấp, nếu không được điều trị
kịp thời đúng quy cách thì tỷ lệ tử vong cao. Sảng rượu xuất hiện trên nền hội
chứng cai rượu mức độ nặng. Khi người bệnh sảng rượu thì việc điều trị sẽ trở lên
khó khăn tiên lượng sẽ rất nặng
4.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai rượu theo DSM-IV
Chẩn đốn hội chứng cai rượu theo Tiêu chí chẩn đốn và thống kê các rối
loạn tâm thần (DSM-5):
15
A. Ngừng hoặc giảm đáng kể lượng rượu uống khi đang sử dụng rượu liều
cao và kéo dài.
B. Có ít nhất 2 tiêu chuẩn dưới đây xảy ra sau tiêu chuẩn A vài giờ đến vài
ngày.
Tăng hoạt động tự động.
Run tay.
Mất ngủ.
Nơn, buồn nơn.
Lo âu q mức.
Kích động tâm thần vận động.
Ảo thị giác, ảo thanh, hoặc hoang tưởng.
Cơn co giật kiểu động kinh.
C. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn B gây suy giảm rõ rệt các chức năng xã
hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.
D. Các triệu chứng này không do một bệnh thực tổn và một bệnh rối loạn
tâm thần khác gây ra.
5. Loạn thần do rượu
5.1. Ảo giác do rượu
Ảo giác: thường là những ảo giác thật, có thể có nhiều ảo giác trên một
bệnh nhân, có thể có ảo thanh, ảo thị, ảo giác xúc giác, ảo khứu,…
- Ảo thanh hay gặp nhất ở bệnh nhân, ảo thanh phần lớn được phát triển
trên nền tảng những rối loạn khác kèm theo, đôi khi ảo thanh xuất hiện vào ngày
cuối cùng của cơn uống rượu. Ảo thanh thường xuất hiện vào chiều tối và lúc
thiêm thiếp ngủ. Có thể là ảo thanh thơ sơ hay ảo thanh lời nói.
- Giọng nói có thể nói chuyện với bệnh nhân hay nói chuyện với nhau.
Cường độ ảo thanh có thể là tiếng kêu hay tiếng thì thầm, giọng nói biến đổi nhưng
thường có những chủ đề liên quan với nhau. Ảo thanh nặng lên về chiều tối. Thoái
triển đột ngột sau một giấc ngủ sâu hay giảm dần về cường độ và tần số, khi ảo
thanh hết hẳn thì bệnh nhân phê phán được trạng thái loạn thần đã qua.
16
- Ảo thị cũng thường gặp sau ảo thanh, nội dung ảo thị thường phù hợp với
nội dung ảo thanh và hoang tưởng. Khi ảo giác có sảng thì bệnh nhân thấy những
cơn trùng, động vật với kích thước thu nhỏ. Khi ảo giác kèm theo ý thức u ám
bệnh nhân thấy những cảnh giống mộng nhưng chủ đề thường khơng hồn chỉnh
và mất tính thứ tự.
- Ảo xúc ít gặp hơn ảo thanh và ảo thị, thường xuất hiện cùng với ảo thị,
bệnh nhân thấy những cơn trùng bị trên da thịt, chuột gậm nhấm chân tay mình
gây cảm giác khó chịu. Đơi khi ảo xúc là cảm giác những vật lạ trong miệng và
họng.
- Ảo khứu và ảo vị chỉ gặp ở 9% bệnh nhân loạn thần do rượu với ảo giác
chiếm ưu thế.
* Điều trị ảo thanh do rượu:
- Phải cai rượu cho người bệnh ở cơ sở y tế chuyên khoa tâm thần
- Sau khi hết hội chứng cai rượu người bệnh cần tiếp tục dùng thuốc an thần
để điều trị ảo thanh do rượu, thường sử dụng 1 trong các phác đồ sau
+ Phác đồ 1:
Haloperidol 1,5mg x 8 viên/ ngày
Trihex 2mg x 4 viên/ ngày
Uống sáng ½ liều, tối ½ liều
+ Phác đồ 2:
Olanzapin 10mg x 1 viên/ ngày uống buổi tối
+ Phác đồ 3:
Riperidon 2mg x 3 viên/ ngày, sáng uống 1,5 viên, tối uống 1,5 viên
Thời gian điều trị 3-6 tháng
Chống tái nghiện rượu cho người bệnh bằng Esperal 500mg x ½ viên/ ngày
vào buổi sáng. Thời gian uống thuốc tái nghiện tối thiểu 2 năm
5.2 .Hoang tưởng do rượu:
- Hoang tưởng (paranoid) do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng
ghen tuông, được phát triển dần trên một nhân cách đã thoái hoá do rượu. Thoạt
17
đầu những ý tưởng ghen tng chỉ có trong khi say. Dần dần mới trở nên bền
vững và xuất hiện cả những khi bệnh nhân không uống rượu. Từ chỗ nghi ngờ đi
đến khẳng định vợ mình khơng chung thủy. Bệnh nhân rình mị, tra khảo, bắt vợ
phải nhận lỗi. Bệnh nhân xác định người yêu của vợ mình thường là người quen
biết.
- Sự phức tạp của loạn thần có thể diễn ra theo 2 hướng:
+ Hoang tưởng ghen tuông là chủ đề duy nhất không thay đổi.
+ Ý tưởng hoang tưởng cịn có nội dung khác liên quan đến sự thiệt hại vật
chất (vợ lấy tiền cho người yêu, đầu độc bệnh nhân để có tự do với người yêu).
Một số nhà nghiên cứu nhận thấy hoang tưởng ghen tng thường xuất hiện sau
loạn thần do rượu cấp tính, ở tuổi trung niên. Một số thống kê nhận thấy hoang
tưởng ghen tuông gặp ở 40% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo
giác chiếm ưu thế.
- Paranoid do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng bị theo dõi, hoang
tưởng bị hại và các hoang tưởng cảm thụ có tính hình tượng cao.
- Hoang tưởng bị theo dõi chi phối mãnh liệt hành vi, cảm xúc của bệnh
nhân.
- Thường có ảo tưởng lời nói, ảo tưởng cảm xúc và ảo thanh với nội dung
đe dọa.
- Hành vi có tính xung động, nguy hiểm cho bản thân và xung quanh. Bệnh
nhân bỏ chạy, phịng thủ, có khi tự sát. Trong những trường hợp kéo dài thì hành
vi ít nguy hiểm hơn. Ít thấy các hoang tưởng bị theo dõi, bị chi phối bằng vật lý
như trong tâm thần phân liệt. Theo Soayka H., 1990 hoang tưởng bị theo dõi chiếm
32% bệnh nhân ảo giác do rượu.
- Hoang tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi
hoặc hoang tưởng ghen tuông trong paranoid cấp do rượu. Theo thống kê của một
số nhà nghiên cứu, hoang tưởng bị hại chiếm 71% bệnh nhân loạn thần do rượu
với hoang tưởng chiếm ưu thế. Hoang tưởng bị hại có tỉ lệ cao nhưng khơng đặc
hiệu cho loạn thần do rượu.
18
-Ngồi ra ở bệnh nhân loạn thần do rượu cịn thấy một số hoang tưởng khác
như hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng nghi bệnh… nhưng
với tỉ lệ thấp.
- Hoang tưởng và ảo giác đôi khi cùng phối hợp với nhau trong một bệnh
cảnh lâm sàng của loạn thần do rượu. Theo thống kê của Soayle M., 1990 chỉ có
13% bệnh nhân loạn thần do rượu có ảo giác đơn thuần.
Điều trị hoang tưởng do rượu
- Phải cai rượu cho người bệnh tại các cơ sở y tế chuyên khoa tâm thần
- Sau khi hết mọi hội chứng cai rượu, người bệnh cần tiếp tục dùng thuốc
an thần để điều trị hoang tưởng, thường sử dụng phác đồ sau:
+ Haloperdol 1,5mlx 8 viên/ ngày
+ Trihex 2mg x 4 viên/ ngày
Uống sáng ½ liều, tối ½ liều
Thời gian điều trị 3-6 tháng
Chống tái nghiện rượu cho người bệnh bằng Esperal 500mg x ½ viên/ ngày
vào buổi sáng. Thời gian uống thuốc tái nghiện tối thiểu 2 năm
Cảm xúc và hành vi:
Hoang tưởng và ảo giác do rượu thường chi phối mạnh mẽ hành vi, cảm
xúc của bệnh nhân loạn thần do rượu ở những cơn cấp tính. Bệnh nhân lo âu, sợ
hãi và căng thẳng cao độ, đôi lúc khoái cảm. Hành vi thường né tránh, chạy trốn
hoặc phản ứng tấn công người xung quanh.
Trong những trường hợp kéo dài mãn tính cảm xúc của bệnh nhân thường
bị ức chế, đơi khi trở nên cau có, giận dữ. Hành vi có khi thẫn thờ hoặc sững sờ,
cảm giác khơng lối thốt nhưng cũng có khi trở nên độc ác, thô bạo với người
thân.
Các bệnh cơ thể phối hợp:
Bên cạnh các triệu chứng loạn thần còn thấy các bệnh cơ thể phối hợp như
viêm loét dạ dày, xơ gan, rối loạn huyết áp và thần kinh thực vật. Ngoài ra ở nhiều
bệnh nhân có biểu hiện trạng thái suy kiệt do nhiễm độc rượu lâu ngày.
19
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định
- Các hoang tưởng, ảo giác chiếm vị trí hàng đầu. Khơng chẩn đốn khi có
một sự ngộ độc hoặc cai rượu phối hợp, khơng tính đến những ảo giác do sử dụng
chất gây ảo giác.
- Có bằng chứng hiển nhiên nghiện rượu là nguyên nhân liên quan đến
bệnh.
- Những biểu hiện sau cho phép nghĩ đến một loạn thần không do rượu:
hoang tưởng, ảo giác có trước khi dùng rượu, những giai đoạn tái diễn không liên
quan đến rượu.
- Bệnh cảnh không diễn ra theo chiều hướng của một sảng tiến triển.
Chẩn đoán phân biệt
Với tâm thần phân liệt:
- Về khởi phát hoang tưởng, ảo giác do rượu thường cấp tính, nhanh đi đến
tồn phát trong khoảng vài giờ đến vài ngày. Còn trong tâm thần phân liệt khởi
phát từ từ hơn, thường có giai đoạn ủ bệnh trước khi hoang tưởng, ảo giác phát
triển rầm rộ.
- Ảo giác do rượu thường là những ảo giác thật, ảo giác trong tâm thần phân
liệt thường là những ảo giác giả có khi có ảo giác thật. Ảo thanh ra lệnh, bình
phẩm đặc trưng trong tâm thần phân liệt ít thấy ở bệnh nhân loạn thần do rượu.
- Hiện tượng bị động, bị chi phối hay tâm thần tự động đặc trưng cho tâm
thần phân liệt ít thấy ở bệnh nhân loạn thần do rượu.
- Phải xem xét tiền sử, bệnh sử, sự biến đổi nhân cách để có thể phân biệt
tâm thần phân liệt và loạn thần do rượu.
5.3. Với sảng rượu:
- Sảng rượu là một tình trạng cấp cứu, rối loạn tồn thân nặng nề hơn và có
nhiều rối loạn chuyển hố cơ thể, dễ dẫn đến tử vong.
- Sảng rượu thường kèm theo rối loạn ý thức đặc thù. Sảng rượu thường
gặp hiện tượng run còn gọi là sảng run.
20
- Ảo giác trong sảng rượu thường gặp ảo thị, thấy những con vật kích thước
thu nhỏ.
Nguyên tắc điều trị
Giai đoạn loạn thần
Việc điều trị nhằm làm mất trạng thái loạn thần và đề phòng các biến chứng.
- Các thuốc an thần kinh: Một số bác sĩ khuyên nên sử dụng Halopéridol vì
chúng khơng ảnh hưởng đến q trình chuyển hoá thải trừ của rượu. Một số bác
sĩ khác khuyên nên lựa chọn phối hợp an thần kinh tùy theo bệnh cảnh lâm sàng.
Ở nước ta theo thống kê ban đầu 66,6% bệnh nhân loạn thần do rượu điều trị đơn
thuần một loại an thần kinh chủ yếu là Halopéridol, 33,3% bệnh nhân điều trị phối
hợp với các thuốc an thần kinh như Haloperidol, Tisercin, Aminazin,…
- Các thuốc bình thần: Thường sử dụng Diazepam (Seduxen) để giải lo âu
với liều lượng trung bình.
- Các thuốc chống trầm cảm: Thường sử dụng thuốc chống trầm cảm ba
vòng như Amitriptilin, hoặc các thuốc chống trầm cảm mới như Stablon,
Prozax,… với liều thấp hoặc trung bình.
- Liệu pháp vitamin: Nghiện rượu lâu thường dẫn đến thiếu vitamin B1,
giảm giữ trữ glucoza gây ra tình trạng suy kiệt. Dùng vitamin B1 liều cao khắc
phục được tình trạng này, phịng ngừa tiến triển xấu dẫn đến các bệnh não do
rượu.
- Liệu pháp tâm lý: Nhằm mục đích thiết lập các mối quan hệ tin cậy, thông
cảm với bệnh nhân, làm cơ sở cho việc điều trị tiếp theo.
Giai đoạn sau loạn thần
Phục hồi chức năng tâm lý xã hội để chống tái nghiện, giúp bệnh nhân tái
hịa nhập với gia đình và cộng đồng. Phối hợp tâm lý, quản lý, lao động nghề
nghiệp để có thể chuyển đổi hành vi của bệnh nhân theo chiều hướng tốt.
6. Điều trị nghiện rượu
6.1. Nguyên tắc điều trị
- Sử dụng liệu pháp tâm lý kết hợp với liệu pháp môi trường