Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

33 tìm hiểu về tự do báo chí ở việt nam và tự do báo chí tuyệt đối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.47 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ LÝ LUẬN BÁO CHÍ

ĐỀ TÀI:

TÌM HIỂU VỀ TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM VÀ
TỰ DO BÁO CHÍ TUYỆT ĐỐI


TÌM HIỂU VỀ TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM VÀ TỰ DO
BÁO CHÍ TUYỆT ĐỐI
1. Tìm hiểu khái niệm "Tự do báo chí"
Ngược dịng lịch sử, có thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra
một số định nghĩa về tự do, hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất của Locke và
Hegel. Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong
muốn mà khơng gặp bất kỳ cản trở nào (Locke). Đây là định nghĩa nguyên
thủy nhất về tự do và cũng từng được khá nhiều người tán đồng. Tuy nhiên,
định nghĩa này có những hạn chế nhất định, thể hiện ở chỗ nếu tự do chỉ thuần
túy là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà
khơng gặp bất kỳ cản trở nào thì sẽ có rất nhiều người nhân danh tự do đề
thỏa mãn những mong muốn hay tham vọng cá nhân của mình, phá hoại trật
tự xã hội, và do đó, làm phương hại đến sự phát triển của mỗi cá nhân cũng
như cả cộng đồng. Tự do là cái tất yếu được nhận thức (Hegel). Nhận thức
được sự hạn chế của định nghĩa về tự do của Locke, Hegel đã xây dựng một
định nghĩa mới về tự do. Đó là tự do là cái tất yếu được nhận thức. Câu hỏi
đặt ra là, vậy cái tất yếu là gì? Ở đây, cái tất yếu được hiểu là các quy luật tự
nhiên. Do vậy, có thể viết lại định nghĩa về tự do của Hegel như sau: tự do là
các quy luật tự nhiên được nhận thức.
Hegel cho rằng con người càng nhận thức một cách chính xác, rõ ràng
và tồn diện về cái tất yếu bao nhiêu thì càng có tự do bấy nhiêu. Định nghĩa
này đã phát triển hơn một bước so với định nghĩa của Locke, tức đã đưa tự do


từ một trạng thái bản năng đến tự do trong mối tương quan với cái tất yếu.
Như vậy, ranh giới của trạng thái tự do và trạng thái khơng có tự do chính là
cột mốc nhận thức được cái tất yếu Nhận thức được cái tất yếu, con người sẽ
không nhân danh tự do để thực hiện những hành vi kìm hãm sự phát triển của
bản thân anh ta và cả cộng đồng. Chính lúc ấy, tự do sẽ là điều kiện tinh thần
giúp con người tiếp cận với sự phát triển thực thụ và toàn diện.
1


Tự do không phải là thuật ngữ xa lạ, càng khơng phải một phát hiện bởi
nó gắn liền với con người như một công cụ để tồn tại, đề sống và để phát
triển. Tuy nhiên, đối với con người, tự do vẫn phần nàn bí ẩn; chúng ta, dường
như, chưa nhận thức trọn vẹn về nó, càng chưa biết khai thác và sử dụng nó
như một cơng nghệ phát triển. Thời kỳ Khai sáng ở Phương Tây đã đánh dấu
một bước ngoặt khơng chỉ trong lịch sử mà cịn trong nhận thức của con
người. Các học giả của thời kỳ ấy không phải những người đầu tiên bàn về tự
do nhưng họ là những người có cơng rất lớn trong việc xây dựng những nhận
thức mới về tự do và thức tỉnh nhân loại về các giá trị của nó. Phương Tây đã
đón nhận những đóng góp ấy và là những người đầu tiên được nếm vị ngọt
của tự do và hưởng thụ những thành quả của nó.
Báo chí là một lĩnh vực hoạt động ra đời muộn khi xã hội đã đạt đến
một trình độ phát triển nhất định về kinh tế - xã hội, về phương tiện kỹ thuật,
về ý thức, nhu cầu thông tin.
Khái niệm "Tự do báo chí" hình thành và có ý nghĩa to lớn từ cuối thời
trung cổ ở phương Tây, là sản phẩm tiến bộ của giai cấp tư sản trong cuộc đấu
tranh chống lại xã hội phong kiến. Song về sau này, trong quá trình phát triển
của mình, tư sân đã sử dụng tự do báo chí như một chiêu bài kinh tế - chính
trị.
CNTB xem báo chí là "quyền lực thứ tư" đứng sau quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Tự do báo chí là tự do vơ chính phủ, tự do tuyệt đối, cực

đoan. CNXH quan niệm, báo chí là quyền lực, nhưng không phải là thứ quyền
lực đứng trên mọi quyền lực, mà nó đứng sau các quyền lực đó hỗ trợ cho xã
hội phát triển theo hướng dân chủ. Tự do báo chí được hiệu khơng phải là một
mục đích mà là một phương tiện để đạt đến mục đích xây dựng một xã hội
tiên bộ.
Theo Bách Khoa tồn thư Việt Nam, Tự do Báo chí (TDBC) được định
nghĩa là: "Phạm trù lịch sử the hiện ước vọng của con người phấn đấu giành
quyền thông tin và được thông tin, tự do trao đổi, giao tiếp, bày tỏ ý chí và
2


nguyện vọng của mình thơng qua các phương tiện thơng tin đại chúng. TDBC
là một quyền cơ bản của con người. Trong xã hội có các giai cấp đối kháng và
tồn tại những mâu thuẫn chính trị, kinh tế, văn hố... khơng thể có TDBC đầy
đủ.
Người làm báo sử dụng TDBC, thông qua các phương tiện thông tin,
phục vụ lợi ích của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triền kinh
tế - xã hội, thực hiện công bằng, dân chủ, nhân ái, bảo vệ tồ quốc và độc lập,
hồ bình, theo ngun tắc tơn trọng sự thật, quyền lợi và phẩm giá con người:
Trong lịch sử, các thế lực thực dân, đế quốc đã và đang mưu đồ lợi dụng
TDBC để phục vụ lợi ích của họ, xâm phạm quyền và lợi ích của nhân dân. Ở
Việt Nam, quyền TDBC được ghi trong Hiến pháp, luật báo chí và nhiều luật,
văn bản pháp quy khác."
Tác giả Tạ Ngọc Tấn trong cuốn "Cơ sở lý luận báo chí", khi tìm hiểu
khái niệm Tự do báo chí đã dựa trên những phân tích về tự do và tất yêu để
đưa ra khái niệm: Tự do báo chí là mục tiêu phấn đấu của con người nhằm
giành cho mình quyền được thông tin, trao đôi, giao tiếp, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của con người một cách cơng khai qua các phương tiện thông tin
đại chúng, không hề bị một sự lệ thuộc, hạn chế nào.
Theo đó, tự do báo chí là một quyền lợi chính đáng mà con người phải

được hưởng. Tự do báo chí, tự do ngơn luận, tự do sáng tác là quyền lợi
thiêng liêng của những người cầm bút. Song, tự do báo chí khơng phải là sự
tuỳ tiện, muốn viết gì thì viết, viết thế nào thì viết mà phải thực hiện trách
nhiệm trước xã hội, sự giác ngộ chính trị, quan điểm giai cấp chi phối hành vi
và hoạt động báo chí của người làm báo.
Năm 1787, tại nước Mỹ, Thomas Jefferson đã viết "Nếu tơi buộc phải
quyết định xem chúng ta có cần một chính phủ khơng có báo chí hay có nền
báo chí mà khơng cần chính phủ, tơi sẽ khơng ngần ngại lựa chọn giải pháp
thứ hai". Jefferson kiên quyết ủng hộ việc giám sát chặt chẽ của báo chí bởi
ơng nhận thấy rằng nếu khơng có tinh thần trách nhiệm và tự do tuyên truyền
3


tư tưởng, sức phát triền, sáng tạo của quốc gia sẽ bị kìm hãm và người dân sẽ
khơng được hưởng tự do. Câu nói nổi tiếng của ơng là: "Tự do của chúng ta
phụ thuộc vào tự do báo chí, và hạn chế tự do là đánh mất nó".
Thơng tin là một quyền lực. Nếu một quốc gia muốn hưởng những lợi
thế về kinh tế và chính trị có được nhờ pháp quyền thì các thể chế phải mở
cứa cho người dân được theo dõi các vấn đề một cách sát sao. Nếu công nghệ
và khoa học muốn tiến bộ thì những ý tưởng đó cần phải được chia sẻ cơng
khai. Và nếu chính phủ muốn được đánh giá cao nhờ tinh thần trách nhiệm
trước dân chúng thì các phương tiện thông tin đại chúng tự do và độc lập là
khơng thể thiếu đối với q trình đó. Đó là lý do Thomas Jefferson, người
soạn thảo chính cho bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, đã tha thiết đề nghị
Hiến pháp Hoa Kỳ cần phải đưa nội dung người dân có quyền tự do ngơn
luận, tự do báo chí và hội họp.
Đến nay, thể hiện quan điểm với thế giới, nước Mỹ vẫn cho rằng: Trong
một nền dân chủ, báo chí phải được hoạt động tự do khơng chịu sự kiểm sốt
của chính phủ. Các chính phủ dân chủ khơng có bộ thơng tin nhằm kiểm sốt
nội dung báo chí hoặc hoạt động của các phóng viên; khơng có những u cầu

địi các phóng viên phải bị nhà nước kiểm sốt, hoặc buộc phóng viên phải
tham gia các liên đồn do chính phủ kiềm sốt. Báo chí tự do thơng tín cho
cơng chúng, buộc các nhà lãnh đạo phải có trách nhiệm và là một diễn đàn
tranh luận về các vấn đề của quốc gia và địa phương. Các nền dân chủ thúc
đẩy sự tồn tại của báo chí tự do. Một cơ quan tư pháp độc lập, xã hội dân sự
với pháp quyền, và tự do ngôn luận tất cả đều hỗ trợ cho báo chí tự do. Báo
chí tự do phải được bảo vệ về mặt luật pháp.
Ở các nền dân chủ, chính phủ phải chịu trách nhiệm về những hành
động của mình. Bởi vậy, cơng dân phải được biết về những quyết định mà các
chính phủ đưa ra nhân danh họ. Báo chí thúc đẩy "quyền được biết" này, với
tư cách là cơ quan giám sát chính phủ, giúp cơng dân bắt chính phủ phải chịu
trách nhiệm và chất vấn các chính sách của chính phủ. Các chính phủ dân chủ
4


cho phép các phóng viên tiếp cận các hội nghị và các tài liệu cơng khai. Các
chính phủ khơng hạn chế được những gì các nhà báo có the nói hoặc viết. Bản
thân báo chí cũng phải hành động đáp lại. Thông qua các hiệp hội chuyên
môn, các hội đồng báo chí độc lập và "cơ quan giám sát", các nhà phê bình
trong ngành-những người tiếp thu khiếu nại của cơng chúng, báo chí phải có
phản hồi trước những khiếu nại về sự thái quá của mình và chịu trách nhiệm
nội bộ. Nền dân chủ địi hỏi cơng chúng phải chọn lựa và đưa ra quyết định.
Để công chúng tin tưởng giới báo chí, các phóng viên phải đưa tin đúng dựa
trên các nguồn và thông tin đáng tin cậy. Hành động ăn cắp tin và đưa tin sai
sự thật sẽ làm phản tác dụng báo chí tự do. Các cơ quan báo chí phải thành
lập ban biên tập riêng, khơng chịu sự kiểm sốt của chính phủ, để tách
riêng.việc thu thập thơng tin và phân tích thơng tin khỏi các q trình biên
tập. Các phóng viên khơng nên bị cuốn theo công luận, mà phải theo đuổi sự
thật ở mức đúng nhất có the. Một nền dân chủ cho phép báo chí thu thập và
đưa tin mà khơng phải sợ hãi hay có sự ưu đãi của chính phủ. Các nền dân

chủ thúc đẩy một cuộc chiến không bao giờ kết thúc giữa hai quyền: Nghĩa vụ
bảo vệ an ninh.
Báo chí tự đo khơng phải lúc nào cũng hoạt động chuyên nghiệp, và
cũng có thể có những hậu quả ngồi mong muốn khi mở cửa truyền thơng.
Nhưng các phương tiện truyền thông đưa nhiều tin và các cuộc bàn thảo trong
địa phương càng khách quan bao nhiêu thì cơng chúng càng đánh giá họ cao
bấy nhiêu. Thông tin tại cơ sở như vậy chính là cội nguồn của nền dân chủ.
Người dân được giác ngộ tốt hơn và có trách nhiệm hơn với chính cuộc sống
của mình.
Các phương tiện truyền thơng cũng có thể đóng vai trị là chiếc van an
toàn nhờ việc tạo ra một diễn đàn để người dân có thể nói lên tiếng nói rất
khác nhau của mình. Khả năng phát đi và nêu những quan điềm khác nhau
trong xã hội có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với những gì mà chúng ta có
thể tưởng tượng. Báo cáo của WB mang tên Tham vấn với Người Nghèo đã
5


tìm hiểu 20.000 người nghèo ở 23 quốc gia và phát hiện ra rằng điều "phân
biệt rõ nhất giữa người nghèo và người giàu là thiếu tiếng nói. Tức là họ
khơng có khả năng được đại diện. Khơng chun tải tới những người có trách
nhiệm những suy nghĩ của họ. Khơng có gì để soi sáng tình trạng bất bình
đăng của mình. Những người được phóng vấn mặc dù khơng có bằng tiến sỹ
nhưng họ lại hiểu rõ về tình trạng nghèo đói, và điều đầu tiên họ nói tới lại
khơng phát là tiền bạc. Đó là tình trạng thiếu tiếng nói, mất khả năng nói lên
suy nghĩ của mình".
Một ngành truyền thơng năng động, có các tờ báo, đài phát thanh,
truyền hình và các trang web độc lập cạnh tranh với nhau, sẽ cho phép người
dân cất lên những tiếng nói như vậy. Những phương tiện truyền thơng nêu
trên có thể hưởng dư luận tập trung vào các vấn đe, khuyến khích người dân
và các quan chức chính phủ giải quyết những vấn đề đó, và giúp ngay cả

những người cùng cực có được những thơng tin thật. Tất cả mọi người đều có
lợi nếu người nghèo có cơ hội cải thiện cuộc sống của họ, được hưởng quyền
tự do ngơn luận, tự do báo chí và quyền được tự do hội họp trong những xã
hội dân chủ.
Trong một khảo sát do Trung tâm nghiên cứu về Điều bổ sung sửa đổi
đầu tiên của Diễn đàn tự do thực hiện năm 2002 cho hay 42% những người
được hỏi ý kiến nghĩ rằng báo chí có "q nhiều tự do. Điều này có chuẩn xác
hay khơng là vấn đề của dư luận, nhưng không thể chối cãi rằng luật của Hoa
Kỳ rộng rãi trong việc bảo vệ các quyền của truyền thơng đại chúng, làm cho
báo chí, ít ra là trên giấy báo, trở thành tự do nhất trên thế giới.
Nhưng những quyền này từ đâu ra? Chúng đã phát triển và mở rộng
như thế nào? Tương lai cho tự do báo chí ở Hoa Kỳ sẽ như thế nào? Khơng dễ
dàng gì để sống với một nền báo chí tự do. Thế có nghĩa là ngày nào cũng có
thể bị thách thức, bị quấy nhiễu, bị gây phiền phức, bị cản trở, bị chọc tức. Và
có những ngày người Mỹ khơng cịn tin chắc rằng những nhà lập quốc 200
năm trước đã quyết định đúng đắn khi họ thực hiện một nền báo chí tự do.
6


Bởi lẽ cái gọi là tự do báo chí ở phương Tây đã có những trá hình của nó, núp
đằng sau báo chí là các thế lực kinh tế - chính trị chi phối quyền lực thơng tin.
Và báo chí với chiêu bài tự do cho phép mình can thiệp sâu sắc và gây phiền
toái cho đời sống riêng tư của mỗi cá nhân trong những xã hội văn minh.
2. Quan điểm về báo chí Tư do của Mác - Lênin
Báo chí nói chung là sự thực hiện tự do của con người. Do đó ở đâu có
báo chí ở đó có tự do báo chí. Bản chất của báo chí tự do - đó tà bản chất
dũng cảm, có lý tính, có đạo đúc của tự do.(l) (Các Mác) C Mác vừa là nhà
triết học, vừa là nhà báo. Tư tưởng triết học của ơng được hình thành gắn chặt
với hoạt động báo chí. Một hệ thống quan điểm về tự do báo chí của Mác đã
hình thành trong quá trình hoạt động này và cho đến nay vẫn cịn ngun

những giá trị của nó. ơng nói về thiên chức (chức năng, nghĩa vụ ) báo chí với
một giọng văn hùng tráng đầy hình tượng: tháo chí tự do - đó là con mắt sáng
suốt của tinh thần nhân dân: tà hiện thân sĩ tin cậy của nhân dân đối với bản
thân mình, là những dây liên hệ biết nói, gắn liền các cá nhân với nhà nước,
với tồn thế giới, nó là hiện thân nền văn hóa đang biến cuộc đấu tranh vật
chất thành cuộc đấu tranh tinh thần và lý tưởng hóa hình thức vật chất thơ bạo
của cuộc đấu tranh đó... Báo chí Tự do là Tồn diện, nơi nào cũng có mặt, cái
gì cũng biết. Báo chí tự do là cái thế giới ý tưởng không ngừng trào ra từ thực
tế hiện thực lại cháy trở về hiện thực như một dòng thác đầy sinh khi dưới
hình thức của cái tinh thần ngày càng dồi dào" (3)
Mác cho rằng báo chí tự do phải có luật báo chí bảo đâm. "Luật báo chí
tà luật thật sự bởi vì nó biểu hiện sự tồn tại khắng định cua tự do. Nó coi tự do
là tình trạng bình thường của báo chí, coi báo chí tồn tạt của tự do. Vì thế, luật
này chi xung đột với những tội lỗi của báo chí với tư cách là một ngoại lệ
đang chống lại tiêu chuẩn của chính mình?"(6). Ông không phủ nhận sự kiềm
duyệt. Nhưng cho rằng "kiểm duyệt chân chính bắt rễ tù chính bản chất của tự
do báo chí, là sự phê bình. Phê bình là một sự xét xứ mà tự do báo chí sản
sinh ra từ bản thân mình". Cịn "kiểm duyệt là sự phê bình với tư cách là độc
7


quyền của chính phủ (7). ơng nói một cách gay gắt: "Khi sụ phê bình tác
động khơng phải bằng lưỡi dao sắc bén của lý tính mà bằng cái kẻo cùn cua
sự tùy tiện, khi sự phê bình coi vực dùng sức mạnh thô bạo là luận cứ mạnh
mẽ - khi đó lẽ nào sự phê bình lại khơng mấy tính chất họp lý của mình (7).
Mác cũng đề cập đến mối quan hệ cửa báo chí với nhà cầm quyền.
"Trong lĩnh vực báo chí, những người cai trị và những người bị cai trị có khả
năng như nhau để phê bình những nguyên tắc và yêu cầu của nhau nhưng
không phải trong khuôn khổ những quan hệ lệ thuộc, mà trên cơ sở ngang
quyền với nhau, với tư cách là những công dân của nhà nước - không phải với

tư cách là những cá nhân riêng tẻ, mà với tư cách là sức mạnh của trí tuệ, với
tư cách là những người thể hiện những quan điểm hợp lý"(8)
V.I Lênin cũng chỉ ra rằng: "Trong xã hội tư sản, "tự do báo chí" tức là
tự do cho bọn giàu có". Trong lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, V I Lênin đã thẳng thắn: "Mọi cá nhân có quyền tự do viết và nói tất
cả những điều họ muốn. Nhưng mỗi đoàn thê tự do cũng được tự do đuôi
những phần tử lơi dụng chiêu bài Đảng để tuyên truyền quan điểm chống
Đàng. Tự do ngơn luận và xuất bản phải đầy đủ..."
Theo đó, những người theo quan điểm Mác - Lênin nhiệt thành đấu
tranh cho một nền tự do báo chí, tự do ngơn luận, cho sự bình đẳng trên cơng
luận, tự do bình đăng vì lợi ích của nhân dân, khơng bao giờ ảo tưởng về thứ
tự do tuyệt đối, tự do báo chí theo kiểu tư sản, giả dối và trá hình.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về Tự do báo chí
Năm 1919, tại Hội nghị Versailles, Nguyễn Ái Quốc đã phát cho các
đại biểu dự Hội nghị "Bản yêu sách của dân tộc Việt Nam gửi đến Hội nghị
Versailles". bản yêu sách" này bao gồm 8 điểm rất ơn hịa, u cầu Chính phủ
Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chu cơ bản tối thiểu cho nhân dân Việt
Nam. Trong đó điểm thứ 3 là yêu cau về tự do báo chí và tự do tự tương. Nhìn
lại Bản u sách 8 điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hội nghị Versailles
8


năm 1919, chúng ta thấy rằng tư tưởng của Bác Hồ về một thể chế tôn trọng
những quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho người dân được hình thành từ rất
sớm. Khi đó Bác Hồ mỏi 29 tuổi, và mới sang Pháp được 8 năm. Bác ra đi tìm
đường cứu nước năm 1911, tại bến Nhà Rồng, Sài Gòn, và chỉ đến năm 1941
mới trở về nước, để lãnh đạo Đảng, nhân dân đấu tranh giành chính quyền.
Bởi vậy Bác là người hiểu rất rõ những hạn chế, xấu xa của chế độ tư bản,
thực dân, nhưng đồng thời Bác cũng hiểu được rất rõ các giá trị của nền văn

minh phương Tây, của chế độ tự do, dân chủ phương Tây. Chính bởi vậy, vào
năm 1946, khi Bác Hồ chỉ đạo soạn thảo bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bản Hiến pháp 1946 đó chứa đựng rất
nhiều giá trị tiến bộ của nền dân chủ phương Tây. Bác Hồ đã lãnh đạo Đảng
và nhân dân Việt Nam đánh đuổi thực dân, nhưng những giá trị của nền văn
minh phương Tây, thì cần phải khiêm tốn học hỏi. Đó chính là tính biện
chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều 10 của Hiến pháp 1946 qui định:
"Cơng dân Việt Nam có quyền: - Tự do ngôn luận. - Tự do xuất bản. - Tự do
tổ chức và hội họp. - Tự do tín ngưỡng. - Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra
nước ngoài". Nội dung của điều 10 này rất giống một phần nội dung 8 điềm
mà Bác Hồ đã gửi Hội nghị Versailles cách năm 1946 đó 27 năm
Luận điểm báo chí mà Nguyễn Ái Quốc khẳng định trong suốt thời kỳ
lịch sử lâu dài dưới chế độ thực dân phong kiến là đấu tranh cho quyền tự do
báo chí. Với Nguyễn Ái Quốc, đấu tranh cho tự do báo chí về thực chất ln
gắn bó với đấu tranh cho khuynh hưởng chính trị, bởi Nguyễn Ái Quốc nhận
thức được rằng làm báo chí là làm chính trị - báo chí là sản phẩm cửa khuynh
hướng chính trị, nhất định Trước sự đàn áp của thực dân Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đã nêu lên nghịch lý đến nỗi khó tin được "Giữa thế kỷ XX này ở một
đất nước có đến 20 triệu dân mà khơng có lấy một tờ báo! Các bạn có thể
tưởng tượng được thế nào khơn gỉ Khơng có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đê
của chúng tôi".

9


Một tờ báo mà không đề cập đến vấn đề chính trị và những chuyện thiết
thân đến cuộc sống của người dân thì thủ tiêu chức năng của mình. Xu hướng
chính trị của tờ báo, nói như Lênin "Một tờ báo mà khơng có xu hướng chính
trị là điều lố lăng phi lý, chướng tai, gai mắt và có hại". Nguyễn Ái Quốc phê
phán tình trạng mất tự do của báo chí dưới chế độ thực dân Pháp nhưng đồng

thời cũng nêu lên chức năng của báo chí. Báo chí phải thực hiện chức năng
phê phán, phê phán chế độ chính trị bạo tàn và khuynh hướng nơ dịch hóa của
thực dân, phê pháp bình diện rộng lớn nhiều vấn đề kinh tế và từ đó vạch trần
những hành vi chính trị của giai cấp thống trị, bọn quan lại da trắng và những
kẻ đồng mưu.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính khuynh hướng chính trị của báo
chí cũng là luận điểm cơ bản đề lý giải vấn đề "tự do báo chí" mà phương Tây
rêu rao. Báo chí là cơng cụ, là sản phẩm chính trị của một giai cấp nhất định,
do đó khơng có chuyện "tự do báo chí" chung chung. Báo chí (dù là tờ báo
mang đậm chất giải trí, chuyên về một lĩnh vực nào đó...) cũng do một tầng
lớp, một tập đồn, thậm chí một nhóm người... thực hiện. Tất cả cũng đều
phục vụ lợi ích của những người nắm giữ tờ báo. Đó chính là sự chi phối bởi
tính khuynh hướng, vấn đề tự do báo chí, do đó khơng thề tách rời quyền lực
chính trị, quyền lực kinh tế của một giai cấp, chế độ chính trị. Tiếp thu quan
điểm này, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phát biểu "Tự do báo chí của
chúng ta chính là tự do phục vụ lợi ích, vì hạnh phúc cửa nhân dân, vì chế độ
XHCN".
Sau khi nhà nước non trẻ của chúng ta vừa ra đời, ngày 29-3-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 41 quy định về chế độ báo chí nhằm bảo
đảm quyền được thơng tin cho mọi người dân Việt Nam sống trong độc lập tự
do.
Nhưng ngay sau đó, chúng ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến 9
năm trường kỳ gian khổ đề đến năm 1954 mới giành được một nửa nước là
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, còn một nửa miền Nam van sống dưới chế độ
10


Mỹ-ngụy phản động. Thời kỳ này thơng tin báo chí ở hai miền hoàn toàn khác
nhau. Miền Bắc tiến hành cải cách ruộng đất nhưng đã vấp phải một số sai
lầm. Một số tờ báo và cá nhân đã lợi dụng sự kiện này đe xuyên tạc sự thật,

khoét sâu những sự việc nhỏ thành to, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan đối với
chế độ, với Đảng và nhân dân, gây chia rẽ nội bộ... Ở miền Nam, báo chí phản
động ra sức tuyên truyền phá hoại Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, phá hoại công cuộc
thống nhất đất nước. Những tiếng nói chân chính của người dân khơng được
tơn trọng, ln bị ngăn cấm, bắt bớ, đàn áp...
Trước tình hình đó, Ở miền Bắc, theo đè nghị của Bộ Nội vụ, Bộ Tư
pháp, theo nghị quyết cửa Hội đồng Chính phù, sau khi được Ban thường trực
Quốc hội thoả thuận, ngày 14-12-1956, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 282/SL về báo chí chiều sắc lệnh số 41 năm
1946, nhằm hoàn thiện hơn những quy định về báo chí trong tình hình mới
giai đoạn này. Sắc lệnh gồm 3 chương 19 điều, quy định cụ thể về tính chất
nghĩa vụ của báo chí; quy định về quyền lợi và hoạt động của báo chí và các
điều khoản thi hành.
Ngay mở đầu của sắc lệnh, điều 1 đã nêu rõ: "Sắc lệnh này nhằm bảo
đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí và ngăn cấm những kẻ
lợi dụng quyền ấy làm phương hại đến cơng cuộc đấu tranh cho hịa bình,
thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà ".
Như vậy, báo chí thời kỳ này bất kỳ là của cơ quan chính quyền, đảng
phái chính trị, đồn thể nhân dân hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu
tranh của nhân dân, phải phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, bảo vệ chế độ dân
chủ nhân dân, ủng hộ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa. Báo chí có
nghĩa vụ tun truyền giáo dục cơng chúng, thực hiện tốt mọi đường lối,
chính sách của nhà nước; đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động và luận
điệu phá hoại công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh, cơng cuộc đấu tranh
thống nhất Tổ quốc, phá hoại hịa bình, đồn kết và hữu nghị với bạn bè quốc
tế.
11


Về quyền lợi và hoạt động của báo chí, sắc lệnh ghi rõ quyền tự do

ngôn luận của nhân dân, của tất cả báo chí được bảo đảm; khơng phải kiểm
duyệt trước khi in. Báo chí có thể phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân
đối với cơ quan Nhà nước, đoàn thể. Quyền lợi của các nhà báo chuyên
nghiệp được Chính phủ quy định.
Về điều kiện hoạt động của báo chí: Tờ báo phải có chủ nhiệm hoặc
chủ bút chịu trách nhiệm. Tơn chỉ mục đích của tờ báo phải rõ ràng. Không
tuyên truyền chống pháp luật của nhà nước, chia rẽ dân tộc; không tuyên
truyền chiến tranh, tiết lộ bí mật quốc gia; khơng tun truyền dâm ô, trụy lạc,
đồi bại. Báo nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tồ chức
hay cá nhân, thì đương sự có quyền u cầu báo ấy cải chính...
Về điều khoản thi hành, tờ báo nào vi phạm điều 8 vè xin phép xuất
bẩm điều 9 hoặc điều 12 về vi phạm pháp luật; điều 10 về xâm phạm danh dự
hoặc quyền lợi của người khác, tập thể khác... đều bị trừng phạt, từ phạt tiền
đến tịch thu ấn phẩm. Chủ nhiệm, hoặc chủ bút cùng với tác giả chịu trách
nhiệm với bài viết của mình.
Điều khoản chung đề ra thật rõ ràng. Nó áp dụng cho tất cả các ấn
phẩm có tính chất báo chí, tập san viết bằng tiếng Việt; hoặc bằng tiếng nước
ngoài, kể cả họa báo, xuất bản đều kỳ và không đều kỳ; ra từng tờ hoặc đóng
thành từng tập, từng quyển, in bằng máy, bằng rô-nê-ô, in đá, in thạch, bán
hoặc phát không, lưu hành trong nhân dân hoặc từng ngành, từng tổ chức...
Thủ tướng Chính phủ quy định những chi tiết thi hành sắc lệnh này.
Thật đầy đủ và minh bạch. Sắc lệnh thể hiện sự tiến bộ vè quyền tự do ngơn
luận của cơng dân trên báo chí trong một đất nước mà tất cả mọi người đang
ra sức phấn đấu cho công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu
tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
4. Tự do báo chí ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đặc biệt từ khi
nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, báo chí Việt Nam đã có bước phát triển
12



nhanh chóng về số lượng và chất lượng. Báo chí nước ta đã là món ăn tinh
than khơng thể thiếu được của các tầng lớp nhân dân; thực sự đến với nhiều
đối tượng trở thành người bạn thân thiết hằng ngày của họ. Đó là vì báo chí là
tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị, to chức xã hội, nghe nghiệp,
tiếng nói của nhân dân, đồng thời là bầu bạn tin cậy của các tầng lớp nhân
dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của đơng đạo cán bộ,
nhân dân.
Bán chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật
khơng cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tun truyền kích động bạo lực, kích
dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều
cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây dựng một
xã hội hịa bình, ồn định, vì hạnh phúc của nhân dân. Báo chí Việt Nam đã
tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, phát hiện
những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Báo chí
tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ tục, những tệ nạn xã
hội. Báo chí ngày càng tham gia rộng rãi vào việc xây dựng Đảng, chính
quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.
Tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã
coi báo chí là cơng cụ giám sát các hoạt động của tổ chức Đảng và cơ quan
nhà nước, phát hiện và phê phán cán bộ, đảng viên thối hóa biến chất, có
biểu hiện tiêu cực tham nhũng, quan liêu. Có thể nói, báo chí và hoạt động
báo chí ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời, đã hoạt động vì mục tiêu độc lập
dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là nội dung cốt lõi của tự do
báo chí ở nước ta.
Luật Báo chí Việt Nam khẳng định báo chí khơng chỉ là cơ quan cửa
Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,... mà còn
là diễn đàn tin cậy của người dân. Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình
qua các phương tiện báo chí. Hàng triệu bài, tin gửi cho các báo ve nhiều chủ
đề liên quan đến các mặt thiết thực của đời sống nhân dân l thông qua chuyên

13


mục "ý kiến bạn đọc", nhiều ý kiến rất phong phú của các tầng lớp nhân dân
được phản ánh trên nhiều tờ báo, là sự thể hiện sinh động quyền tự do ngơn
luận của mỗi người dân.
Luật Báo chí của Việt Nam ghi rõ hai điều rất quan trọng:
Điều 4: Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của
cơng dân. Cơng dân có quyền:
1- Được thơng tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế
giới;
2- Tiếp xúc, cung cấp thơng tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin,
bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiềm duyệt của tố
chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thơng tin;
3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế gian
4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chu trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối
với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên
của các tổ chức đó.
Điều 5: Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự
do ngơn luận trên báo chí của cơng dân.
Cơ quan báo chí có trách nhiệm:
1) Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của cơng dân; trong trường hợp
khơng đăng phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do;
2) Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc
trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cơng dân gửi đến.
Thực tế quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam đã thể
hiện tự do báo chí của Việt Nam. Trong một xã hội dân chủ, tự do của người
này không thể làm mất tự do của người khác. Những hành động liên kết với

nhau để vụ lợi, trái với quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí, đều bị xử lý, dù
người đó đang giữ trọng trách cao trong cơ quan của Đảng, Nhà nước. Những
14


tờ báo hoạt động xâm hại tơn chi, mục đích, gây tác động xấu đối với xã hội
đều bị xứ phạt theo các quy định của pháp luật.
Để nâng cao chất lượng hoạt động báo chí của các nhà báo, Nhà nước
Việt Nam đã lập ra các trường đại học báo chí, đào tạo nhà báo với trình độ
đại học và cao học. Hàng năm có hàng trăm nhà báo ra trường, có trình độ
chun mơn, nghiệp vụ cao, có năng lực và ý thức trách nhiệm xã hội. Các
trường đào tạo nhà báo ở Việt Nam đã có sự hợp tác, liên kết với các trường
đại học báo chí của Pháp và một số nước phương Tây để bồi dưỡng, trao đổi
kinh nghiệm làm báo. Việt Nam đã cử hàng trăm nhà báo đi bồi dưỡng nghiệp
vụ báo chí tại các trường đại học ở Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điền, Nga,...
Báo chí Việt Nam khơng đóng cửa, biệt lập với thế giới, mà luôn luôn
mở rộng quan hệ với các đồng nghiệp ở nhiều nước. Đề bảo vệ quyền lợi của
các nhà báo, giúp nhau bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, Việt Nam đã có Hội Nhà
báo tồn quốc và các hội địa phương, thu hút hơn 13.000 nhà báo là hội viên.
Hội Nhà báo Việt Nam là thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên
đoàn Báo chí ASEAN (CAJ) trong nhiều năm qua, tham gia tích cực và đóng
góp xứng đáng vào sự phát triền của báo chí khu vực và thế giới, vì mục tiêu
hịa bình, ổn định, tiến bộ và thịnh vượng.
Những người làm báo Việt Nam đã và đang phấn đấu vì sự nghiệp độc
lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Những tờ báo hiện nay của các
cơ quan Đảng, nhà nước, đồn thề chính trị, xã hội, tổ chức nghề nghiệp đã
phản ánh đầy đủ những ý kiến, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp
nhân dân. Thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Nhận thức đúng xu
thế tiến lên của dân tộc, trong đó có hoạt động rất sơi động và hiệu quả của
báo chí cách mạng Việt Nam, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng đắn về Việt Nam

trong tiến trình đổi mới.
Tự do báo chí gắn liền với tính khuynh hướng chính trị của báo chí.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
báo chí cách mạng nước ta đã có bước phát triển vượt bậc với các loại hình
15


báo chí: Báo viết (báo in), báo hình (truyền hình), báo nói (phát thanh), báo
điện tử. Báo chí hoạt động trong thời đại bùng nổ thông tin, thông tin đã trở
thành lực lượng sản xuất của cải vật chất trực tiếp, trong đó báo chí đóng vai
trị là kênh thơng tin quan trọng, đã thật sụ trở thành sản phẩm chính trị đặc
biệt có tính chất hàng hóa và trong chừng mực nào đó báo chí tỏ ra quyền lực
chính trị của mình. Trong bối cảnh đó, hoạt động trong co chế thị trường báo
chí ngày càng cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh trong thông tin theo nghĩa lành
mạnh và cạnh tranh trong giành giật người đọc, người nghe theo nghĩa vì lợi
nhuận. Vì vậy, bài học về tính khuynh hướng chính trị của báo chí càng phải
thấm nhuần và vận dụng nhằm đảm bảo tính định hướng chính trị của hoạt
động báo chí. Dù tờ báo thuộc cơ quan tổ chức nào, nội dung thông tin tuyên
truyền phục vụ đối với người xem - người nghe là ai cũng phải có chính kiến,
có định hưởng rõ ràng. Đó chính là sự cụ thể hóa tính khuynh hướng chính trị
và tất nhiên khuynh hướng ấy khơng thốt ly sự lãnh đạo của Đảng cầm
quyền. Trong mối quan hệ đan xen ấy, vấn đề bản lĩnh chính trị để xử lý thông
tin không chi là sự vững vàng, nhất quán về lập trường, các quan điểm của
Đảng đối với hoạt động báo chí mà cịn là một thử thách mang tính cọ xát
trước mỗi sự việc - sự kiện - vấn đề, mỗi tình huống trong quá trình tác
nghiệp của những người làm báo. Vấn đề đặt ra chính là lợi ích của người xử
lý thông tin, cơ quan báo chí trong lợi ích chung của nhân dân, của đất nước.
Từ khi thực hiện đổi mới báo chí vì sụ nghiệp đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo, báo chí đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Báo chí
khơng những phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, báo chí cịn khơi

dậy khơng khí dân chủ thật sự trong đời sống xã hội. Trong sự phát triền
chung đó, báo chí cũng mắc phải những sai phạm đáng tiếc mà nguyên nhân
chính là người làm báo bị chi phối bởi lợi ích cá nhân, bng lỏng tính
khuynh hướng chính trị của tờ báo. Chúng ta thật sự đau xót khi có cả người
đứng đầu cơ quan báo chí, bị pháp luật trừng trị, bị dư luận lên án... qua
những vụ án như vụ Trương Văn Cam và đồng bọn, vụ Mai Văn Huy, vụ điện
16


kế điện tử ở Thành phố Hồ Chí Minh, vụ Đề án 1 12 gây thất thốt, lãng phí
hàng trăm tỷ đồng... Từ thực tế đó, tính khuynh hướng chính trị của báo chí là
vấn đề vừa có tính lý luận sâu sắc, vừa có tính thực tiễn đối với cơ quan báo
chí và người làm báo hiện nay.
Tự do báo chí là hoạt động được xã hội coi trọng. Tuy nhiên khơng có
một tự do nào là tự do vô hạn định. Những năm gần đây, Đảng, Nhà nước ta
đã và đang cố gắng tạo điều kiện cho việc thực hiện tự do báo chí. Luật Báo
chí cũng đã quy định rõ, báo chí ở nước ta khơng bị kiểm duyệt trước khi phát
hành, phát sóng. Đó là một sự thể hiện rất lớn của tự do báo chí. Nhà báo
được quyền tự do hành nghề trong khuôn khổ pháp luật và không ai được cản
trở nhà báo hoạt động đúng pháp luật.
Cách đây không lâu, một vị Bộ trưởng trả lời báo chí đã nói: "Tự do
báo chí, cũng như trong tham gia giao thông, con người sẽ an toàn và tự do
nếu họ đi đúng lề đường bên phải". Quan điềm của ông là: "Muốn phát huy
được sức mạnh truyền thơng của báo chí, cần phải có tự do. Tuy nhiên, tự do
không đồng nghĩa với việc vơ chính phủ. Bất cứ sự tự do nào cũng cần phải
có giới hạn.
Chính vì thế mới cần phải có vai trị quản lý của nhà nước. Tự do báo
chí cũng khơng nằm ngồi quy luật ấy. Nếu tự do báo chí gây chia rẽ sự đồn
kết, làm tổn hại đến uy tín, danh dự, thương hiệu quốc gia, sự tự do ấy cần
phải được kiểm soát, nhắc nhở, thậm chí nếu vi phạm cần phải có các chế tài

xứ lý nghiêm túc, đúng đắn và kịp thời.". Tự do "là đi đúng lề đường bên
phải" - một phát biểu là nhiều gây tranh cãi, làm cho nhiều người hoài nghi về
tự do báo chí thực chất.
Trả lời cho chất vấn này, ơng nói: "Đã có nhiều người hỏi tơi vế tự do
báo chí, trong đó có khơng ít nhà báo đã đề cập nhưng rất tiếc là họ đã diễn
đạt khơng chính xác những điều mà tơi muốn nói. Cái tự do mà tơi muốn nói
là lợi ích của đất nước, của cộng đồng. Nếu đi ngược lại với lợi ích ấy thì ở
bất cứ nước nào cũng khơng có tự do. Nói tóm lại, chúng ta hiếu tự do báo
17


chí, cũng như trong tham gia giao thơng, con người sẽ an toàn và tự do nếu họ
đi đúng lề đường bên phải."
Có thể hiểu, tự do báo chí là tn thủ Luật, tự do báo chí ln nằm
trong các yếu tố thời đại và cả những yếu tố quốc gia, dân tộc, văn hóa, địa
chính trị, kinh tế....Tự do báo chí khơng nằm ngồi lợi ích dân tộc và tự do
báo chí phải tuân thủ theo các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
Từ những gì đang diễn ra trong cái gọi là nền tự do báo chí phương
Tây, người ta càng nhận rõ tính chất phi lý của những cái gọi là bản tổng kết,
bản báo cáo đôi khi có nghị quyết hằng năm được phát đi từ Washington bình
phẩm, lên án tính điểm việc này, việc nọ ở các quốc gia trên khắp các lục địa,
trong đó có Việt Nam, khi thì về "nhân quyền", khi thì về dự do tôn giám', "tự
do báo cho, ,,tự do ngôn luận"... Mấy năm gần đây, lời lẽ của họ cũng có cung
bậc cao thấp khác nhau, bởi vì họ khơng the phủ nhận được thực tế ở Việt
Nam quyền con người chẳng những được Hiến pháp, pháp luật khẳng định,
bảo vệ mà còn được thực thi ngày càng tốt hơn trên thực tế. Tuy nhiên, những
kẻ ăn theo, tiếp tục la lối về cái gọi là tự do ngôn luận, ty do báo chí, địi hỏi
chỉ có tư nhân hóa báo chí mới có báo chí tự do. Thật ra, đó là những người
cố tình khơng hiểu gì về những phát triển vượt bậc của báo chí Việt Nam mà
bất cứ ai quan tâm hoặc đã đến Việt Nam đều thừa nhận. Không chỉ là sự phát

triển về số lượng, về kỹ thuật mà quan trọng hơn là những tiến bộ không
ngừng về nội dung, chất lượng, về đội ngũ những người làm báo, về sự đóng
góp to lớn của họ trong tống hợp tiếng nói từ thực tiễn, của mọi tầng lớp nhân
dân đề xuất và hồn thiện chính sách, pháp luật, cải cách hành chính, cải cách
tư pháp, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phục vụ chính sách đối ngoại và gần nhất
chính là đường lối phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc,
chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo... Mỗi đất nước đều có pháp luật
riêng, mỗi cơ quan báo chí đều có truyền thống, văn hóa, quy chế của riêng
mình.

18


5. Tự do báo chí tuyệt đối
Về cái gọi là "tự do tuyệt đối" mà giai cấp tư sản từ trước đến nay
thường rêu rao để lừa bịp dư luận, V.I. Lênin tấn công trực diện: "Thưa các
ngài cá nhân chủ nghĩa tư san, chúng tơi phải nói cho các ngài biết rằng,
nhũng lời nói của các ngài về tự do tuyệt đối chẳng qua chỉ là một thứ giả dối
mà thôi. Trong xã hội xây dựng trên quyền lực của đồng tiền, trong xã hội mà
quần chúng lao động phải ăn xin và một nhúm ít người giàu có thì ăn bám,
quyết khơng thề có "tự do" thực sự và chân chính". V.I Lênin chỉ rõ: "Trong
xã hội tư sân, "tự do báo chí" tức là tự do cho bọn giàu có dùng mỗi ngày
hàng triệu bản báo chí đe lừa bịp, làm đồi truỵ và phỉnh phờ một cách có hệ
thống và khơng ngừng những quần chúng nhân dân bị bóc lột, bị áp bức,
những người nghèo khổ". Cách đây mấy năm, Tổ chức Văn bút quốc tế và Tổ
chức Phóng viên khơng biên giới - hai chiếc loa rè về cái gọi là "tự do báo
chí" đã bị tố cáo ăn tiền của CIA (Mỹ).
Không chi dùng tiền để mua cơ quan báo chí và nhà báo; chi các khoản
tài chính đen để một số cơ quan báo chí và nhà báo "chém mướn, đâm thuê",
giai cấp tu sản còn dùng nhiều luật lệ, thủ đoạn xảo quyệt, đề kiểm sốt và

đàn áp báo chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận xét về báo chí của thực dân
Pháp tại các nước thuộc địa: "Chính phủ Đơng Dương tổ chức phá hoại tờ Le
Paria; Chính phủ Tây Phi thuộc Pháp cầm nhập các báo của người da đen
châu Mỹ; Chính phủ Tuynidi trục xuất chủ nhiệm tờ L'Avenir Social; ông
Lyotây đuổi chủ nhiệm tờ La Guêpe Marocaine ra khói Ma rốc (người ta chỉ
cho nhà báo 1 giờ để thu xếp hành lý)". Cũng vì "tự do báo chí", "tự do mua
nhà báo" như Lênin đã nói, mà phóng viên người Mỹ Jayson Blair đã viết
hàng chục bài báo bịa đặt đăng trên các tờ Thời báo Niu Oóc, Ma con
Telegraph, Chicago Tribune...Năm 2003, nhiều tờ báo, đài phát thanh, truyền
hình ở Mỹ đã phát băng hình, phóng sự, phỏng vấn về việc lính đặc nhiệm
Mỹ giải cứu thành cơng binh nhì Jessica Lynch tại một bệnh viện dã chiến ở
Bát đa trong vòng vây của những tay súng trắc. Họ vẽ lên hình ảnh những
19


người lính Mỹ quả câm, đáng yêu, đến trắc là để xoá bỏ chế độ độc tài đem tự
do cho người dân trắc. Nhưng, liền sau đó, khi về tới Mỹ, "người hùng"
Jessica Lynch đã thật thà kể lại câu chuyện của mình. Hàng chục triệu người
Mỹ bị sốc khi nghe câu chuyện của chị. Còn Peter Amett, người mà ngay
trong tháng 4 vừa qua, đã cho ra mắt độc giả Việt Nam cuốn sách "Từ chiến
trường khốc liệt" (bản tiếng Việt, NXB Thơng tấn), là phóng viên "ruột" của
hãng truyền hình CNN, đang nồi như cồn vì hàng loạt phóng sự, bình luận
trực tiếp về cuộc chiến của Mỹ tại trắc, bỗng dưng bị sa thải vì đưa thơng tin
không phù hợp với quan điểm của Nhà Trăng và Lầu Năm góc. R.Mẹ Arthur Tổng Biên tập Tạp chí Harper chua chát nhận ra rằng: "Các hãng tin Mỹ như
FOX, CNN, ABC, CBS, NBC ít khi đưa được tin chính xác về diễn biến thực
tế các trận đánh, vì hầu hết các bài và hình ảnh đều được biên soạn tại các căn
cứ quân sụ của Mỹ ở Cảm và Cơoet. Các phóng viên hầu hết đều ở phía sau
chiến tuyến, viết bài, đưa tin dựa vào các tin và tài liệu do quân đội Mỹ cung
cấp". Chính trong những ngày đó, xe tăng Mỹ đã nã đạn vào một khác sạn ở
thủ đơ Bát đa, nơi có trên 100 nhà báo đang trú ngụ, làm 1 1 người chết, hàng

chục người khác bị thương. Tháng 9 năm 2005, cũng vì quan niệm "tự do báo
chí tuyệt đối", tờ báo Jyllands Posten của Đan Mạch đăng 12 bức tranh vẽ nhà
tiên tri Mohammed đội chiếc khăn trùm đầu giống nhủ một quả bom đang xì
khói. Một số phản ứng từ phía các tín đồ đạo Hồi. Đến đâu năm 2006, tờ báo
trên và một số báo khác ở Đan Mạch và châu âu cho đăng lại các bức tranh,
lập tức làn sóng cơng phân mạnh mẽ, rộng lớn dấy lên khắp nơi. Nguy hại
hơn, đã xẩy ra các cuộc biểu tình, các cuộc xung đột giữa người Hồi giáo và
người Thiên chúa giáo làm một số người chết và bị thương. Và mấy tuần gần
đây, lợi dụng khó khăn về kinh tế-xã hội của một sổ nước ở Trung Đơng, Bắc
Phi, khơng ai khác, chính những kẻ rêu rao, vu cáo nước này, nước kia "vi
phạm tự do báo chí", "ngăn chặn, kiểm duyệt Intemet"...đã qua hệ thống báo
chí hùng hậu của mình, "bày đường" "vẽ lối" cho người dân ở các nước đó,
nhất là các lực lượng quá khích, sử dụng báo chí, phương tiện truyền thơng,
20


các mạng xã hội như Facebook, Twister, Wikileaks, You Tước...đứng lên bạo
loạn, gây rối, lật đổ chính quyền.
Thực tế trên đây cho thấy, chúng ta không bao giờ được phép huyễn
hoặc về cái gọi là "tự do tuyệt đối của báo chí", càng khơng được qn bài
học hơm qua và cả những điều cịn nóng hổi hơm nay.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, tự do báo chí ở mỗi quốc gia
trong đó có Việt Nam cũng có những vận động riêng. Q trình tồn cầu hóa
kinh tế kéo theo nó sự biến đổi trên mọi lĩnh vực chính trị - xã hội. Ở Việt
Nam, sau gần hai mươi năm đổi mới và hội nhập quốc tế, báo chí đã có bước
phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Thơng tin trên báo chí ngày càng phong
phú, chất lượng được nâng cao. Báo chí đã góp phần tích cực vào việc giáo
dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tuyên truyền quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tổng kết thực tiễn; phát hiện, phản
ánh tâm tư nguyện vọng cửa nhân dân; đấu tranh chống quan liêu, tham

nhũng, lãng phí và sự suy thối đạo đứa động viên phong trào thi đua yêu
nước, biểu dương các nhân tố mới...
Trong bối cảnh hội nhập, là một nền báo chí ra đời muộn, báo chí Việt
Nam đối diện với nhiều thách thức. Thách thức hiện hữu là vấn đề thương mại
hóa báo chí; thách thức về đạo đức nhà báo do sự tác động của kinh tế thị
trường: Nhiều nhà báo vì lợi ích cá nhân mà vi phạm luật pháp, vi phạm đạo
đức nghề nghiệp và gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân, danh dự của các cơ
quan báo chí. Trong bối cảnh này, chúng ta cũng cần nhìn nhận và khắc phục
một số hạn chế trong hoạt động báo chí để phấn đấu vì một nền báo chí tự do
vì lợi ích dân tộc, giai cấp. Hoạt động quản lý báo chí đã, đang và cần được
hoàn thiện cả về hành lang pháp lý, tổ chức, bộ máy và cơ chế điều hành. Đó
là điều kiện quan trọng, khơng thể thiếu, góp phần thúc đẩy sự phát triển
nhanh chóng của hệ thống báo chí đất nước. Tuy nhiên, cũng có thể nhận thay
một số vấn đề còn bất cập hoặc chưa đáp ứng kịp yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.
Trong xã hội và nhất là trong hệ thống chính trị chưa có sự nhận thức thật sự
21


thống nhất về vai trò, chức năng xã hội của hệ thống báo chí nói riêng và hệ
thống truyền thơng đại chúng nói chung, sự cần thiết và yêu cầu, mức độ quản
lý hệ thống đó nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triền xã hội.
Tình hình này trở nên phức tạp hơn khi Đảng ta thực hiện chính sách
đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội ngày càng phát triển theo hướng cải thiện,
mở rộng dân chủ, giao lưu quốc tế ngày càng tăng cường, hội nhập toàn diện.
Mặt khác những yếu tố từ bên ngoài tác động ngày càng nhiều vào xã hội
nước ta, trong đó có những sức ép, sự can thiệp, thúc đẩy về tự do báo chí, sự
kích động về dân chủ, nhân quyền... Sự không thống nhất trong nhận thức về
vấn đề này ảnh hưởng đến các khâu trong quá trình quản lý báo chí, từ hoạch
định chính sách, chế độ, việc tổ chức hệ thống, hình thành cơ chế làm việc,
đến việc thực thi các biện pháp, vận hành các loại công cụ quản lý. Mức độ cụ

thể hóa trong hệ thống luật định về báo chí chưa đủ để giải quyết nhiều tình
huống đặt ra trong thực tế hoạt động báo chí, nhất là đối với những vấn đề
như: văn hóa, đạo đức, quan hệ xã hội... Còn thiếu những chế tài, giải pháp để
quản lý một số yếu tố của hệ thống báo chí, nhất là quản lý về trách nhiệm
của các cơ quan chủ quản, trách nhiệm, nghĩa vụ xã hội của những người làm
báo. Một số chế độ khơng cịn thích ứng với thực tế nhưng chậm được thay
đổi; một số chế tài không đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn những hành vi, sự vụ
vi phạm pháp luật, chế định cửa Nhà nước, đường lối, chủ trương của Đảng.
Bộ máy quân lý chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động; quy
mô và các nguồn lực chưa tương xứng với khối lượng và tính chất công việc.
Vấn đề rõ nhất là chưa phân định rõ trách nhiệm, chức năng giữa cơ
quan chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí,
cũng như chưa có sự phân định chức năng và xây dựng tổ chức bộ máy hợp lý
giữa cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm xét xử
những vi phạm của báo chí theo luật định. Trách nhiệm của cơ quan chủ quản
báo chí cũng khơng bị ràng buộc chặt chẽ về pháp lý với cơ quan báo chí.

22


Giáo dục chưa đay đủ và hiệu quả cho những người làm báo về luật
pháp, đạo đức và trách nhiệm công dân của nhà báo. Hệ thống đào tạo không
được quan tâm đầy đủ, bị chi phối quá nặng nề bởi một hệ thống chế định,
chế độ không hợp lý và nhiều khi vơ lý. Chưa có cơ chế, chế độ và các điều
kiện cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí các cấp.
Sẽ là phiến diện nếu không chỉ ra rằng, trong tiến trình phát triển của báo chí
Việt Nam cũng đã xuất hiện và đang tồn tại một số vấn đề bất cập hoặc chậm
xử lý làm hạn chế vai trò động lực phát triển của báo chí. Việc đặt ra và giải
quyết những vấn đề đó, trước hết là những vấn đế liên quan đến hành lang
pháp lý, cơ chế quản lý, giáo dục đạo đức nghề nghiệp chuyên nghiệp v.v.. là

yêu cầu, điều kiện không thể thiếu cho việc phát huy những tính chất ưu việt,
tăng cường hội nhập quốc tế, xây dựng nền báo chí Việt Nam hiện đại, ngang
tầm với những yêu cẩu, đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước
trong thời kỳ mới.
Nhà báo Phan Quang đã từng trả lời phỏng vấn trên báo chí về vấn đề
tự do báo chí. ơng nhấn mạnh: "Nền báo chí của chúng ta ln phải phơn đấu
cho tự do báo chí". Đánh giá về mơi trường hoạt động của báo chí thời kỳ đổi
mới, ơng cho rằng: "Nói về tự do báo chí và mơi trường hoạt động của nhà
báo tôi nghĩ nay tốt hơn trước nhiều, và mỗi ngày đang một tốt lên. Nhưng
như vậy đã đủ chưa, thì câu trả lời là chưa đu. Chưa đủ vì hai lẽ. thứ nhất, tự
do tà khái niệm khơng bao giờ đạt đến cái đíclz đầy đu của nó cả. Tự do tà
hồi bão của nhân loại Tự do ngày càng đầy đủ hơn, vẫn đòi hỏi được nâng
lên, được hồn thiện.
Tự do báo chí là một khái niệm rất động và chúng ta phải cùng nhau
phấn đấu để thực hiện tự do báo chí và tiếp tục hồn thiện nó. Làm thế nào để
nhà báo có điều kiện hoạt động ngày càng tự do hơn ? Tơi nghĩ điều quan
trọng là Nhà nước có hệ thống pháp luật nói chung vi hành lang pháp lý báo
chí nói riêng mỗi ngày một hồn chỉnh. Các nhà quản lý báo chí cũng được
yêu cầu phải tiếp tục đổi mới tư duy và cung cách quản tý của mình. Nên
23


chăng cần thống nhất nhận thức: ngày nay không nên đặt vấn đề cho phép báo
chí được đưa thơng tin này hay đưa thơng tin khác, mà nên khuyến khích báo
chí thơng tin càng rộng, càng nhiều càng tốt, trừ những ván đề đã có quy định
trong Luật báo chí. Nói cách khác, khơng bao giờ nên tìm cách khoanh lại, mà
tìm cách mở ra."
Cơng cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo đường lối đối mới của
Đảng trong những năm qua đã mang lại sự cải thiện rõ rệt về đời sống tinh
thần và vật chất của nhân dân. Cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ và q

trình tồn cầu hố đang tạo ra những thay đổi to lớn về mọi mặt, đảo lộn nếp
sống cũ, tạo nên những biến đổi có tính cách mạng trong phương pháp, kỹ
năng hoạt động nghề nghiệp của những người làm báo cũng như cả hệ thống
báo chí. Cơng cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới đang đặt
ra những yêu cầu đòi hỏi ngày càng rộng lớn, nặng nề hơn đối với nền báo chí
cách mạng. Kế thừa bản chất tốt đẹp và những truyền thống vẻ vang, nhận
thức rõ những điều kiện trong nước và quốc tế cũng như trách nhiệm nặng nề
trước Đảng, chế độ và nhân dân là cơ sở cho việc tiếp tục phát triển nền báo
chí một cách tồn diện vì một nền báo chí tự do, đóng góp tích cực nhất vào
cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và phát triển
đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh./.

24


×