Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Vai trò sáng tạo của biên tập viên trong công tác kế hoạch đề tài xuất bản sách văn học tại nhà xuất bản lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.74 KB, 41 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài
Người Việt Nam từ xưa tới nay có truyền thống quý trọng, say mê văn

học. Những câu ca dao, ngụ ngôn…trong văn học dân gian, những áng văn
thơ nổi tiếng bằng cả chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ cho thấy dân tộc ta có
tâm hồn tinh tế, khả năng cảm thụ sâu sắc, khả năng diễn đạt phong phú. Văn
học không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn con người mà cịn cổ vũ, khích lệ nhân
dân ta trong những cuộc kháng chiến hào hùng. Những thế hệ chiến sĩ trong
chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ đã lớn lên với những tác phẩm của Lép
Tônxtôi, Huygơ, Sơlơkhốp, Hêmingy… khơng thể tách bạch những hình
ảnh của sách văn học đối với con người Việt Nam từ xưa tới nay, cho nên
sách văn học có giá trị không thể phủ nhận được. Bất cứ thời gian nào, hồn
cảnh nào những tác phẩm văn học hay vẫn ln là vốn quý đời sống tinh thần
của mỗi người. Mỗi khi đọc sách văn học, người đọc như soi thấy mình với
những góc khuất tâm hồn và hiểu được thế giới hiện thực xung quanh, bởi văn
học như một tấm gương phản chiếu cuộc sống hiện thực, và ai cũng thấy một
phần cuộc sống của mình trong đó. Vì vậy, các nhà xuất bản (NXB) nói chung
và đối với biên tập viên (BTV) biên tập sách văn học nói riêng phải khơng
ngừng nâng cao chất lượng sách. Muốn có những cuốn sách hay BTV cần xây
dựng những kế hoạch đề tài (KHĐT) khoa học và khả thi nhằm khai thác
được nhiều đề tài hay trong cuộc sống, trên cơ sở đó lựa chọn các bản thảo
phù hợp, có chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bạn đọc.
KHĐT là khâu mở đầu, quyết định các khâu còn lại trong q trình xuất
bản. Để có những bản thảo hay, đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc và phục
1



vụ tốt có nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao cho mỗi NXB, đòi
hỏi các BTV phải linh hoạt, nhạy bén trong việc lựa chọn đề tài và đưa những
KHĐT đó thành hiện thực.
Là sinh viên chuyên ngành Biên tập xuất bản lại rất yêu thích mảng
sách văn học với mong muốn hiểu rõ hơn vai trò sáng tạo của BTV trong xây
dựng KHĐT sách văn học như thế nào. Qua tìm hiểu em được biết NXB Lao
động là một trong những NXB xuất bản mảng sách văn học nên em quyết
định lựa chọn đề tài “Vai trị sáng tạo của biên tập viên trong cơng tác kế
hoạch đề tài xuất bản sách văn học tại Nhà xuất bản Lao động” để nghiên
cứu được sâu hơn vấn đề này.

II. Mục đích nghiên cứu
C.Mác nói: “Con ong dù có khéo léo xây dựng cái tổ hồn hảo đến đâu
cũng không thể sánh được với một kỹ sư, dù chỉ với một kỹ sư tồi, vì trước
khi xây dựng ngơi nhà, anh ta đã hình dung nó ở trong óc”. Do vậy, xây dựng
KHĐT được coi là khâu công tác mở đường cho hoạt động xuất bản. Trong
đó, vai trò của BTV trong NXB là rất quan trọng, các BTV phát hiện ra đề tài
bằng các nghiệp vụ xuất bản để điều tra, nghiên cứu thị trường, hiểu được tâm
lý của độc giả để cho ra những (XBP) hay đáp ứng kịp thời nhu cầu của bạn
độc giả, có vậy mới được xem là thành cơng.
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là căn cứ vào tình hình xuất bản
sách; vị trí, vai trị của cơng tác KHĐT để nghiên cứu vai trị sáng tạo của
BTV trong cơng tác KHĐT sách văn học thông qua việc xây dựng đề tài và
KHĐT. Từ đó đưa những thành tựu và hạn chế và đề xuất những biện pháp để
nâng cao chất lượng xây dựng KHĐT trong mảng sách văn học. Đặc biệt qua
việc nghiên cứu đề tài này, sẽ giúp em hiểu sâu hơn vai trò của một BTV biên
tập sách văn học trong thực tế, từ đó bổ sung những kiến thức phục vụ cho
công việc sau này.


III. Phạm vi nghiên cứu
2


BTV có vai trị rất quan trọng trong việc xây dựng KHĐT ở mỗi NXB.
Tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ mà các NXB sẽ lựa chọn những đề tài và
xây dựng KHĐT phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.
Vì vậy, trong quỹ thời gian hạn hẹp em chỉ tập trung nghiên cứu công
tác KHĐT sách văn học tại NXB Lao động.

IV. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng kết hợp các phương pháp duy vật biện chứng và một số
phương pháp khác như đọc và tham khảo bài giảng trên lớp của cô Nguyễn
Lan Phương và cô Vũ Thùy Dương kết hợp với giáo trình Lý luận nghiệp vụ
xuất bản của thầy Trần Văn Hải, đồng thời nghiên cứu các tài liệu có liên
quan và các tài liệu nghiên cứu của bản thân để bài tiểu luận của em lôgic và
khoa học hơn.
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu: Tổng kết đánh giá, thống kê, thu
thập tài liệu, phân tích, tổng hợp… để tiến hành nghiên cứu đề tài.

V.

Kết cấu tiểu luận

Bài tiểu luận gồm có ba phần
Mở đầu
Nội dung
Chương I. Khái quát chung về vấn đề lý luận
Chương II. Thực trạng công tác kế hoạch đề tài mảng sách văn học trong
tại Nhà xuất bản Lao động

Chương III. Một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng kế hoạch đề tài
mảng sách văn học
Kết luận

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
I.

Đề tài
Là phạm vi cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm. Trong văn học,

những lĩnh vực hiện thực phản ánh bao giờ cũng được các văn nghệ sĩ nhận
thức và phản ánh bằng hình tượng thơng qua sự tái tạo chủ quan của mình.
Trong lý luận xuất bản, đề tài là thiết kế tổng thể về chủ đề, nội dung,
tên gọi của XBP tương lai, là kết quả sáng tạo tư duy của biên BTV kết quả
tập hợp phân loại, xử lý thơng tin nhằm phục vụ một mục đích truyền thơng
nhất định. Nó cịn là thiết kế tổng thể có sự đóng góp của tổng thể BTV họa
sỹ, in ấn, phát hành và mang dấu ấn khách quan.
Đề tài trong hoạt động xuất bản không mang dấu ấn chủ quan của BTV
mà là kết quả nghiên cứu, xử lý thông tin nhiều chiều từ phía hiện thực cuộc
sống, từ độc giả, từ tác giả và cơ quan truyền thông địa chúng trên tinh thần
chủ động, sáng tạo của người truyền bá văn hóa.
Trách nhiệm của BTV trong NXB là phát hiện ra đề tài bằng các nghiệp
vụ xuất bản của mình, lựa chọn đề xuất ra những đề tài đúng và hay. Đây
chính là trách nhiệm thường xuyên, diễn ra hàng năm trong các NXB. Một đề
tài đúng là đề tài phù hợp với nhu cầu của thị trường, phù hợp với nhu cầu của
xã hội và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của NXB đã được phân công. Tuy

nhiên, trong thời kỳ cạnh tranh khốc liệt, thì giữa các NXB cũng có sự cạnh
tranh nên dẫn đến các NXB bị thương mại hóa và chồng chéo chức năng,
nhiệm vụ gây hỗn loạn thị trường.
Một đề tài hay là đề tài có tính mới mẻ, sáng tạo và độc đáo, thực hiện
công tác tư tưởng một cách sâu sắc, sắc sảo được đảm bảo bởi đội ngũ tác giả
có chất lượng cao và cơ sở vật chất – kỹ thuật đầy đủ. Mặt khác, phải là đề tài

4


có khả năng thực hiện một cách chắc chắn, hứa hẹn đạt hiệu quả cao (cả về
văn hóa và kinh tế) trong công tác xuất bản.

II.

Kế hoạch đề tài

1. Khái niệm kế hoạch đề tài và công tác kế hoạch đề tài
Kế hoạch đề tài (KHĐT) là một bản dự kiến kế hoạch về nhiệm vụ,
biến pháp xuất bản các đề tài với các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng, thời
gian cụ thể mà NXB cần tiến hành trong thời gian nhất định. Được xây dựng
bởi trí tuệ tập thể của nhiều bộ phận, phòng ban như: Ban Giám đốc, các
phòng, ban biên tập, bộ phận kế hoạch, phòng phát hành. Trong đó, cấp phịng
ban biên tập là cấp trung gian quan trọng trong việc xây dựng KHĐT.
Công tác KHĐT là chỉ hoạt động đề xuất đề tài của BTV, quá trình xây
dựng, quyết định và điều chỉnh kế hoạch đề tài của NXB, nhằm bảo đảm hoạt
động của đơn vị xuất bản có chất lượng và hiệu quả cao hơn.
2. Cơ sở lý luận chung về công tác xây dựng kế hoạch đề tài
Bản chất của hoạt động xuất bản là hoạt động khai thác, truyền bá phổ
biến chứ khơng phải là nghiên cứu. Vì vậy, trong cơng tác xuất bản các cán bộ

biên tập sách luôn phải có sự nhìn nhận và đề xuất đề tài. Đề tài chọn làm
sách chủ yếu là những vấn đề đã được tác giả nhận thức. Văn học là cuộc
sống nên đề tài sách văn học rất phong phú và đa dạng.
Đề xuất xây dựng KHĐT là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của mỗi
BTV. Mỗi NXB đều có KHĐT riêng. Đó là sự lựa chọn các mục tiêu, xác
định phương hướng để đạt mục tiêu phục vụ có chất lượng và hiệu quả nhu
cầu của xã hội và hoàn thành chức năng nhiệm vụ của NXB.
Xây dựng kế hoạch cho hoạt động xuất bản là yêu cầu tự nhiên khách
quan do tính tất yếu, sự địi hỏi của hợp tác lao động (Nguyên lý hoạt động
Biên tập xuất bản). Các Mác đã nói rằng: “ Con ong dù có khéo léo xây dựng
cái tổ hồn hảo đến đâu cũng khơng thể so sánh được với một kỹ sư, dù chỉ
với một kỹ sư tồi vì trước khi xây dựng ngơi nhà anh ta đã hình dung nó trong
óc”. Đó chính là sự cần thiết của kế hoạch. Cũng giống như người kỹ sư xây
5


dựng đã có sự “hình dung đầu óc”, BTV cũng phải có một kế hoạch nhất định
để hướng cho cơng việc biên tập, làm sách có hiệu quả.
KHĐT nhằm sản xuất ra các sản phẩm văn hóa tinh thần với mục tiêu
phải đạt tới là các giá trị nhân văn, nâng cao đời sống tinh thần của xã hội.
KHĐT của mỗi BTV ln dựa vào thị trường. Và chính yếu tố thị trường đó
lại tác động trở lại một cách mạnh mẽ nhằm xây dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh.
Ngồi ra, KHĐT của mỗi NXB nói chung và của BTV nói riêng sẽ bị
chi phối trực tiếp bởi các quy luật của hoạt động văn hóa – tư tưởng. Từ đó
BTV xây dựng KHĐT phải có tính linh hoạt, thường xuyên được bổ sung,
điều chỉnh đáp ứng được nhu cầu của cơng tác văn hóa – tư tưởng.
KHĐT của NXB và mỗi BTV có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, kế
hoạch hàng năm. Trong đó kế hoạch bản thảo chiếm vị trí quan trọng. Nó
phản ánh tiến trình, khả năng tổ chức và khai thác bản thảo của từng BTV.

2.1. Những u cầu có tính ngun tắc của kế hoạch đề tài
KHĐT là bản dự án tổng hợp về hoạt động biên tập xuất bản của NXB
để tạo ra nhiều XBP phục vụ có chất lượng nhu cầu văn hóa – xã hội và đạt
hiệu quả kinh tế cao. Muốn vậy, công tác đề tài và KHĐT cần đảm bảo các
yêu cầu:
 Tính mục tiêu của đề tài
Yêu cầu này rất quan trọng, bởi lẽ độc giả là đối tượng phục vụ trực
tiếp của công tác biên tập xuất bản.
Cơ cấu độc giả trong xã hội hiện đại rất đa dạng, các nhóm độc giả ln
đan xen vào nhau và ln có sự thay đổi. Mặt khác, nhu cầu tiêu dùng của độc
giả cũng đa dạng và nhu cầu đó cũng biến đổi trong khơng gian và thời gian.
Để xác định được độc giả cho mỗi đề tài, BTV phải đi sâu nghiên cứu
độc giả xem đối tượng nào là đối tượng chính tiêu thụ sản phẩm, có thể chia
theo các mức độ như: độc giả cơ bản hay không cơ bản, độc giả thường xuyên
hay độc giả tiềm năng; điều tra cặn kẽ để tìm hiểu yêu cầu của độc giả về
6


XBP, phân tích và phân biệt các nhu cầu của họ như: nhu cầu giải trí, nghiên
cứu, tra cứu, sưu tầm, tự tơn, thực dụng, giao tiếp…Từ đó, BTV định vị mục
tiêu cụ thể của mỗi đề tài: để tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng, để truyền
bá tri thức văn hóa khoa học, hay để phục vụ nhu cầu giải trí của bạn đọc cụ
thể.
Như vậy, bất cứ đề tài nào, ngay từ lúc thiết kế, đều phải xác định được
đối tượng và mục đích rõ ràng.
 Tính dự báo
Trong điều kiện xã hội thông tin và kinh tế tri thức, ln địi hỏi thơng
tin trong XBP phải cập nhật mới đáp ứng yêu cầu phát triển. Do vậy, khi xây
dựng KHĐT, phải tăng cường tính dự báo, làm cho các đề tài được lựa chọn
đều mang tính vượt trước, lập KHĐT phải đi trước thời gian.

Khi tìm chọn đề tài, BTV phải nghiên cứu để phán đoán, có những
XBP hiện tại đang có nhu cầu lớn nhưng về lâu dài do thị trường đã bão hòa
hoặc mức tiêu thụ đã gần đạt tới cực đại thì khơng nên đưa KHĐT đó vào sản
xuất. Ngược lại, có XBP hiện tại lượng tiêu thụ chưa lớn nhưng tình thế mới
sẽ tạo ra nhu cầu ngày càng lớn cho nó thì phải biết chớp thời cơ và đưa đề tài
này vào sản xuất ngay lập tức
Muốn bảo đảm tính dự báo của đề tài, BTV phải có khả năng dự báo về
tư tưởng, nhu cầu tri thức, nhu cầu thông tin mới… để phát hiện các nhu cầu
hiện thực dự kiến trước đề tài này để tránh bỏ lỡ thời cơ, xuất bản đúng lúc và
chủ động đi trước một cách hợp lý.
 Tính sáng tạo
Biên tập là sự sáng tạo liên tục. Nó được thể hiện ngay trong việc thiết
kế đề tài.
Hình thức biểu hiện sáng tạo của cơng tác KHĐT thể hiện ở chỗ: BTV
tổng hợp các XBP cũng loại đã có, đi sâu phân tích và tìm ra những đột phá
có ý nghĩa nhất. Sau đó, BTV vận dụng cách nhìn mới để thể hiện đề tài dưới
góc độ quan điểm và phương thức thể hiện đề tài mới. Khi tìm cái mới, cái
7


sáng tạo khơng phải là tìm những điều giật gân, chuộng lạ, mà nó phải phù
hợp với văn hóa, với nhận thức, với tư duy của người Phương Đơng.
Tính sáng tạo của đề tài chính là kết hợp nhuần nhuyễn, hữu cơ tinh
thần thời đại, nhu cầu của độc giả với năng lực sáng tạo của cá nhân BTV.
 Kế hoạch đề tài phải có tính khả thi
Việc xây dựng KHĐT là chỉ là khâu mở đầu. KHĐT vạch ra có được
thực hiện đúng tiến độ hay khơng? Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều
điều kiện chủ quan và khách quan. Tổng hợp những điều kiện đó tạo nên tính
khả thi của kế hoạch đề tài.
Khi xây dựng kế hoạch, BTV phải tính tốn đầy đủ các điều kiện cần

có để thực hiện kế hoạch, bảo đảm sự cân đối giữa các chỉ tiêu đề ra với các
điều kiện, nhân tố bảo đảm cho nó được thực hiện.
Các nhân tố chủ quan (thuộc về NXB) như: lực lượng biên tập, tài chính,
lực lượng hậu cần, đối với các nhân tố này NXB có thể lên kế hoạch được.
Điều cần chú ý là khi thiết kế, có thể có cả những điều kiện chưa có ngay đầy
đủ, nhưng qua nỗ lực phấn đấu, các nhân tố chủ quan có thể tạo ra.
Các nhân tố khách quan: bối cảnh văn hóa – chính trị, cơng tác tư
tưởng khi lập KHĐT, đội ngũ cộng tác viên, đối với những nhân tố này các
BTV cần có sự chủ động tìm hiểu qua việc điều tra, nghiên cứu thị trường,
trên cở sở đó để xây dựng những đề tài có tính khả thi. Nhân tố cộng tác viên,
BTV cần tìm hiểu, lựa chọn những cộng tác viên tác giả có tư tưởng chính trị
vững vàng, có phong cách sáng tác phù hợp với đề tài và có điều kiện thực
hiện được đề tài.
 Tính hệ thống
Tính hệ thống là sự thống nhất trong kế hoạch của phòng ban biên tập
với kế hoạch của tồn bộ NXB trong từng đề tài.
Tính phong phú, đa dạng của đề tài xuất bản được thể hiện và sẽ tạo
nên tính chỉnh thể của kế hoạch xuất bản toàn ngành.

8


Tính hệ thống của đề tài là yêu cầu phản ánh tính hệ thống của tri thức
nhân loại, là tiền đề để tạo nên tính hệ thống của hoạt đơng xuất bản, nhằm
phục vụ tốt hơn cho sự phát triển toàn diện của xã hội và con người.
Nội dung lập kế hoạch đề tài
Lập kế hoạch đề tài là quá trình phát hiện và hồn chỉnh ý tưởng xuất
bản những XBP của một NXB, trong một thời gian cụ thể. Nó là cơng việc
của nhiều người trong đó lực lượng cơ bản và chủ lực là độ ngũ cán bộ biên
tập. Được xây dựng dựa vào tơn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của

NXB; định hướng chương trình và kế hoạch hành động của NXB; tình hình
thực tế của NXB và nhu cầu của thị trường. Gồm 3 nội dung:
 Nội dung và hình thức của XBP sẽ xuất bản
Nội dung bao gồm tồn bộ thơng tin chứa đựng trong XBP: chủ đề, tư
tưởng, kết cấu của XBP.
Hình thức thiết kế XBP tương lai. Lập ra các thông số và thiết kế như:
khổ sách, tên sách, trang in, kiểu chữ, kiểu đóng bìa cỡ chữ, giá bán, kênh
phát hành, thời gian ra sách.
 Dự đoán thị trường
Là nội dung mang tính chất phân tích, luận giải của bản kế hoạch. Bao
gồm các yếu tố:
Dự đốn về tình hình, nhu cầu của độc giả, tốt nhất là đưa ra một bản
thống kê số lượng cụ thể về quy mô độc giả, tình hình độc giả, độc gải thực tế
và độc giả tiềm năng.
Tình hình XBP cùng loại. Trong đó, phải phân tích và so sánh các XBP
cùng loại về thời gian xuất bản, số lượng đã in nội dung cơ bản của XBP, đặc
điểm chủ yếu của XBP và khả năng tiêu thụ của chúng trên thị trường.
Phân tích tính đặc sắc của kế hoạch đề tài, bao gồm nội dung của đề tài,
so sánh nó với các loại sách cùng loại đã xuất bản, nói rõ nó có giá trị gì mới
và ưu thế của đề tài sẽ được xuất bản. Qua việc phân tích các yếu tố trên,

9


BTV đánh giá tổng hợp về triển vọng của đề tài, ước lượng lỗ lãi, đưa ra ý
kiến dự đoán về khả năng cạnh tranh trên thị trường của đề tài.
 Lên phương án thực hiện kế hoạch đề tài
BTV phải lựa chọn tác giả phù hợp với đề tài, có trình độ chun mơn,
đã có những kết quả nghiên cứu, sáng tác được xã hội thừa nhận. Cần lưu ý
đến đặc điểm, phong cách của tác giả đó xem có phù hợp với đề tài khơng và

cần chú trọng đến các tác giả mới
BTV cần đưa ra được bản tiến độ thời gian thực hiện đề tài như: thời
gian giao nộp bản thảo thời gian in, thời gian ra sách. Đồng thời, nêu ra yêu
cầu tuyên truyền cho các giai đoạn khác nhau phương thức tuyên truyền chủ
định phải sử dụng, các phương tiện liên lạc cần áp dụng.
BTV là người hiểu rõ nhất nội dung của XBP và đối tượng mà XBP đó
hướng tới. Do đó, BTV có thể đề ra được chiến lược kinh doanh từ đặc điểm,
vị trí của đề tài, nêu kiến nghị về chiến lược tiếp thị, giá bán xúc tiến bán
hàng.
2.3 Các bước lập kế hoạch đề tài
 Thông báo xây dựng kế hoạch đề tài.
Lãnh đạo NXB gửi thông báo bằng văn bản, nội dung thông báo bao
gồm: những định hướng lớn, căn cứ để xây dựng kế hoạch, thời gia hoàn
thành. Trong nội dung thông báo cần định hướng, gợi ý các phòng ban biên
tập, các BTV nên tập trung vào loại đề tài gì, có trọng tâm trọng điểm.
 Các phòng ban biên tập và các đơn vị tham gia làm sách sẽ xây dựng
kế hoạch cụ thể
Để xây dựng KHĐT các phòng ban phải căn cứ vào chức năng, nhiệm
vụ của đơn vị mình; căn cứ vào cơng văn của ban lãnh đạo gửi trong thông
báo; căn cứ vào thực tế đề tài bản thảo, cộng tác viên; căn cứ vào nguồn nhân
lực của ban biên tập: số lượng, chất lượng, định mức trong biên tập bản thảo.

10


Từng BTV sẽ đề xuất ra các đề tài tùy theo khả năng, mối quan hệ của
BTV. Các phòng ban tham mưu, tổng hợp lại theo mẫu, nhận xét và góp ý
điều chỉnh cho đề tài đó.



Trình duyệt lên Hội đồng biên tập xuất bản và lãnh đạo biên tập để

xét duyệt và hoàn chỉnh.
Hội đồng biên tập và lãnh đạo biên tập sẽ kiểm duyệt các đề tài và xem
xét nó có phù hợp với chức năng, nhiệm vụ với phịng ban đó khơng hoặc có
tính khả thi khơng.
 Nhà xuất bản trình lên các cơ quan có thẩm quyền, trong đó cơ quan
cao nhất là cơ quan chủ quản – Bộ Thông tin và Truyền thông, cụ thể là Cục
Xuất bản để xác nhận đăng ký đăng ký của nhà xuất bản.
Có thời hạn đến ngày cuối cùng của năm đó (tính theo dường lịch).
Trong vịng 10 ngày Cục Xuất bản sẽ trả lời lại bằng công văn, văn bản xác
nhận đăng ký đó.
Đối với BTV, khi xây dựng KHĐT cần phải đưa ra được những luận
chứng của KHĐT như sau:
• Luận chứng về giá trị của đề tài ở chỗ đề tài có giá trị tư tưởng, học
thuật, giá trị nghệ thuật hay giá trị tư liệu. Để khẳng định được giá trị của đề
tài. BTV cần phải khẳng định, phân tích những đặc điểm: trong những sản
phẩm (sách) đã xuất bản đã có đề tài nào tương tự hay chưa, nếu đã có thì đề
tài mới đưa ra có gì đặc biệt mới hơn so với những đề tài đã xuất bản; giá trị
văn hóa – xã hội của đề tài này là gì? Hiệu quả về tư tưởng – văn hóa của đề
tài này ra sao?
• Luận chứng về tính khả thi của đề tài: BTV phân tích và xem xét về
lực lượng biên tập trình độ, khả năng của tác giả, điều kiện in ấn, điều kiện về
vốn và phát hành có đáp ứng được yêu cầu của đề tài hay không và đáp ứng
được đến đâu những khả năng rủi ro có thể gặp trong quá trình thực hiện đề
tài.
11


Tóm lại, biên tập viên cần nắm bắt tình hình thời sự của ngành xem

trong hệ thống các NXB họ đang tập trung vào đề tài nào? Đề tài nào là thế
mạnh của các NXB; hay tìm hiểu đề tài ngay trong các nhà sách, nơi tập trung
nhu cầu của độc giả, đồng thời luôn luôn quan sát trong cuộc sống sinh hoạt
đời thường để từ đó phát hiện ra những đề tài mới, hay và có tính khả thi.

III. Sách văn học
1. Khái niệm sách văn học
Sách văn học là cơng trình nghệ thuật bằng ngơn ngữ do một cá nhân
hoặc tập thể sáng tạo, nhằm thể hiện những khái quát bằng hình tượng về
cuộc sống, con người, biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước
thực tại.
2. Đặc điểm của sách văn học
Nội dung của sách văn học là nội dung của các tác phẩm văn học, cịn
hình thức sách chỉ là phương tiện để truyền tải các tác phẩm đó. Giá trị của
văn học đã được vật chất hóa thơng qua các trang sách. Nhờ các trang sách
mà những giá trị văn học đã được lưu giữ lại, lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, từ dân tộc này tới dân tộc khác; từ truyền miệng văn học đã được
chình thức hóa, được phổ biến rộng rãi và chính xác. Bởi thế, nói đến vai trị
của sách văn học khơng thể khơng nói đến vai trị của văn học trong đời sống
tinh thần của xã hội.
Mỗi thời đại có những quan niệm về chuẩn mực của cái đẹp mỗi khác.
Tuy nhiên, vai trò và tác dụng của văn học nghệ thuật đối với đời sống luôn là
giá trị vĩnh cửu, cho dù nó cũng có những bước thăng trầm đã từng được ghi
nhận vào lịch sử.
Nằm trong một hệ thống đồ sộ của các loại hình sách như: sách giáo
khoa, sách khoa học – kỹ thuật, sách lý luận – chính trị… nhưng sách văn học
vẫn luôn là loại sách được nhiều người hoan nghênh và đón đọc nhiệt tình
nhất. Khẳng định được vị thế của mình như vậy bởi sách văn học có những
12



đặc điểm rất riêng mà chỉ trong phạm vi nghệ thuật mới cho phép,đó là những
đặc điểm về:
- Đối tượng phản ánh.
- Đội ngũ tác giả và bạn đọc.
- Sự sáng tạo trong cách thể hiện tác phẩm.
- Giá trị nhận thức đem đến cho độc giả.
Trong đó, vai trị của sự sáng tạo được đáng giá cao nhất bởi: “Văn
chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiều mẫu
đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm
tịi, khơi dậy những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam
Cao: “Đời thừa”. Tuyển tập Nam Cao (tập 2) NXB Văn học – 1997, trang 8).
Sự sáng tạo tác phẩm văn học
Nói đến văn học là nói đến sáng tạo. Văn học tồn tại được trong lòng
người đọc là do những sáng tạo mà nó tạo ra. Một tác phẩm tồn tại với thời
gian chính là minh chứng thể hiện khả năng sáng tạo của tác giả. Nhiều áng
văn hay trong lịch sử dân tộc vẫn được bạn đọc hơm nay tiếp nhận và u
thích là một minh chứng cho điều đó.
Văn học có quy luật sáng tạo riêng của nó trên cơ sở quy luật của cái
đẹp. Xúc cảm nghệ thuật là nguồn cội cho sự sáng tạo của văn học nói riêng
và nghệ thuật nói chung. Sự sáng tạo đó ln được các nhà văn ni dưỡng,
hun đúc bằng chính những cảm xúc riêng từ chính bản thân các nhà văn.
Tác phẩm văn học ln ghi đậm dấu ấn chủ quan của sự sáng tạo tác
giả. Do lượng công tác viên ở mọi vùng miền đất nước nên có sự đa dạng về
phong cách sáng tạo. Cá tính và phong cách sáng tạo gắn liền với từng cộng
tác viên để mang đến nhiều tác phẩm hay cho độc giả.
2.2 Hình thức của tác phẩm văn học
Tác phẩm văn học có thể chia làm hai loại:
Tác phẩm văn học thể hiện bằng văn xuôi gồm các thể loại: Tiểu
thuyết, truyện ngắn (là những thể loại gắn liền với hư cấu và trí tưởng tượng

13


của tác giả), ký (bao gồm trong nó cả một sự đa dạng: hồi ký, bút ký, phóng
sự, tản văn), lý luận phê bình, kịch bản văn học.
Tác phẩm văn học thể hiện bằng văn vần gồm: Những tác phẩm thơ ca
truyền thống của dân tộc và những tác phẩm thể hiện bằng thơ tự do, thơ
không vần.
Như vậy về hình thức tác phẩm văn học của sách văn học đã xuất bản
tất cả các thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, ký… Số lượng sách văn học
được phát hành rộng rãi. Đã có nhiều đầu sách để lại ấn tượng độc giả trong
những năm qua, có thể kể đến là: Thanh cung mười ba triều, Thiên thần nổi
giận, Nửa đàn ông là đàn bà, Bách khoa thư cho giới trẻ…
2.3 Tiếp nhận tác phẩm văn học
Việc tiếp nhận tác phẩm văn học phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý, sở
thích, trình độ văn chương của từng người. Đối tượng tiếp nhận của sách của
các NXB rất phong phú và đa dạng.
2.4 Ngôn ngữ tác phẩm văn học
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học gắn liền với sự phát triển, sự thống
nhất và với cả những nét đa dạng,hết sức phong phú của lịch sử dân tộc. Ngôn
ngữ là phương tiện duy nhất được nhà văn dùng để miêu tả, khắc họa tính
cách nhân vật. Do đó, ngơn ngữ văn học có thể nói là một thức ngơn ngữ
giàu cá tính nhất.
Ngơn ngữ trong sách văn học vừa xuất phát từ một tiếng nói chung của
dân tộc nhưng lại mang nhiều sự sáng tạo của cá nhân của tác giả cộng tác tác
cùng NXB. Sự phát triển của văn học trong mỗi cuốn sách xuất bản góp phần
làm phong phú chung cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
3. Chức năng của sách văn học
3.1 Chức năng nhận thức và dự báo.
Với tư cách là một hình thái nhận thức, văn học có khả năng mở rộng

sự hiểu biết của con người. Mỗi tác phẩm văn học lớn từ xưa tới nay đều có
14


giá trị như một thành tựu trên chăng đường nhận thức chung của nhân loại.
Văn học đưa ta tới những chân trời hiểu biết mới, giúp ta hiểu hơn cuộc sống
không chỉ trong hiện tại mà cả trong quá khứ, khơng chỉ trong đất nước mình
mà ở cả những xứ sở xa xôi.
Mỗi tác phẩm văn học đều hướng vào việc miêu tả con người Việt Nam
với đầy đủ những phẩm chất cao quý được hun đúc từ lịch sử lâu dài của dân
tộc. Qua đó góp phần xây dựng con người mà Đảng ta đề ra.
Khám phá và thể hiện đời sống tâm lý của con người cùng những mối
quan hệ xã hội đa dạng của nó, sách văn học giúp cho người đọc liên tưởng tới
cuộc sống của chính bản thân mình. Nhiều tác phẩm đi vào đời sống, tinh thần
người đọc như những tấm gương soi, giúp người đọc phát hiện ra chính bản thân
mình. Sự nhận thức thế giới biến thành quá trình tự ý thức của người đọc.
Phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn, sinh động, văn học vẫn có khả
năng vươn tới tầm cao của sự khái quát, nắm bắt sự vận động bên trong của
đời sống hiện thực. Chính từ độ chín của sự khám phá, khái quát ấy, văn học
có khả năng dự báo tương lai.
3.2. Chức năng thẩm mỹ và giải trí
Văn học đem lại cho con người niềm vui trong sáng trước cái đẹp của
sự sống. Phạm vi quan tâm của văn học là tồn bộ những khía cạnh thẩm mỹ
khác nhau của đời sống con người, giúp con người nhạy cảm hơn, tinh tế hơn
trong hành động và cảm thụ thế giới.
Giải trí là nhu cầu tự nhiên của con người trước nghệ thuật. Trong sự
cảm thụ tác phẩm, cùng với sự tiếp nhận nội dung tư tưởng tác phẩm, người
đọc cịn tìm được khối cảm trong nếm trải những tình huống tâm lý, những
trạng thái cảm xúc vốn có trong cuộc sống con người. Chức năng giải trí của
văn học khơng bộc lộ như nhau ở mỗi tác phẩm. Giải trí trong ý nghĩa lành

mạnh nhất có tác dụng phát triển trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của tầng lớp
nhân dân lao động.

15


3.3. Chức năng giáo dục và giao tiếp
Mỗi cuốn sách văn học có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nhân
cách, giáo dục và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm con người. Bất kỳ tác phẩm
văn học nào cũng tác động tới người đọc theo một xu hướng đạo đức, chính
trị nào đó. Ý nghĩa giáo dục của văn học là đặc tính tất yếu, khách quan, độc
lập với ý muốn của nhà văn cũng như người đọc.
Khẳng định chức năng giáo dục, ý nghĩa cảm hóa con người, cải tạo xã
hội cũng có nghĩa là gián tiếp đã khẳng định chức năng giao tiếp của văn học.
Chức năng này nảy sinh trên cơ sở đặc tính là thơng báo và thơng tin. Ở một khía
cạnh nhất định, sáng tác và thưởng thức văn học đều nhằm thỏa mãn nhu cầu
được giao tiếp. Trong sáng tác, một phần tác giả cũng đứng về phía người đọc
mà viết. Vì vậy trong ngơn ngữ của tác giả đã có ngơn ngữ của người đọc.
Các mảng sách văn học ở các NXB có tác dụng thiết thực trong việc
nâng cao đời sống tinh thần của người lao động, khắc họa hình tượng nhân
dân lao động trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ có những đề tài đúng và hay đi đến triển khai thành
cơng những đề tài đó. Nội dung các tác phẩm văn học đã giới thiệu được con
người trong chiến đấu, xây dựng, học tập và lao động một cách sâu sắc, có
nhiều khía cạnh và đề cập đến nhiều vấn đề của con người mới. Nội dung
sách lành mạnh, trung thực và thích hợp với yêu cầu giáo dục về tư tưởng và
tình cảm cách mạng…

IV. Biên tập viên
1. Khái niệm biên tập viên

Biên tập viên là người hoạt động (công tác) trong các nhà xuất bản,
chuyên làm việc với tác phẩm, tham gia quá trình sửa chữa, gia cơng, làm cho
tác phẩm trở nên hồn thiện hơn, có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội về giá trị
tinh thần là sách. Biên tập viên đảm nhận khâu xây dựng chiếc cầu nối tác giả
16


và độc giả, đưa đứa con tinh thần của họ và tác giả tới tay của người đọc, làm
giàu cho vốn kiến thức và văn hóa của con người.
Trách nhiệm của đội ngũ biên tập vô cùng quan trọng, quyết định toàn
bộ sự thịnh suy của hệ thống ngành xuất bản. Nếu khơng có những biên tập
viên thì khơng thể có những xuất bản phẩm chất lượng tung ra thị trường,
mang tri thức văn hoá đến với nhân dân.
2. Yêu cầu của biên tập viên trong xây dựng kế hoạch đề tài sách
văn học
Trong một KHĐT cũng có thể có những cuốn sách mang giá trị đích
thực nhưng sẽ khó tiêu thụ, có những cuốn sách vừa có giá trị vừa tiêu thụ dễ
dàng, song cũng có những cuốn sách thường thường bậc trung nhưng lại bán
rất chạy. Để đạt được hiệu quả về cả mặt kinh tế và tinh thần thì BTV phải
chủ động, tích cực, sáng tạo khi xây dựng KHĐT. Sự chủ động, tích cực, sáng
tạo đó thể hiện ở những đặc điểm sau:
Thứ nhất, BTV sách văn học cần nắm vững chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể, để đề xuất ra
những bản thảo phù hợp với từng nhiệm vụ chính trị cụ thể và nhu cầu của
bạn đọc.
Thứ hai, BTV sách văn học cần phải tìm hiểu nhu cầu, đặc điểm và thị
hiếu của các lớp đối tượng phục vụ của NXB, của các mảng sách thơng qua
tìm hiểu thực tế điều tra, nghiên cứu thị trường và ý kiến phản hội của bạn
đọc về những XBP đã xuất bản. Để đề ra kế hoạch xuất bản những cuốn sách
phù hợp với nhu cầu và đối tượng bạn đọc.

Thứ ba, BTV cần nắm vững được tất cả những thông tin thời sự văn
học, đặc biệt là các cuộc vận động sáng tác văn học, các cuộc thi viết…do các
cơ quan, đài, báo tổ chức để có được nhiều đề tài hay. Ví dụ Truyện ngắn hay
trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, những cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn
Việt Nam…

17


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ HOẠCH
ĐỀ TÀI MẢNG SÁCH VĂN HỌC TẠI NHÀ XUẤT
BẢN LAO ĐỘNG
I.

Vài nét về Nhà xuất bản Lao động và mảng sách
văn học.

1. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu của Nhà xuất bản Lao động
1.1 Chức năng, nhiệm vụ của Nhà xuất bản Lao động
NXB Lao động là cơ quan Xuất bản của Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam, được thành lập ngày 01/11/1945 theo Nghị quyết của hội công nhân cứu
quốc Việt Nam. Với chức năng, nhiệm vụ là:
Tổ chức bản thảo, biên tập và phát hành sách về đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước và chủ trương công tác của Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam; sách phổ biến, giáo dục kiến thức tồn diện cho cơng nhân,
lao động; sách giáo dục truyền thống cho công nhân, lao động và tồn xã hội.
Sách về cơng trình nghiên cứu, tham khảo, tổng kết kinh nghiệm
nghiệp cụ cơng tác cơng đồn; sách về lịch sử, phong trào, thi đua, điển hình
tiên tiến của cơng đồn tồn quốc và cơng đồn địa phương cũng như cơng
đồn ngành, cơng đồn cơ sở.

Sách bối dưỡng kiến thức quản ký kinh tế, giáo dục khoa học và công
nghệ, bồi sỡng tay nghề, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động; bảo vệ môi
trườngm ngăn ngừa và chống các tệ nạn xã hội, hướng dẫn thực hiện các luật
và giới thiệu văn bản dưới luật.
Sách giáo trình và tài liệu phục vụ học tập, giảng dạy trong hệ thống
trường Cơng đồn, các lớp thuộc hệ thống học tập của cơng nhân, viên chức
và lao động nói chung.
Sách văn học, nghệ thuật, văn hoá (gồm cả sách dịch) phục vụ cơng
nhân, viên chức lao động và tồn xã hội.
18


Lịch và văn hoá phẩm các loại.
1.2 Cơ cấu hoạt động của Nhà xuất bản Lao động

Ở NXB Lao động, giám đốc chịu trách nhiệm quyết định và chỉ đạo
xây dựng và thực hiện KHĐT, đọc duyệt hoặc xử lý lần cuối cùng bản thảo,
đứng tên chịu trách nhiệm xuất bản các ấn phẩm, chủ tài khoản và kiểm tra
mọi hoạt động tài chính – kế tốn, quan hệ đối ngoại, ký hợp đồng XBP hoặc
có thể ủy quyền cho phó Giám đốc, chăm lo đời sống mọi mặt của cơ quan,
điều chỉnh mọi hoạt động theo kế hoạch, chương trình đã định.
Phó Giám đốc – Tổng biên tập, là người giúp việc cho giám đốc đọc
chi tiết bản thảo, nêu ý kiến cụ thể (nếu có thể sửa), đề nghị giám đốc tiếp tục
xử lý bản thảo, đứng tên phụ trách bản thảo trong các ấn phẩm, ký in trên bản
can, ký duyệt bìa, thực hiện mọi cơng việc thuộc lĩnh vực biên tập.
Đối với các ban biên tập, trưởng ban hoặc phó ban chỉ đạo, điều hành
tồn bộ hoạt động biên tập thuộc ban mình theo chức năng, nhiệm vụ, chế độ,

19



quy định, quy chế đã được quy định, thực hiện đầy đủ và đúng chức năng của
trưởng, phó ban dưới sự chỉ đạo của giám đốc.
2. Các giai đoạn phát triển của Nhà xuất bản Lao động
Giai đoạn 1: Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp kể từ khi NXB
ra đời cho đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Trong giai đoạn này, đề tài còn hạn
hẹp, nội dung chưa phong phú. NXB Lao động đã cùng với hệ thống thơng tin
đại chúng của Cơng đồn và cả nước góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát
triển Cơng đồn, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Giai đoạn 2: Giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng
miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn mà phạm vi đề tài được đề cập
khá rộng lớn. Nội dung sách phong phú và có chất lượng hơn. Các XBP đã
góp phần cổ vũ động viên cơng đồn và tồn dân tộc đóng góp sức người sức
của thực hiện nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Đây cũng là giai đoạn NXB đã tạo dựng đội ngũ
nhà văn công nhân để tạo nên nền văn học công nhân.
Giai đoạn 3: Giai đoạn từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Đây là giai đoạn có tính bước ngoặt của NXB. Đất nước ta đang trong
giai đoạn đổi mới. Vì vậy với mảng đề tài khá rộng, NXB Lao động tập trung
góp phần tuyên truyền, khắc phục những hạn chế của mơ hình kinh tế cũ,
khẳng định đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Số lượng
đầu sách tương đối cao, cơ cấu đa dạng. Đồng thời chất lượng sách cũng được
nâng cao với nhiều đầu sách hay được bạn đọc hoan nghênh.
3. Tình hình phát triển của Nhà xuất bản Lao động
NXB Lao động là cơ quan sự nghiệp có thu, tự cân đối về tài chính.
NXB thực hiện khốn định mức gắn với khen thưởng đối với biên tập. Mặc
dù chịu nhiều sức ép của thời cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế với những
đòi hỏi thúc bách của việc tự hoạch toán kinh doanh, tự bảo đảm 100% kinh
phí hoạt động, đầu vào, đầu ra, doanh thu, doanh số, lời lãi, nhưng đội ngũ
cán bộ công nhân viên NXB với sự chủ động, năng động trong tư duy và linh

20


hoạt trong vận dụng cơ chế, đã kế thừa và phát huy được những thành tựu của
lớp cha anh để lại qua việc nâng cao chất lượng xuất bản phẩm, qua việc mở
rộng liên doanh, liên kết xuất bản.
Số lượng đầu sách hàng năm tăng lên đáng kể và số lượng sách giữa
các ban dần được cân bằng. Tổng số đầu sách đã xuất bản là. Tính đến năm
2010, NXB Lao động đã in trên 7.000 đầu sách với trên 4 triệu bản và gần 7
tỷ trang in gồm các thể loại. Những tác phẩm văn học hay, từ năm 1945 đến
nay đã được đông đảo bạn đọc trân trọng đón nhận như: Hầm Sơn La, Bất
khuất, Hạt máu, Thung lũng Cơ Tan, Những chặng đường nóng bỏng, Người
con gái xóm thợ, Đầm hoang, Mưa mùa hạ, Mảnh đời của Huệ, Sự mất ngủ
của lửa, Lưu Quang Vũ – Di cảo, thơ và nhật ký,…
NXB luôn chú chú ý đến cơng tác cán bộ. Cơng tác này đã góp phần
quyết định đối với hoạt động của NXB qua mỗi thời kỳ. Đội ngũ cán bộ luôn
đáp ứng được 2 yêu cầu: Số lượng cán bộ đủ để thực hiện tốt các khâu làm
sách và chất lượng cán bộ ngày càng được nâng cao thông qua các lớp đào tạo
cán bộ, nhân viên hoặc tạo điều kiện để cán bộ, nhân viên tham gia trau dồi,
nâng cao kiến thức chuyên môn và kiến thức xã hội.
4. Phương hướng hoạt động của nhà xuất bản Lao động
NXB phải có định hướng tạo ra được nhiều tác phẩm có giá trị cao, đề
cao những ấn phẩm đề cập tới những vấn đề bức xúc nảy sinh trong điều kiện
mới tác động đến đời sống nhân dân. Yêu cầu của bạn đọc cần những tác
phẩm “đỉnh cao” phản ánh đúng tầm vóc của dân tộc qua những biến đổi
thăng trầm của tiến trình cách mạng.
NXB Lao động là cơ quan văn hóa của cơng đồn Việt Nam – một tổ
chức chính trị của giai cấp cơng nhân và người lao động. Vì vậy, NXB thơng
qua hoạt động của mình, phải góp phần khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong

sự nghiệp đổi mới và phát triển hiện nay.
21


Các ấn phẩm của NXB phải phản ánh các phong trào thực tiễn, góp
phần tổng kết các kinh nghiệm thực tiễn. Đối tượng phản ánh và phục vụ chủ
yếu của NXB Lao động là nhân dân lao động. Do đó, thực tiến hoạt động của
họ ngày càng có ý nghĩa hết sức to lớn đối với chức năng, nhiệm vụ của NXB .
NXB Lao Động đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam trao tặng nhiều phần thưởng cao quý cho tập thể và cá nhân như: Huân
chương Độc lập hạng Ba; Huân chương Lao động hạng Nhất; Bằng khen của Thủ
tướng Chính phủ, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Tuyên giáo của Ban Tuyên giáo
Trung ương… Các tác phẩm văn học của Nhà Xuất bản Lao Động đoạt nhiều giải
thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam; Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật; Hội
nhà văn Hà Nội; Giải thưởng Nhà văn Á - Phi, Giải thưởng Văn học ba nước
Đông Dương…
Qua hơn 65 năm hình thành và phát triển, NXB Lao Động đã và đang
là một trong những trung tâm xuất bản lớn của văn học cả nước, góp phần
hình thành đội ngũ những cây bút chủ lực trên văn đàn, và thực sự hình thành
hạt nhân của Chi hội Nhà văn công nhân.
Phương hướng cơ bản của NXB là tiếp tục phát huy ưu điểm đã giành
được trong chặng đường hơn nữa thế kỷ qua, đồng thời kiên quyết khắc phục
khuyết điểm, tiếp tục tiến lên hịa cùng hệ thống Cơng đồn và tồn xã hội,
phấn đấu cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm mục
dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
5. Tình hình xuất bản sách văn học của Nhà xuất bản Lao động
Văn học đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống con
người. Văn học từ ngàn đời đã không đơn giản là thỏa mãn nhu cầu giải trí.
Văn học nâng cao con người trong q trình chiếm lĩnh, đồng hóa hiện thực

khách quan. Mỗi tác phẩm đều ít nhiều làm phong phú hơn sự hiểu biết của
con người.

22


Nền văn học của nước ta luôn biến đổi các từng thời kỳ. Văn học thời
kỳ đổi mới tồn tại và phát triển trong tình hình xã hội nhiều biến đổi. Đời
sống văn học trong những năm qua rất đa dạng, phức tạp và có những bước đi
khơng ít những quanh co thăng trầm. Khuynh hướng tư tưởng, cảm hứng sáng
tác, phương thức nghệ thuật ln thay đổi.
Văn học có sự đa dạng về đề tài, phong phú về thể loại, nhiều tìm tịi về
thủ pháp nghệ thuật và phong cách cũng như khuynh hướng thẩm mỹ. Sự phong
phú, đa dạng cũng đi liền với tính phức tạp và khơng ổn định. Nhiều cuốn sách
văn học xuất bản chỉ rộ ra trong thời gian ngắn rồi tắt lịm. Thị hiếu của bạn đọc
không thuần khiết mà cũng luôn biến động. Các thể loại cũng thăng trầm, mai
một bất thường. Sự phức tạp và không ổn định này là do sự chi phối của cơ chế
thị trường. Văn học tất yếu trở thành một sản phẩm hàng hóa trong nền kinh tế
thị trường. Điều đó vừa có tác động thúc đẩy phát triến sách văn học, vừa có tác
động tiêu cực khó tránh khỏi với sáng tác và xuất bản.
NXB Lao động cũng đứng trước những khó khăn, thử thách chung của
nền văn học hiện nay. Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu hiểu biết của con người và
biến mỗi cuốn sách văn học thực sự trở thành món ăn tinh thần không thể
thiếu “cuốn sách giáo khoa của đời sống”, NXB đã có những định hướng và
tư tưởng tốt cùng với sự nỗ lực không ngừng và sự cố gắng, bền bỉ trong hơn
65 năm qua, NXB Lao Động đã và đang là một trong những trung tâm xuất
bản lớn của văn học cả nước, góp phần hình thành đội ngũ những cây bút chủ
lực trên văn đàn, và thực sự hình thành hạt nhân của Chi hội Nhà văn cơng
nhân. Điều đó có thể thấy rõ qua các tác phẩm được xuất bản, được nhận các
giải thưởng trong và ngoài nước. Đặt biệt, Nhà văn Ma Văn Kháng, nguyên

Tổng Biên tập Nhà Xuất bản Lao Động sau các giải thưởng Hội Nhà văn VN,
đã vinh dự nhận giải thưởng Văn học ASEAN.
Dân tộc ta có truyền thơng lịch sử hào hùng trải qua hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước vĩ đại. Quan bao thăng trầm của lịch sử trong hai cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã có biết bao tác phẩm văn học ra đời mang
23


đậm tinh thần yêu nước và nhân văn sâu sắc. Các tác phẩm ấy đã chuyển đến
cho bạn đọc bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta, nhân dân ta. Như vậy,
văn học khơng chỉ có giá trị phản ánh sâu sắc và toàn diện về con người trong
cuộc kháng chiến mà ngày nay bước vào thời kỳ xây dựng chế độ mới, nền
văn học phục vụ trực tiếp nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân lao
động. Và đó cũng là mục đích, nhiệm vụ của mảng sách văn học mà các NXB
đang hướng tới.
Thị trường sách văn học hiện nay rất đa dạng, có nhiều NXB lựa chọn
mảng sách này để xuất bản như: NXB Văn học, Phụ nữ, Hội Nhà văn... Đây
cũng là thách thức địi hỏi các NXB phải ln tìm ra những đề tài mới, hay để
sách văn học ở NXB Lao động khẳng định chất lượng và vị thế của mình trên
thị trường xuất bản phẩm.
Số lượng và chất lượng sách ngày càng được nâng cao theo từng năm.
STT

Năm

Số lượng đầu sách

1
1999
85

2
2002
92
3
2003
81
4
2004
122
( Nguồn thống kê từ NXB Lao động)
Hiện nay, tỷ lệ sách văn học xuất bản tương đương với các loại sách
khác. Số lượng sách được phát hành rộng rãi để tiếp cận với hầu hết các đối
tượng bạn đọc.
Nhiều tác phẩm đã có sức sống trong thời kỳ kháng chiến mang ý nghĩa
giáo dục về tư tưởng, tình cảm cách mạng và nâng cao đời sống tinh thần,
khắc họa hình tượng nhân dân lao động trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa to lớn đó, mảng sách
văn học của NXB phần nào đáp ứng được yêu cầu của độc giả.
Ngoài sách văn học trong nước, NXB Lao động còn xuất bản thêm mảng
văn học nước ngoài chủ yếu là văn học dịch. Đặc biệt sách văn học từ các nước
Trung Quốc, Anh, Mỹ…. có thể kể đến một số tác phẩm như: Truyện dã sử tiểu
24


Phị mõ cướp pháp trường, Người tình nhỏ của Trương Phi (Dịch giả Võ Toán),
Tập truyện ngắn Truyện ba người (Dịch giả Lý Khắc Cung)…
Việt Nam tham gia công ước Berne (tháng 10/2004) sẽ có cơ hội tiếp
xúc với tri thức văn minh nhân loại. Việc dịch, xuất bản các tác phẩm văn học
có nhiều thuận lợi. Chúng ta sẽ có nhiều bản dịch hay và nhiều tác phẩm có
giá trị. Tuy nhiên, cũng có khơng ít những bất cập có tác động khơng nhỏ đối

với tình hình xuất bản sách nói chung và sách văn học dịch nói riêng. Một
thực tế là hiện nay ở nước ta chưa có cơ sở đào tạo bài bản về chuyên ngành
này nên dịch văn học chủ yếu chỉ mang tính tự phát, các nhà văn, nhà thơ vì
u văn học và có trình độ ngoại ngữ nên tham gia dịch thuật. Vì dịch văn học
theo sở thích hoặc đam mê mà chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu hoặc dịch
giả giỏi ngoại ngữ và tiếng Việt nhưng khả năng chuyển ngữ chưa tốt nên đã
cho ra đời những dịch phẩm mà báo chí có lần phải gọi là bản dịch “thảm
họa”. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, thu nhập bình
qn đầu người cịn thấp. Khi chúng ta tham gia công ước phải trả tiền bản
quyền cho tác giả, cho các NXB nước ngoài, việc xin bản quyền khó khăn.
Như vậy, có thể giá sách khơng cịn rẻ. Điều này hạn chế đến sức mua của
người dân nhất là người nghèo và giới sinh viên khó tiếp cận sách. Vì sách
dịch tạm thời phải “đóng băng”. Sự thiếu hụt mảng sách văn học là nỗi băn
khoăn cho giới làm sách.
Tuy nhiên, trong tình trạng chung đó, NXB Lao động luôn cố gắng phát
triển song song văn học dịch và văn học trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu
đọc của độc giả, đưa tác giả đến gần hơn với nền văn học của thế giới.
Để có nhiều tác phẩm hay, có giá trị thu hút được độc giả thì người biên
tập có vai trị rất lớn. Mỗi BTV trong ban biên tập ln có trách nhiệm với
chính bản thảo của mình, khẳng định được phẩm chất của người biên tập:
nhanh nhạy, năng động trong việc xây dựng các KHĐT và hiện thực những kế
hoạch đó thành những cuốn sách hay, độc đáo, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc.

25


×