BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THÀNH SANG
THI HÀNH HÌNH PHẠT TIỀN VÀ TỊCH THU TÀI SẢN
TRONG BẢN ÁN HÌNH SỰ
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THÀNH SANG
THI HÀNH HÌNH PHẠT TIỀN VÀ TỊCH THU TÀI SẢN
TRONG BẢN ÁN HÌNH SỰ
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Hình sự - Mã số 60.38.40
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình khoa học do bản thân tôi nghiên
cứu trên cơ sở được sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng, luận
văn này chưa từng được công bố trên bất kỳ tạp chí nào. Trong luận văn
có sử dụng các tài liệu, số liệu thống kê hoàn toàn đảm bảo là sự thật.
Tác giải luận văn
Nguyễn Thành Sang
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................... Trang 1
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................... Trang 5
Chương 1. Lý luận chung về thi hành hình phạt tiền và tịch
thu tài sản trong bản án hình sự ............................................................ Trang 5
1.1 Khái niệm, mục đích ý nghĩa của thi hành hình phạt tiền
và tịch thu tài sản .................................................................................. Trang 5
1.2 Những quy định của luật pháp về thi hành hình phạt tiền
và tịch thu tài sản từ 1945 đến nay .................................................... Trang 14
1.3 Những yếu tố chi phối thi hành hình phạt tiền và tịch thu
tài sản .................................................................................................. Trang 22
Chương 2. Thực trạng thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài
sản trong bản án hình sự và giải pháp tăng cường hiệu quả công tác
thi hành án phạt tiền và tịch thu tài sản .............................................. Trang 34
2.1. Quy trình thực hiện thi hành án phạt tiền và tịch thu tài sản
trong thực tế ........................................................................................ Trang 34
2.2. Khái quát tình hình về cơ quan thi hành án dân sự ............. Trang 48
2.3.Tình hình thực hiện thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài
sản trong bản án hình sự từ năm 2007 đến nay ................................. Trang 51
2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tiền và tịch
thu tài sản trong bản án hình sự ......................................................... Trang 73
KẾT LUẬN ................................................................................... Trang 88
DANH MỤC PHỤC LỤC
PHỤ LỤC 1: Kết quả Thi hành về việc 6 tháng đầu năm 2012
PHỤ LỤC 2: Kết quả Thi hành về giá trị 6 tháng đầu năm 2012
PHỤ LỤC 3: Số liệu thống kê án những bản án tuyên phạt tiền và tịch thu
tài sản có quyết định thi hành án đến trước ngày 01/7/2009 trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh hiện nay (2012) vẫn khơng có điều kiện thi hành dẫn đến thi hành án còn tồn
đọng.
PHỤ LỤC 4: Biểu thống kê phân tích lý do các trường hợp không thể thi
hành án các khoản là phạt tiền và tịch thu sung cơng quỹ nhà nước tính đến thời
điểm trước ngày 01/7/2009 ( ngày Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành).
PHỤ LỤC 5: Thống kê kho vật chứng.
PHỤ LỤC 6: Tình hình thi hành án trong các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh (Từ 2004 đến tháng 6/2012).
PHỤ LỤC 7: Kết quả Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ( Từ
01/10/2011 đến 31/7/2012).
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành bản án của Tịa án nói chung và thi hành hình phạt tiền và tịch
thu tài sản trong bản án hình sự nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
hoạt động áp dụng pháp luật-một hoạt động cụ thể trong thực hiện pháp luật,
đây là khâu cuối cùng của hoạt động áp dụng pháp luật. Nếu không thực hiện
hiệu quả, nghiêm túc bản án đã được Tòa án phán quyết, thì tất cả các hoạt
động tố tụng trước đó trở nên vô hiệu trên thực tế, làm giảm sút lòng tin của
quần chúng nhân dân đối với Tòa án, đối với chính quyền, là một tác nhân gây
mất sự phát triển ổn định trật tự xã hội, mục tiêu của Bộ Chính trị xác định
trong Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02 tháng 6 năm 2005 về cải cách tư
pháp đến năm 2020 khó có thể thực hiện trọn vẹn.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà Đảng, Nhà nước thực hiện cơ chế kinh
tế mới- cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một điều không
thể tránh khỏi là mâu thuẩn gay gắt, ganh đua quyết liệt trên thương trường sẽ
dẫn đến khơng ít người lấy mục đích lợi nhuận, tiền bạc làm mục đích cao
nhất, duy nhất trong cuộc đời mà bất chấp đạo lý, pháp lý. Họ sẵn sàng phạm
tội để có tiền bạc, sẵn sàng đánh đổi hàng chục năm tù để trốn tránh thực hiện
hình phạt tiền và tịch thu tài sản trên thực tế. Chính vì vậy, việc tổ chức thực
thi hình phạt tiền, tịch thu tài sản trong bản án hình sực có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, là vấn đề nhạy cảm, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ
máy Nhà nước. Chính vì vậy, trong những năm gần đây cơng tác thi hành án
dân sự nói chung và cơng tác thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong
bản án hình sự nói riêng ngày càng được Đảng, Nhà nước chú trọng, quan
tâm. Từ việc xây dựng Luật Thi hành án dân sự đến việc tăng cường phát triển
đội ngũ cán bộ thi hành án về số lượng cũng như về chất lượng nhằm nâng cao
2
hiệu quả trong công tác tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tịa án đã
có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản
án hình sự cịn tồn tại những bất cập cần được tiếp tục nghiên cứu để khắc
phục. từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác
thi hành án dân sự nói chung và cơng tác thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài
sản trong bản án hình sự nói riêng. Bởi vậy, tác giả mạnh dạn lựa chọn “Thi
hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản án hình sự” làm đề tài cho
luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề có liên quan về thi hành án dân sự đã có nhiều bài viết được đăng
trên các tạp chí như Dân chủ và pháp luật, nhưng thi hành hình phạt tiền và
tịch thu tài sản trong bản án hình sự chưa được bàn luận nhiều. Một số bài viết
được đăng tải trên tạp chí như:
- Trần Quốc Toản, “Về hình phạt tiền trong luật một số nước”, Tạp chí
nhà nướ và pháp luật số 07/2002,
- TS. Trương Quang Vinh, “Hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm
1999”, Tạp chí Luật học số 4/2002,
- Nguyễn Hồng Lâm, “Một số vấn đề lý luận về hình phạt tiền”, Tạp chí
Tồ án số 16/2009,
- Lê Thị Kim Dung, “Vướng mắc xử lý tài sản tịch thu sung công quỹ
nhà
nước
trong
thi
hành
án
dân
sự”,
,
- Tạp chí nghề luật, “Tồ án hay cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra
quyết định thi hành quyết định phạt tiền trong bản án hình sự”, Học viện Tư
pháp 1/2007,
- Cơng trình nghiên cứu có liên quan: luận văn thạc sĩ Phan Thành Bút “Giải quyết vấn đề dân sự trong tố tụng hình sự”.
3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thi hành hình phạt tiền và
tịch thu tài sản trong bản án hình sự, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu lý luận pháp lý và các quy định của pháp luật liên quan đến
thi hành án nói chung và thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản
án hình sự nói riêng.
- Tình hình thực hiện thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản
án hình sự, đề xuất giải pháp phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi
nâng cao hiệu quả hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực tế thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản án hình sự.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến
thi hành phạt tiền, tịch thu tài sản trong bản án hình sự.
- Tình hình thi hành hình phạt tiền và thi hành biện pháp tịch thu tài sản
trong bản án hình sự sơ thẩm do Tồ án nhân dân xét xử từ năm 2007 đến
tháng 9/2011, trong đó trọng tâm là địa bàn tỉnh Tây Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm
của Đảng, Nhà nước về Nhà nước và pháp luật tác giả áp dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
4
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp so sánh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn …
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ thêm lý luận về thi hành
án phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản án hình sự, có thể sử dụng kết quả
nghiên cứu để tham khảo trong quá trình bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật về thi
hành án phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản án hình sự.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 02
chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Lý luận chung về thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài
sản trong bản án hình sự
1.1 Khái niệm, mục đích ý nghĩa của thi hành hình phạt tiền và tịch thu
tài sản
1.2 Những quy định của luật pháp về thi hành hình phạt tiền và tịch thu
tài sản từ 1945 đến nay
1.3 Những yếu tố chi phối thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản
Chương 2. Thực trạng thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản
trong bản án hình sự và giải pháp tăng cường hiệu quả công tác thi hành
án phạt tiền và tịch thu tài sản
2.1. Quy trình thực hiện thi hành án phạt tiền và tịch thu tài sản trong thực
tế
2.2. Khái quát tình hình về cơ quan thi hành án dân sự
2.3.Tình hình thực hiện thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong
bản án hình sự từ năm 2007 đến nay
2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản
trong bản án hình sự
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT
TIỀN VÀ TỊCH THU TÀI SẢN TRONG BẢN ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, mục đích ý nghĩa của thi hành hình phạt tiền và tịch thu
tài sản
Thi hành án phạt tiền và tịch thu tài sản là một dạng cụ thể của thi hành
bản án hình sự. Thi hành án là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối
cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của tòa án nhất
định có hiệu lực pháp luật. Vì vậy bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì
phải được thi hành nghiêm chỉnh. [29]
Quan điểm khác về khái niệm thi hành án: Thi hành án là giai đoạn tiếp
theo của quá trình xét xử nhằm thi hành bản án, quyết định của Tồ án. Cơng
tác tổ chức thi hành án bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tồ án
trên thực tế và góp phần củng cố kết quả cơng tác xét xử trước đó. Khi bản án,
quyết định được đưa ra thi hành là đảm bảo hiệu lực pháp luật, hiệu lực quản
lý của Nhà nước, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, nâng cao uy tín
của Nhà nước trước nhân dân.
Theo quan điểm của giáo sư, tiến sĩ khoa học Lê Cảm thừa nhận các giai
đoạn trong tố tụng hình sự như : giai đoạn khởi tố hình sự, điều tra, truy tố, xét
xử. Riêng đối với thi hành án thì theo ông: thi hành bản án (quyết định) của
Tòa án, mặc dù trong giai đoạn hiện nay nhà làm luật Việt Nam vẫn coi là một
giai đoạn tố tụng hình sự và chính thức ghi nhận nó trong Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003, nhưng theo quan điểm ơng đó không thể và không phải là một
giai đoạn tố tụng hình sự, mà là một chuyên ngành luật độc lập (Luật thi hành
án hình sự) với các quan hệ pháp luật, đối tượng điều chỉnh khác với Luật tố
tụng hình sự”.[32]
Theo quan điểm của chúng tơi đồng tình với các quan điểm coi thi hành
án là giai đoạn tố tụng. Vì nó có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc và
các hoạt động trong giai đoạn này mang bản chất tư pháp hình sự, đồng thời
6
nó được Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận. Nhưng theo chúng tôi nhận thấy
trong định nghĩa về thi hành án của Từ điển luật học thì thi hành án nhằm làm
cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật là chưa chính xác.
Vì hiệu lực pháp luật của bản án phát sinh không phải là do thi hành án mà nó
đáp ứng những điều kiện khác do luật định (Bản án, quyết định và những phần
của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án khơng bị kháng cáo, kháng nghị thì
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị; Quyết
định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định). Do vậy, theo
chúng tôi thi hành án là giai đoạn tố tụng tiếp theo của giai đoạn xét xử nhằm
thi hành bản án, quyết định của Tồ án. Thi hành án góp phần đảm bảo tính
khả thi những phán quyết của Tịa án vào thực tế cuộc sống.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự
Việt Nam, do vậy về khái niệm hình phạt tiền cũng được nhiều tác giả nêu lên
và phân tích khá cụ thể, dù cách thức diễn giải có khác nhau nhưng tựu chung
về nội dung của hình phạt tiền được hiểu như nhau. Vì vậy có thể hiểu phạt
tiền là một hình thức hình phạt trong hệ thống hình phạt Việt Nam, trong đó
người phạm tội bị tước một khoản tiền xung vào công quỹ nhà nước. Theo
quy định tại Điều 30, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, phạt tiền được áp
dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế, trật tự cơng cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội
phạm khác do luật định. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với
người phạm các tội về tham nhũng, ma tuý hoặc những tội phạm khác do luật
định. Mức phạt tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm
trọng của tội phạm được thực hiện, có xét đến tình hình tài sản của người
phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng.
Theo qui định tại Điều 40 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, tịch thu
tài sản là hình phạt bổ sung áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm
trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, trong đó Tịa án
7
quyết định tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết
án sung quỹ nhà nước. Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án
và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
Trong hệ thống hình phạt được quy định trong Luật hình sự nước ta thì
hình phạt tiền, tịch thu tài sản và cải tạo không giam giữ là những hình phạt có
tác động trực tiếp vào điều kiện kinh tế của người bị kết án. Hình phạt cải tạo
khơng giam giữ thì ngồi việc khấu trừ thu nhập còn hạn chế quyền tự do đi
lại của người bị kết án, riêng về điểm này ở hình phạt tiền và tịch thu tài sản
khơng có. Vì vậy, giữa hình phạt tiền và tịch thu tài sản có những điểm tương
đồng nhưng đồng thời ở mỗi loại hình phạt cũng có sự khác biệt nhau. Sự
giống và khác nhau giữa hình phạt tiền và tịch thu tài sản thể hiện như sau:
- Giống nhau: Hình phạt tiền và tịch thu tài sản là một trong những hình
phạt trong hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự. Phạt tiền
và tịch thu tài sản là tước đi những quyền lợi vật chất của người bị kết án, có
khả năng tác động một cách trực tiếp và có hiệu quả về mặt kinh tế đối với
người phạm tội và thơng qua đó tác động đến ý thức người phạm tội đã thực
hiện đối với một số loại tội phạm. Các hình phạt này do Tịa án có thẩm quyền
áp dụng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị
cáo gây ra, nhằm thể hiện tính chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội
khi thực hiện tội phạm. Cả hai loại hình phạt này (tiền và tịch thu tài sản) khi
áp dụng đều để lại hậu quả pháp lý cho người phạm tội, đó là gây án tích đối
với người phạm tội. Ngồi ra khi áp dụng hình phạt tiền và tịch thu tài sản
cũng gây nên khả năng tác động khác nhau đến ý thức của người bị kết án, qua
đó đạt được mục đích phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung của hình phạt.
- Khác nhau: Tuy hình phạt tiền và tịch thu tài sản đều là những hình
phạt được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam nhưng mỗi hình phạt có
đặc điểm và nội dung, hình thức áp dụng khác nhau.
8
Về nội dung hình phạt ta thấy cả hai loại hình phạt tiền và tịch thu tài
sản là nhằm tước bỏ một số lợi ích vật chất của người bị kết án. Tuy nhiên đối
với hình phạt tiền, thì đối tượng cụ thể hơn – chỉ là tiền Việt Nam. Cịn tịch
thu tài sản có nội hàm rộng hơn nhiều so với hình phạt tiền (tài sản bao gồm
tiền, vật, giấy tờ có giá và quyền về tài sản).
Về hình thức áp dụng thì hình phạt tiền có thể được áp dụng với hai tính
chất, có thể được áp dụng với tính cách là hình phạt chính và cũng có thể được
áp dụng là hình phạt bổ sung khi áp dụng chung với một số hình phạt chính
khác. Nhưng đối với tịch thu tài sản thì chỉ được áp dụng với tính cách là hình
phạt bổ sung. Bộ luật hình sự quy định cụ thể những trường hợp áp dụng đối
với hình phạt tiền như sau:
Hình phạt tiền với tính cách là hình phạt chính được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự quản
lý công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật
hình sự quy định. Với tính cách là hình phạt chính, phạt tiền thường được quy
định trong chế tài lựa chọn với các hình phạt chính khác như cảnh cáo, cải tạo
khơng giam giữ, tù có thời hạn. Chế tài lựa chọn mở ra khả năng pháp lý cho
việc Tịa án quyết định hình phạt chính phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hồn cảnh kinh tế của người phạm tội
cũng như khả năng thi hành án. Khi là hình phạt bổ sung, hình phạt tiền được
áp dụng đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội về tham
nhũng, ma túy hoặc các tội khác do Bộ luật hình sự quy định.
Ngồi ra, cũng có thể thấy hình phạt tiền khi là hình phạt chính chỉ áp
dụng cho các tội phạm mang tính chất ít nghiêm trọng, với tính cách là hình
phạt chính thì hình phạt tiền được tun một cách độc lập. Ngược lại hình phạt
tịch thu tài sản mặc dù là hình phạt phạt bổ sung, nhưng được pháp luật quy
định áp dụng đối với những tội phạm mang tính nghiêm trọng, tội rất nghiêm
9
trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng và phải được tun chung với các hình
phạt chính khác kể cả tù chung thân hoặc tử hình.
Dù là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung thì phạt tiền và tịch thu tài
sản phải tổ chức thi hành trên thực tế mới đảm bảo được mục đích của hình
phạt. Cho nên cơng tác thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản cũng là một
trong những khâu quan trọng để đảm bảo thực hiện tính trừng trị và giáo dục
của hình phạt đối với người phạm tội. Thi hành án phạt tiền và tịch thu tài sản
trong bản án hình sự là tất cả các hoạt động theo luật của các chủ thể có thẩm
quyền để hiện thực hóa hình phạt tiền, tịch thu tài sản mà Tòa án đã tuyên.
Trên thực tế trong một bản án hình sự Tịa án khơng phải chỉ quyết định
áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tiền, tịch thu tài sản đối với người
phạm tội (trường hợp qua xét xử xác định rõ hành vi phạm tội của bị cáo), mà
nhiều trường hợp trong bản án hình sự Tịa án quyết định áp dụng các biện
pháp tư pháp có liên quan đến tiền và tài sản: trả lại tài sản, tịch thu vật, tiền
trực tiếp có liên quan đến tội phạm, bồi thường thiệt hại. Do vậy dễ dẫn đến sự
nhầm lẫn giữa thi hành hình phạt tiền với việc thi hành các quyết định dân sự
khác (có liên quan đến tiền, trài sản) trong bản án hình sự. Cho nên cần có sự
phân biệt rõ ràng giữa việc thi hành hình phạt tiền với thi hành các quyết định
về dân sự mà Tồ án tun trong bản án hình sự.
Hình phạt tiền ngay trong tên gọi cũng thể hiện yếu tố rất quan trọng so
với các quyết định dân sự khác trong bản án hình sự đó là: một trong những
hình phạt được quy định trong hệ thống hình phạt được Bộ luật Hình sự quy
định. Mà mục đích của hình phạt là nhằm trừng trị và giáo dục người phạm tội
khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, trong một bản án hình
sự thì khi Tịa án quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo cũng khơng
nằm ngồi mục đích này. Cịn đối với các quyết định về dân sự khác trong bản
án hình sự khơng phải là hình phạt do vậy nó khơng tồn tại mục đích trừng trị
và giáo dục người phạm tội mà có tác dụng hỗ trợ giải quyết toàn diện vụ án.
10
Tổ chức thi hành hình phạt tiền là việc làm cho người bị kết án phải nộp
vào ngân sách Nhà nước khoản tiền mà Toà án đã tuyên ( là việc trừng trị về
mặt kinh tế, hạn chế các điều kiện về tài sản của người phạm tội, qua đó tác
động đến ý thức người phạm tội buộc họ phải nhận thức được lỗi lầm mà phục
thiện và không tái phạm). Song việc thi hành các quyết định về dân sự của
Tồ án trong bản án hình sự có liên quan điến tiền và tài sản như: trả lại tài
sản, bồi thường thiệt hại là việc thực hiện việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức trong vụ án được Nhà nước bảo vệ (có tác dụng
hỗ trợ hình phạt để giải quyết tồn diện vụ án).
Như vậy, xét ở góc độ lý luận, thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản là
một dạng trong thực hiện pháp luật. Thực hiện pháp luật là quá trình làm cho
pháp luật đi vào cuộc sống. Nói cách khác thực hiện pháp luật là xử sự của các
chủ thể phù hợp với yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Các hình thức thực
hiện pháp luật, bao gồm: Tuân theo pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật:
Tuân theo pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật bằng cách không
làm những việc pháp luật ngăn cấm.Thi hành pháp luật Là hình thức thực hiện
pháp luật bằng cách thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật buộc phải làm; Sử
dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật bằng cách thực hiện quyền của
chủ thể; áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật bằng cách nhà
nước (thông qua các cơ quan chức năng) tổ chức cho các chủ thể thực hiện
quyền và nghĩa vụ.
Áp dụng pháp luật được tiến hành theo các giai đoạn: Phân tích sự kiện
(vụ việc); chọn quy phạm cần áp dụng; ra văn bản áp dụng và cuối cùng là tổ
chức thực hiện văn bản.
Phân tích sự kiện (vụ việc) ở góc độ chung nhất là làm rõ diễn biến
khách quan vụ án hình sự, vụ kiện dân sự hoặc các vụ việc có tính pháp lý
khác. Trong phạm vi đề tài này đề cập đến phân tích sự kiện là phân tích sự
kiện là vụ án hình sự, tức là trên cơ sở tài liệu chứng cứ để đánh giá làm rõ nội
11
dung bản chất của vụ án hình sự và đặc tính (đặc trưng) pháp lý của nó.Việc
phân tích vụ án hình sự để tuyên phạt tiền, tịch thu tài sản trong bản án hình sự
thuộc trách nhiệm của Tịa án, của Hội đồng xét xử.
Trên cơ sở phân tích vụ án hình sự, Tịa án chọn quy phạm pháp luật cần
áp dụng, chọn hình phạt tiền, tịch thu tài sản phù hợp. Để chọn đúng quy
phạm cần thiết, chủ thể áp dụng pháp luật phải hiểu đúng nội dung, ý nghĩa,
giá trị (hiệu lực) pháp lý của quy phạm. Trên cơ sở phân tích sự kiện, lựa chọn
qui phạm pháp luật, Tòa án ra ra văn bản áp dụng pháp luật, ra quyết định phạt
tiền, tịch thu tài sản đối với người phạm tội. Bằng việc ra văn bản áp dụng
pháp luật, quyền và nghĩa vụ của chủ thể hoặc trách nhiệm pháp lý của chủ thể
được cá biệt hóa. Và cuối cùng là giai đoạn tổ chức thực hiện văn bản, đây là
giai đoạn cuối cùng chiếm phần quan trọng trong cả quá trình áp dụng pháp
luật. Nếu văn bản áp dụng pháp luật không được thực hiện hoặc việc tổ chức
thực hiện khơng tốt thì quyền và nghĩa vụ của chủ thể sẽ không được thực
hiện đầy đủ, pháp luật sẽ không thể đi vào cuộc sống.
Như vậy, thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản trong bản án hình sự là
khâu cuối cùng trong quá trình áp dụng luật hình sự trong một vụ án cụ thể.
Việc phân tích sự kiện (vụ án hình sự) khách quan chính xác đến đâu, việc lựa
chọn quy phạm pháp luật để áp dụng sát hợp như thế nào nhưng tất cả sẽ trở
nên vơ nghĩa, khơng có giá trị trên thực tế nếu việc thi hành bản án nói chung
(tổ chức thực hiện văn bản) và thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản nói
riêng khơng được thực hiện.
Một bản án hình sự áp dụng đối với người phạm tội, hình phạt tiền, tịch
thu tài sản đối với người phạm tội được Tịa án tun bố cơng khai trên “công
đường” để văn võ bá quan biết, để bàn dân thiên hạ biết nhưng trên thực tế
không được thực thi nghiêm chỉnh sẽ gây thiệt hại không chỉ về kinh tế, tài
sản không được sung công quỹ nhà nước mà nó cịn gây nên tâm lý tiêu cực
coi thường bản án, coi thường Tòa án mà thực chất sâu xa là coi thường pháp
luật. Nếu kẻ chiếm đoạt tài sản, xâm phạm tài sản, lợi ích hợp pháp của người
12
khác không phải trả lại tài sản, không bị trừng phạt thì cơng bằng, cơng lý
khơng được thực thi trên thực tế. Đây là những lý do trực tiếp nhất làm giảm
uy tín của Đảng và Nhà nước ta trước mắt cũng như trong tương lai.
Trong điều kiện hiện nay, khi Đảng và nhà nước ta thực hiện cơ chế kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một vấn đế có tính quy luật là
sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế này lên mọi lĩnh vực xã hội, trong đó
có thi hành án phạt tiền, tịch thu tài sản. Sự tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường tạo nên sự ganh đua, cạnh tranh gay gắt trong sản xuất kinh doanh, đặc
biệt trong tích tụ và tập trung vốn, trong tìm kiếm lợi nhuận. Chính sự tác
động tiêu cực này đã làm cho một số khơng ít người sẵn sàng đánh đổi, “hy
sinh” giá trị nhân thân để đổi lấy tài sản, sẵn sàng đi tù nhiều năm nhưng
khơng chịu thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản. Họ tìm cách tẩu tán, che
dấu tài sản để trốn tránh thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản. Chính vì vậy,
thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản có hiệu quả, nghiêm minh sẽ là liệu
pháp mạnh mẽ tác động đến ý thức người phạm tội nói riêng và cơng chúng
nói chung, là biện pháp phòng ngừa tham nhũng, phòng ngừa vi phạm pháp
luật hữu hiệu trên thực tế. Nếu thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản khơng
nghiêm minh, thì đó là liều thuốc kích thích tội phạm tham nhũng phát triển.
Hiện nay, vấn đề phòng, chống tham nhũng đang được tất cả các cấp ngành đề
cao và hết sức quan tâm, nhất là trong giai đoạn cả nước ta đang thực hiện
việc học tập, làm theo tư tưởng đạo đức và phong cách Hồ Chi Minh. Chính vì
vậy, trong hoạt động tư pháp cần tăng cường những biện pháp mạnh mẽ để
nâng cao hiệu quả trong việc phòng, chống loại tội phạm này, và khâu cuối
cùng không kém phần quan trọng là tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong cơng
tác thi hành nói chung và thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản nói riêng.
Như đã trình bày ở nội dung trên, thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản
trong bản án hình sự là làm cho những hình phạt này có hiệu lực trên thực tế,
do đó bản thân của việc thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản khơng có
mục đích riêng, khơng có mục đích tự thân. Mục đích của hình phạt tiền, tịch
13
thu tài sản là mục đích của thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản. Chính vì
vậy, thực thi hành hình phạt tiền phải đáp ứng mục đích u cầu sau:
- Hình phạt tiền, tịch thu tài sản là một dạng cụ thể trong hệ thống hình
phạt Việt Nam, do đó nó có đặc trưng chung về mục đích của hình phạt, được
qui định tại Điều 27 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, tức là hình phạt tiền,
tịch thu tài sản đều có mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo đối với người
phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới và
mang tính phịng ngừa chung, giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
- Mục đích đặc trưng của hình phạt tiền, tịch thu tài sản là thông qua sự
thiệt hại về tài sản để trừng trị và giáo dục, phòng ngừa tội phạm.
Trong cuộc sống mỗi con người có nhiều lợi ích khác nhau cần đạt tới,
cần phải được thỏa mãn. Tuy nhiên, nếu khái quát lại, mỗi người chỉ có hai
loại lợi ích, đó là lợi ích về nhân thân và lợi ích về tài sản. Lợi ích nhân thân,
là lợi ích về tinh thần, thể chất của mỗi cá nhân trong xã hội, như danh dự,
nhân phẩm, uy tín, sự bất khả xâm phạm về thân thể…lợi ích về nhân thân
khơng có đại lượng ngang giá, gắn liền với chủ thể không thể chuyển giao cho
người khác trừ trường hợp pháp luật qui định khác. Tác động vào lợi ích nhân
thân của cá nhân là hình thức tác động đến ý chí chủ thể quyền một cách mạnh
mẽ nhất, trực tiếp nhất, và chính người phạm tội phải thực hiện hình phạt này.
Chính vì vậy, nhà làm luật quy định đa số hình phạt đối với người phạm tội là
hình thức hạn chế tước bỏ quyền nhân thân.
Lợi ích về tài sản, là lợi được hưởng lợi từ chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản do tài sản mang lại. Lợi ích này là lợi ích ngoại thân của mỗi
người, có đại lượng ngang giá, có thể chuyển giao cho người khác. So với lợi
ích về nhân thân, nếu một người phạm tội bị hạn chế tước bỏ lợi ích này thì sự
tác động mang tính gián tiếp. Người khác có thể gián tiếp thay thế thi hành
hình phạt bằng cách chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người phạm tội để
14
người này trực tiếp thực hiện. Chính điều này sẽ dẫn đến tác dụng giáo dục, sự
cảm nhận về sự tác động của hình phạt tiền và tịch thu tài sản cịn tùy thuộc
vào hồn cảnh kinh tế, tình trạng tài sản của người phạm tội.
Việc thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản khác với thi hành một số
hình phạt khác được quy định trong luật Hình sự Việt Nam. Đó là khơng trực
tiếp tước bỏ hoặc hạn chế quyền về nhân thân của người bị kết án. Do đó,
trong q trình tổ chức thi hành các loại hình phạt này khơng phải lúc nào
cũng thuận lợi và mang lại hiệu quả cao nhất, hiệu quả trong cơng tác thi hành
hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong nhiều trường hợp phải chịu sự chi phối
bởi các yếu tố khác.
1.2 Những quy định của luật pháp về thi hành hình phạt tiền và tịch thu
tài sản từ 1945 đến nay
Hình phạt tiền và tịch thu tài sản là một trong các hình phạt có lịch sử
hình thành lâu đời. Ở nước ta các hình phạt này được ghi nhận ở các Bộ luật
hình sự từ thời phong kiến. Dưới các triều đại phong kiến thì người áp dụng
pháp luật là các quan lại, đồng thời cũng là người tổ chức thi hành các phán
quyết của chính mình. Trong phạm vi luận văn này tác giải sẽ không đề cập
đến các quy định trong thời kỳ phong kiến mà chỉ nêu lên những quy định của
pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay có liên quan đến thi hành hình phạt
tiền và tịch thu tài sản.
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới là thời
kỳ độc lập dân tộc mà dấu mốc là sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Khi mới thành lập chính quyền non trẻ nhà nước ta phải đối mặt với những
khó khăn chồng chất, trong bối cảnh thù trong giặc ngoài tuy nhiên vẫn chú
trọng đến việc ban hành những luật lệ đầu tiên để giữ gìn chính quyền, bảo vệ
thành quả cách mạng vừa đạt được. Một trong những sắc lệnh đầu tiên của
chính quyền cách mạng là Sắc lệnh ngày 10/10/1945 giữ tạm thời các luật lệ
hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp
duy nhất trong toàn quốc. Đến ngày 24/01/1946 Sắc lệnh số 13-SL về tổ chức
15
Tòa án và các ngạch Thẩm phán được ban hành. Trong đó quy định ban Tư
pháp xã có thẩm quyền thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp
trên. Sắc lệnh số 13-SL không chỉ rõ các mệnh lệnh của Thẩm phán nhưng có
thể hiểu đó là các mệnh lệnh liên quan đến việc giải quyết án hình, án hộ theo
thẩm quyền của Tòa án. Sắc lệnh số 13 khơng có điều luật nào khác, cũng như
khơng có văn bản nào trong thời điểm này quy định cụ thể về quyền thi hành
mệnh lệnh của Thẩm phán cho cá nhân hay tổ chức nào khác với ban Tư pháp
xã. Như vậy, có thể xem ban Tư pháp xã là tổ chức đầu tiên của chính quyền
nhân dân có thẩm quyền thi hành án.
Đến Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/4/1946 thì thẩm quyền thi hành án khơng
cịn được quy định cho ban Tư pháp xã nữa mà quy định thẩm quyền thi hành
án giao cho Thẩm phán tòa án Sơ cấp và Thẩm phán tòa án Đệ nhị cấp. Một
trong những nhiệm vụ tư pháp cảnh sát của Thẩm phán sơ cấp là thi hành các
mệnh lệnh của Biện lý và của Tòa án khác ủy thác cho. Ở Tòa án đệ nhị cấp,
nhiệm vụ tư pháp cảnh sát được giao cho ông biện lý. Một trong những nhiệm
vụ tư pháp cảnh sát là thi hành những án đã có hiệu lực.
Những quy định về thi hành án được phát triển lên một bước mới khi Sắc
lệnh số 130-SL ngày 19/7/1946 ấn định thể thức thi hành án phải ghi trên các
bản tồn sao hay trích sao bản án hoặc mệnh lệnh được ban hành. Trong điều
3 của Sắc lệnh có quy định về người chịu trách nhiệm thi hành các lệnh, mệnh
lệnh, hoặc án của các Tòa án là Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký của các xã,
thị trấn hoặc khu phố. Ở những nơi có thừa phát lại riêng thì đương sự có thể
nhờ thứa phát lại riêng thi hành án hoặc mệnh lệnh. Với Sắc lệnh 130-SL thể
thức thi hành án không những được quy định bước đầu rõ ràng, mà còn làm rõ
được cơ cấu tổ chức thi hành án trong thời kỳ này, đó là Ban tư pháp xã và
thừa phát lại ở những nơi có thừa phát lại riêng. Thừa phát lại là một chức
danh công, được tổ chức ở một số nơi ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Thừa
phát lại được nhà nước bổ nhiệm nhưng hành nghề tự do, có thẩm quyền thi
hành án hoặc các mệnh lệnh của Tòa án.
16
Đến năm 1949, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 24-BK ngày
26/4/1949 về việc thi hành án hình và hộ, xuất phát từ thực tế thi hành án hình
và hộ vẫn chưa được thống nhất, sự liên lạc giữa hai cơ quan tư pháp và hành
chính để phụ trách những công việc này không đồng bộ và thiếu sự kiểm sốt.
Thơng tư số 24-BK quy định về thủ tục thi hành án tương đối chi tiết: nguyên
tắc chấp hành, thể thức chấp hành, ai giúp việc thi hành, cách thức thi hành.
Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và pháp
luật tố tụng đã quy định việc thi hành án giao cho thẩm phán huyện phụ trách.
Trong đó Thẩm phán huyện dưới sự kiểm sốt của Biện lý có nhiệm vụ đem
chấp hành án hình, hộ mà chính Tịa án huyện hay Tịa án cấp trên đã tuyên.
Đến năm 1960 Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành đã tiếp tục
khẳng định nhiệm vụ thi hành án thuộc Tòa án và quy định cụ thể tại các Tòa
án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành
những bản án và quyết định về dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài
sản trong các bản án và quyết định về hình sự.
Đến năm 1972, các nhân viên chấp hành án làm nhiện vụ thi hành án ở
Tòa án được gọi là Chấp hành viên. Trong quyết định số 186-TC ngày
13/10/1972 của Chánh án Tòa án nhân tối cao về tổ chức, nhiệm vụ, quyền
hạn của Chấp hành viên quy định: nay đặt Chấp hành viên tại các Tòa án nhân
dân thành phố thuộc tỉnh, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc Trung ương.
Chấp hành viên có nhiện vụ tổ chức thi hành những bản án, quyết định về dân
sự, những khoản phạt tiền, xử về bồi thường hoặc trả lại tài sản trong bản án
và quyết định về hình sự. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành bản án quyết
định của Tịa án là Chấp hành viên tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú
hoặc nơi làm việc của người phải thi hành bản án hoặc nơi họ có tài sản. Chấp
hành viên tại các Tòa án nhân dân cấp huyện khơng những có nhiệm vụ thi
hành bản án, quyết định của Tịa án mình mà cịn có nhiệm vụ thi hành những
bản án, quyết định của Tòa án cấp trên, của Tòa án nhân dân địa phương khác
chuyển đến. Nếu việc thi hành bản án hoặc quyết định có tính chất khó khăn,
17
phức tạp hoặc nếu việc thi hành án tại cấp huyện khơng thuận tiện thì Chánh
án Tịa án nhân dân cấp tỉnh giao cho Chấp hành viên tại Tòa án cấp tỉnh thi
hành. Như vậy trong thời kỳ này không có cơ quan thi hành án riêng mà chỉ
đặt ra Chấp hành viên tại các Tòa án chuyên trách việc thi hành bản án quyết
định của Tịa án. Cơng tác thi hành án đặt dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa
án nhân dân cùng cấp. Chấp hành viên thuộc Tịa án cấp trên khơng có quyền
chỉ đạo Chấp hành viên cấp dưới mà chỉ giúp Chánh án nắm tình hình, theo
dõi, kiểm tra, đơn đốc cơng tác thi hành án của các Chấp hành viên tại các Tòa
án nhân dân cấp dưới và của Tư pháp xã, tổng kết, rút kinh nghiệm về công
tác thi hành án.
Đáng chú ý là trong giai đoạn này Ban tư pháp xã vẫn có trách nhiệm
trong việc thi hành án, thể hiện chủ yếu là trợ giúp nhân viên chấp hành án của
Tòa án. Thơng tư số 2-TC ngày 26/02/1964 của Tịa án nhân dân tối cao về
việc xây dựng tổ hòa giải và kiện toàn tổ chức tư pháp xã quy định nhiệm vụ
của Ủy ban hành chính cấp xã và khu phố cần xác định lại là cơng tác hịa giải
những việc ly hôn, tuyên truyền giáo dục trong nhân dân, thi hành những
mệnh lệnh của Tòa án về tống đạt giấy gọi và thi hành án. Thông tư số 442TC ngày 04/7/1968 của Tòa án nhân dân tối cao về việc đẩy mạnh công tác thi
hành án đã quy định rõ hơn chức năng của Ủy ban hành chính cấp xã trong
công tác thi hành án. Tuy nhiên trách nhiệm thi hành án của ủy viên Tư pháp
cấp xã chỉ dừng lại ở việc giáo dục, theo dõi, đôn đốc đương sự tự nguyện
chấp hành án mà khơng có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để
thi hành án. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để thi hành án
phải do Thẩm phán phụ trách cơng tác thi hành án ở Tịa án cấp huyện trực
tiếp làm. Tịa án cấp huyện có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi, hướng dẫn,
đôn đốc, kiểm tra các Ủy ban hành chính cấp xã về cơng tác thi hành án.
Như vậy, trong suốt thời kỳ từ khi thành lập nhà nước Việt Nam đến giai
đoạn năm 1972 việc tổ chức thi hành bản án của Tịa án nói chung và thi hành
các bản án, quyết định về hình sự của Tịa án nói riêng, được giao cho các tổ
18
chức khác nhau tùy theo bối cảnh lịch sử trong từng giai đoạn nhất định (Ban
tư pháp, Tòa án, ủy ban nhân dân cấp xã). Tuy nhiên vẫn chưa có quy định cụ
thể nào về việc tổ chức thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong các bản
án về hình sự của Tịa án. Nhưng qua các quy định chung như trên cũng có thể
ngầm hiểu cơ quan nào có thẩm quyền tổ chức thi hành bản án, quyết định của
Tịa án cũng là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành hình phạt tiền và tịch
thu tài sản trong các bản án về hình sự của Tịa án.
Đến khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời thi việc tổ chức thi
hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản trong bản án, quyết định về hình sự của
Tịa án đã được quy định trong Bộ luật. Theo quy định trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ khi bản án hoặc quyết định của Tồ án có hiệu lực pháp luật,
Chánh án Tồ án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc uỷ thác
cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án, như vậy thẩm quyền ra
quyết định thi hành án về phạt tiền vẫn thuộc cơ quan Tòa án cụ thể là Chánh
án sẽ ra quyết định thi hành và giao cho chấp hành viên của Tịa án tổ chức thi
hành. Q trình tổ chức thi hành án thì Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên của Toà án thi hành án phạt
tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại. Nếu cần phải áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án thì cơ quan công an và các cơ quan Nhà nước hữu quan
khác có nhiệm vụ phối hợp. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã có quy định
một số điều luật liên quan đến việc thi hành án, tuy nhiên cũng chỉ dùng lại ở
việc xác định cơ quan có thẩm quyền thi hành án, các tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm phối hợp tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tịa án mà chưa
có văn bản nào quy định một cách hệ thống về trình tự, thủ tục thi hành án.
Sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành, thì Pháp lệnh
Thi hành án dân sự được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 28/8/1989 có
hiệu lực ngày 01/01/1990, đây là văn bản rất quan trọng về thi hành án trong
thời kỳ này. Lần đầu tiên những quy định về thi hành án được pháp điển hóa,
những quy định này về thi hành án đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
19
pháp luật trong việc thi hành án, góp phần đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết
định của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể
và của cá nhân, đồng thời góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đến năm 1992 những ý tưởng về việc phải ban hành một Pháp lệnh Thi hành
án dân sự mới thay cho Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 được hình
thành. Bởi lẽ, trong điểm 5, Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ
nhất (năm 1992) quy định về một số điểm về thi hành Luật tổ chức Tòa án
nhân dân đã nêu: Việc bàn giao công tác thi hành án từ Tòa án nhân dân các
cấp sang cho các cơ quan của Chính phủ phải được làm xong chậm nhất vào
tháng 3 năm 1993. Do vậy, qua sau hai năm được áp dụng vào thực tế Pháp
lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 được thay thế bằng Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 1993.
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 ra đời đánh dấu một sự thay đổi
lớn trong công tác thi hành án nói chung và cơng tác thi hành hình phạt tiền và
tịch thu tài sản nói riêng. Vì kể từ đây cơng tác thi hành án khơng cịn thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân dân như trước nữa, mà đã được chuyển giao
cho cơ quan chuyên môn khác thực hiện. Đó là cơ quan thi hành án dân sự sẽ
được thành lập và hoạt động từ ngày 01/7/1993. Về trình tự, thủ tục thi hành
án ở cấp huyện sẽ do Đội thi hành án đảm nhận, ở cấp tỉnh sẽ do Phòng thi
hành án chịu trách nhiện tổ chức thi hành. Kể từ giai đoạn này thẩm quyền thi
hành án thuộc về cơ quan Nhà nước khác thực hiện độc lập với Tịa án, sẽ
khơng cịn tình trạng Tịa án vừa thực hiện chức năng xét xử vừa tổ chức thi
hành bản án.
Trên thực tế thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 vẫn cịn có hiệu lực và
chưa được sửa đổi, bổ sung nên những quy định về thi hành án trong Bộ luật
và theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 chưa được thống nhất, dẫn
đến khó khăn trong q trình áp dụng pháp luật. Để các văn bản luật được
thống nhất Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ
sung vào các năm 1990, 1992, 2000. Đến khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm
20
1988 được sửa đổi, bổ sung năm 2000 thì quy định về cơ quan có thẩm quyền
thi hành án đã được thống nhất với Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993,
cụ thể tại khoản 5 Điều 227 quy định:
“Cơ quan thi hành dân sự thi hành án phạt tiền, tịch thu tài sản. Chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành
viên trong việc thi hành án. Nếu cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án thì cơ quan Cơng an và cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm phối
hợp”. Theo các quy định này thì Bộ luật Tố tụng hình sự đã nêu rõ cơ quan có
thẩm quyền thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản là Cơ quan thi hành án.
Cơ quan thi hành án được tổ chức và hoạt đông theo những quy định cụ thể tại
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, như vậy trình tự, thủ tục về thi hành
án phạt tiền và tịch thu tài sản trong các bản án quyết định hình sự của Tịa án
được thực hiện theo những quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1993. Toàn bộ những vấn đề về thi hành án như thủ tục thi hành án, hoãn thi
hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án … về cơ bản khơng có
nhiều thay đổi như đã được quy định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1989. Tuy nhiên, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 ra đời trong bối
cảnh nước ta đang chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy
có những vấn đề mới phát sinh liên quan đến quá trình thi hành án dẫn đến
phát sinh nhiều tình huống vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án mà
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 chưa dự liệu, chưa điều chỉnh được.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế đặt ra các cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước lại tiếp tục xúc tiến những công việc cần thiết để ban hành một Pháp
lệnh Thi hành án mới thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, chuẩn
bị cho một giai đoạn phát triển mới của những quy định về thi hành án dân sự.
Cùng với việc nghiên cứu sửa đổi những quy định về thi hành án dân sự,
thì những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 mặc dù được được
sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng vẫn chưa điều chỉnh hết những vần đề xã hội