Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Vai trò của gia đình trong hoạt động phòng ngừa tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
------------

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

VAI TRỊ CỦA GIA ĐÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG
PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT K29

Niên khóa
: 2004 – 2008
Người hướng dẫn : Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
Giảng viên, thạc sĩ luật học
Tp.HCM tháng 7/2008

1


Lời cảm ơn!
Tác giả kính gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Cơ Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh, người đã tận tình giúp
đõ, hướng dẫn em thực hiện đề tài này.
Đồng kính gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô giáo
trường đại học luật Tp.HCM trong 4 năm qua đã tận tâm
giảng dạy và truyền đạt cho em những kiến thức q báu để
em có thể hồn thành khóa học.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến gia
đình và bạn bè, những người đã quan tâm, giúp đỡ tạo mọi
điều kiện để tác giả hoàn thành khóa luận này.



2


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG KHĨA LUẬN
Phịng ngừa tội phạm

: PNTP

Tình hình tội phạm

: THTP

Cơng An thành phố

: CATP

Viện Kiểm Sát Nhân Dân: VKSND
Tòa Án Nhân Dân

: TAND

Nguyên nhân và điều kiện : NN&ĐK
Phòng chống tội phạm

: PCTP

3



MỤC LỤC


Lời nói đầ u

Chương 1: Khái quát chung về hoạ t độ ng PNTP.
1.1

Đị nh nghĩ a PNTP. ...................................................................................... 1

1.2

Chủ thể PNTP. ............................................................................................ 3

1.3

Biệ n pháp PNTP. ............................................................................................. 8

1.4

1.3.1

Theo cấ p độ phòng ngừ a. ................................................................ 9

1.3.2

Theo nộ i dung các biệ n pháp. .............................................................. 9

1.3.3


Dự a vào chủ thể phịng ngừ a. ........................................................ 12

Tình hình PNTP trong thời gian qua tạ i tp.HCM và mộ t số đị a
phương trong nước. .................................................................................. 13
1.4.1

Tình hình PNTP trong thờ i gian qua tạ i tp.HCM và mộ t số đị a
phư ơ ng trong nư ớ c. ..................................................................... 13

1.4.2

Mộ t số kế t quả thự c tiễ n đạ t đư ợ c trong công tác PNTP. .... 17

Chương 2: Vai trị củ a gia đình trong hoạ t độ ng PNTP.
2.1

Khái niệ m về gia đình .................................................................................. 25
2.1.1 Đ ị nh nghĩ a gia đình ............................................................................ 25
2.1.2 Các chứ c nă ng cơ bả n củ a gia đình .................................................. 26

2.2

Gia đình – chủ thể PNTP.
2.2.1 Hoạ t độ ng PNTP củ a gia đình trong từ ng giai đoạ n củ a hành vi
phạ m tộ i. .............................................................................................. 28
2.2.1.1 Vai trị PNTP củ a gia đình ở q trình hình thành khuynh hư ớ ng
chố ng đố i xã hộ i củ a cá nhân............................................................ 28

4



2.2.1.2 Vai trị PNTP củ a gia đình ở q trình hình thành quyế t đị nh
phạ m tộ i (khâu kế hoạ ch hóa việ c thự c hiệ n tộ i phạ m). ............. 33
2.2.1.3 Vai trò PNTP củ a gia đình ở khâu thự c hiệ n hành vi phạ m tộ i. ..... 36
2.2.2

Gia đình thự c hiệ n vai trị PNTP thơng qua thự c hiệ n các chứ c
nă ng xã hộ i củ a mình. .......................................................................... 39
2.2.2.1 Gia đình thự c hiệ n vai trị PNTP thơng qua việ c thự c hiệ n chứ c
nă ng kinh tế tổ chứ c đờ i số ng. ................................................... 39
2.2.2.2 Gia đình thự c hiệ n vai trị PNTP thơng qua việ c thự c hiệ n chứ c
nă ng giáo dụ c. .................................................................................. 45
2.2.2.3 Gia đình thự c hiệ n vai trị PNTP thơng qua việ c thự c hiệ n chứ c
nă ng thỏ a mãn nhu cầ u tâm sinh lý, tình cả m. .................................. 51

2.2.3 Gia đình thự c hiệ n vai trị PNTP thơng qua sự phố i hợ p vớ i hoạ t
độ ng củ a các chủ thể PNTP khác ............................................................ 55
2.3

Thực trạ ng và giả i pháp tă ng cường vai trị củ a gia đình trong hoạ t
độ ng PNTP.
2.3.1 Thự c trạ ng việ c thự c hiệ n vai trị củ a gia đình trong hoạ t độ ng
PNTP trong thờ i gian qua. ...................................................................... 59
2.3.1.1 Nhữ ng kế t quả đạ t đư ợ c. .......................................................... 59
2.3.1.2 Nhữ ng điể m còn hạ n chế .. ............................................................ 61
2.3.2 Các giả i pháp tă ng cư ờ ng vai trị củ a gia đình trong hoạ t độ ng
PNTP. .................................................................................................. 65
2.3.2.1 Giả i pháp tiế p tụ c hoàn thiệ n hệ thố ng chính sách, pháp luậ t.......... 66
2.3.2.2 Các giả i pháp xã hộ i. ........................................................................... 70
2.3.2.3 Các giả i pháp hư ớ ng đế n gia đình và cá nhân ngư ờ i phạ m tộ i........ 72

2.3.2.4 Các giả i pháp hư ớ ng đế n nạ n nhân và gia đình nạ n nhân. ................ 75

5


2.3.2.5 Mộ t số biệ n pháp phòng ngừ a các tộ i phạ m cụ thể và tệ nạ n xã
hộ i. ................................................................................................... 77

Kế t luậ n

Lời nói đầu
1.
Tính cấp thiết của đề tài.
Phòng ngừa tội phạm là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn. Phịng ngừa tội phạm là cơng việc cần được thực hiện thường xuyên, liên
tục với sự tham gia của tồn xã hội.
Trong thời gian gần đây, tình hình tội phạm nói chung có chiều hướng gia
tăng cả về “lượng”(số lượng vụ phạm tội, người phạm tội) và “chất”(tính chất mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội). Vì vậy vấn đề xem xét lại cơng tác đấu tranh
phòng chống tội phạm cần được đặt ra để xem xét, đánh giá lại hiệu quả, qua đó tìm
giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác này. Trong đó đặc biệt chú trọng hoạt động
PNTP: “chủ động phòng ngừa và đấu tranh”, …chủ động tham gia phòng ngừa và
chống tội phạm”…[2]
Gia đình – thiết chế cơ bản của xã hội, là môi trường gần gũi nhất, dễ tác
động đến cá nhân người phạm tội, có thể coi là có khả năng PNTP đạt hiệu quả cao,
tuy nhiên, trong thời gian qua, vai trò của chủ thể này trong hoạt động PNTP chưa
được chú trọng đúng mức, dẫn đến tình trạng chưa phát huy được hiệu quả PNTP từ
gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh
phúc là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng xã hội văn minh.


6


Để đạt được hiệu quả trong cơng tác PNTP thì việc cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng là nhận thức đúng đắn và nâng cao vai trò – trách nhiệm, nghĩa vụ - của
gia đình trong hoạt động PNTP.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đây là đề tài có tính mới, tính cấp thiết và thực tiễn cao. Tính đến nay, có lẽ
chưa có cơng trình nghiên cứu chính thức nào đề cập đến “vai trị của gia đình trong
hoạt động PNTP”. Theo hiểu biết của tác giả thì chỉ mới có một số sách, cơng trình
nghiên cứu về các chủ thể PNTP một cách chung hoặc về hoạt động PNTP của các
chủ thể cụ thể như Tòa Án, Viện Kiểm Sát, các cơ quan tư pháp…hoặc đề cập đến
gia đình với nhân tố là nguyên nhân phát sinh tội phạm hoặc phân tích về chức năng
giáo dục của gia đình trong PNTP.
Như vậy, có thể nói “vai trị của gia đình trong hoạt động PNTP” là đề tài
chính thức đề cập đến gia đình với vai trị quan trọng trong hoạt động PNTP.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Để tìm hiếu vai trị của gia đình trong hoạt động PNTP, luận văn đi vào phân
tích sự tác động của gia đình đến hành vi phạm tội, chức năng của gia đình và sự
phối hợp của gia đình trong hoạt động với các chủ thể PNTP khác để chứng minh
rằng: gia đình có vai trị quan trọng trong hoạt động PNTP và gia đình hồn tồn có
thể thực hiện được vai trị của mình thơng qua những hoạt động cụ thể và thiết thực.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của CN Mác–
Lênin, Tư tưởng HCM, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ đấu
tranh phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay. Đồng thời, luận văn còn sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: thống kê, phân tích, so sánh,
chứng minh, tổng hợp, quy nạp…nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, thực tiễn của
đề tài.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.

Dưới hình thức là cơng trình nghiên cứu khoa học, luận văn muốn đóng góp
một số nhận thức về hoạt động PNTP nói chung và hoạt động PNTP của gia đình
nói riêng.

7


Về mặt thực tiễn, luận văn cung cấp một số số liệu về hoạt động PNTP của
gia đình đồng thời tổng hợp một số giải pháp và đề xuất một số kiến nghị để nâng
cao vai trị của gia đình trong hoạt động PNTP.
6. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có cơ cấu gồm:
Lời nói đầu
Chương 1: Khái quát chung về PNTP.
Chương 2: Vai trị của gia đình trong hoạt động PNTP.
Kết luận

Chương 1: Khái quát chung về PNTP.

1.1

Định nghĩa PNTP.
Phòng ngừa tội phạm là một vấn đề lý luận và thực tiễn phức tạp và quan

trọng, là hoạt động nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: khoa học
tội phạm học, khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học pháp
luật thi hành án, khoa học tâm lý học, khoa học xã hội học…
Phòng ngừa tội phạm được coi là biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm
hiệu quả nhất ở các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội. Để đạt được mục đích
ngăn chặn và loại trừ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, Nhà nước cần coi

trọng cơng tác PNTP, tăng cường hơn nữa vai trị và tính hiệu quả của cơng tác
PNTP trong cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Về mặt thực tiễn, hầu hết chúng ta đều hiểu rằng: PNTP là ngăn ngừa, là đề
phịng, phịng trước khơng để cho tội phạm xảy ra…Nhưng dưới góc độ khoa học,
PNTP là khái niệm vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau và chưa có được định
nghĩa thống nhất.

8


Theo từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ phòng ngừa được định nghĩa là “phịng
trước khơng để cho cái xấu, cái khơng hay nào đó xảy ra” [25]. Theo đó, có thể
hiểu PNTP là phịng trước, ngăn ngừa trước khơng để cho tội phạm xảy ra.
Từ điển luật học định nghĩa PNTP là “ngăn ngừa tội phạm và loại trừ các
nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với nhau
do các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội tiến hành” [18 – tr373]. Hay PNTP
“là hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của tồn thể cộng đồng và
cơng dân nhằm nhanh chóng và sớm phát hiện, ngăn chặn, khắc phục nguyên nhân
và điều kiện của tình trạng phạm tội, làm giảm tội phạm” [19].
Như vậy đã xuất hiện những khác biệt (tuy không lớn) giữa các cách định
nghĩa nhưng đều hướng đến cách hiểu chung: PNTP là phòng trước không để tội
phạm xảy ra tiến đến loại trừ tội phạm ra khỏi xã hội thông qua loại trừ nguyên
nhân và điều kiện phạm tội.
Dưới góc độ khoa học tội phạm học thì khái niệm PNTP được hiểu theo hai
nghĩa khác nhau:
-

Theo nghĩa thứ nhất: PNTP bao hàm toàn bộ những hoạt động nhằm khắc

phục, loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm các biện pháp phát hiện ngăn

chặn, xử lý các tội phạm đã và đang xảy ra. Theo nghĩa này, PNTP bao hàm cả hoạt
động phòng ngừa và chống tội phạm.
-

Theo nghĩa thứ hai: PNTP là ngăn ngừa tội phạm xảy ra, bảo vệ xã hội,

nhà nước và công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. Theo nghĩa này, PNTP chỉ
thuần túy là hoạt động phịng ngừa khơng bao hàm hoạt động chống tội phạm.
Giáo trình tội phạm học định nghĩa: “PNTP là việc áp dụng một cách tổng
thể các biện pháp kinh tế chính trị, tư tưởng, pháp luật…do các cơ quan, các tổ chức
và các công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vơ hiệu
hóa các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra, làm
giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hồn tồn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã
hội [23 – tr203].

9


Như vậy, mặc dù được đề cập đến trong nhiều nguồn khác nhau, được hiểu
theo nhiều cách khác nhau, nhưng có thể nêu ra một khái niệm về PNTP được nhiều
người chấp nhận và được xem là quan điểm chính thống hiện nay: PNTP là hệ
thống các biện pháp Nhà nước và xã hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm làm giảm bớt hoặc tiến đến loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống
xã hội.
Với khái niệm này, công tác PNTP gắn liền với việc phát hiện, khắc phục,
loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm được tiến hành bởi các chủ thể
PNTP, bằng các biện pháp nhà nước và xã hội. PNTP được hiểu là PN khơng cho
tội phạm phát sinh, phịng ngừa không để tội phạm xảy ra hậu quả nặng nề, phòng
ngừa tái phạm…phòng ngừa riêng với mỗi cá nhân và phịng ngừa chung cho tồn
xã hội.


1.2

Chủ thể PNTP.
Chủ thể của bất kỳ hoạt động nào đó là người đại diện quyền lợi và trách

nhiệm của hoạt động đó, đang thực hiện những nhiệm vụ nhất định để đạt đến mục
đích cuối cùng và có thẩm quyền tham gia trong hoạt động này [25].
Chủ thể của hoạt động PNTP là hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá
nhân…thực hiện những nhiệm vụ nhất định trong khuôn khổ chức năng, thẩm
quyền của mình để nhằm khắc phục, loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Với bản chất là hoạt động xã hội, PNTP đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân công dân trong phạm vi chức năng hoạt
động của mình, các chủ thể này thực hiện PNTP một cách chủ động. Phòng ngừa
THTP cần được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội – sự tham gia
của toàn xã hội.
Trước đây, một số quan niệm cho rằng PNTP là nhiệm vụ của cơ quan nhà
nước như Viện Kiểm Sát, Tịa Án, cơ quan Cơng An…quan điểm này là khơng
chính xác khi THTP nói chung và tội phạm cụ thể nói riêng là hiện tượng xã hội

10


phức tạp, có nguồn gốc xã hội lâu đời. Thế nên hoạt động đấu tranh PCTP là một
quá trình lâu dài, địi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các cơ quan, tổ chức, công
dân trong xã hội…“Cuộc đấu tranh PCTP không chỉ được xem là chức năng của
các cơ quan Tịa Án, Kiểm sát, An Ninh, Cơng An…cuộc đấu tranh này cần có sự
tham gia tích cực của các tập thể lao động, các tổ chức xã hội, tất cả mọi công
dân” . [25].
Cần nhận thức rằng, hành vi phạm tội không chỉ nhằm vào một đối tượng cụ

thể, một mối quan hệ cụ thể mà nó xâm hại tới tất cả mọi khách thể được nhà nước
bảo vệ, xâm hại tới mọi lĩnh vực của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, gây
thiệt hại cho mọi thành viên trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, THTP đã gây ra
những tác hại lớn về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, tác động xấu đến
tiến trình phát triển xã hội và cơng cuộc đổi mới đất nước. Do đó, PNTP phải được
coi là trách nhiệm của tồn xã hội chứ khơng phải là nhiệm vụ riêng của một tổ
chức, cá nhân nào. Để PNTP đạt hiệu quả cao, các chủ thể cần có sự phối hợp chặt
chẽ thành một hệ thống đưa ra những biện pháp tác động vào NN&ĐK của tội
phạm cũng như việc phát hiện, xử lý tội phạm thông qua biện pháp cưỡng chế nhà
nước với sự tham gia, ủng hộ của quần chúng nhân dân. Báo cáo chính trị của BCH
TW khóa VII tại ĐHĐB tồn quốc lần VIII của Đảng nhấn mạnh phải “phát huy
sức mạnh tổng hợp của tồn dân, của cả hệ thống chính trị…ngăn chặn và trừng trị
có hiệu quả mọi loại tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội”.
Pháp luật nước ta cũng quy định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân, các đơn vị lực lượng vũ
trang nhân dân. Đặc biệt, tại nghị quyết số 9/1998 NQ-CP ngày 31/7/1998 của
Chính phủ về tăng cường cơng tác phịng chống tội phạm trong tình hình mới đã
chủ trương: Xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn hệ
thống chính trị, đẩy mạnh phong trào cách mạng của toàn dân, nâng cao trách
nhiệm, vai trị chủ động của các ngành, đồn thể, tổ chức xã hội và các tầng lớp
nhân dân tham gia phòng ngừa phát hiện đấu tranh ngăn chặn các tội phạm, tệ nạn
xã hội, đẩy mạnh phong trào cách mạng tồn dân, nâng cao trách nhiệm vai trị chủ

11


động của các ngành đoàn thể, tổ chức xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia
phòng ngừa phát hiện đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm, tệ nạn xã hội…
Trong khoa học tội phạm học, các chủ thể PNTP bao gồm những nhóm sau:
-


Đảng Cộng Sản Việt Nam (chủ thể lãnh đạo cao nhất). Điều 4 Hiến Pháp

1992 đã khẳng định: “Đảng Cộng Sản Việt Nam đội quân tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động của các dân tộc, theo Chủ Nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Với trọng trách đó, ĐCSVN ln
coi trọng cơng tác PNTP trong hoạt động của mình. Trong cương lĩnh hành động
cũng như trong các nghị quyết đại hội đảng lần thứ IV, V, VI, VII, VII, IX đều
khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng trong hoạt động đấu tranh phòng ngừa, chống
tội phạm, giữ vững trật tự trị an xã hội thông qua các hoạt động cụ thể như: tổ chức
các hoạt động PNTP một cách hệ thống, toàn diện, kiểm tra hoạt động của các tổ
chức đảng trong trong việc thực hiện các nghị quyết của đảng về các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, xã hội, ĐCS Việt Nam hoạt động thông qua các Đảng viên của Đảng,
ngoài ra cũng dành các phương tiện thơng tin đại chúng, báo chí cho việc tuyên
truyền cho hoạt động PNTP.
-

Hội đồng nhân dân các cấp – chủ thể quan trọng của hoạt động PNTP.
Với tính chất là cơ quan đại diện quyền lực địa phương, các HĐND trong

nhiệm kỳ hoạt động của mình tham gia vào hoạt động PNTP dưới các hình thức
như: thực hiện theo chương trình PNTP chung của nhà nước, kịp thời ra nghị quyết,
khuyến nghị tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội thực hiện vai trò
PNTP, thành lập các tiểu ban chuyên trách về PNTP….
-

Các cơ quan quản lý hành chính, kinh tế nhà nước. Nhóm chủ thể này có vai

trị quan trọng trong PNTP nói chung và nhất là phịng ngừa các loại tội phạm

thường nảy sinh trong chính nhóm chủ thể này. Ví dụ: phòng ngừa các tội phạm
xâm phạm tài sản XHCN, PNTP có tính chất tham nhũng, PNTP xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…

12


-

Các cơ quan Cơng An, Viện Kiểm Sát, Tịa Án: Với tư cách là những cơ

quan trực tiếp điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo, giáo dục người phạm tội, nhóm chủ
thể này có tác động trực tiếp nhất đến người phạm tội, đóng vai trị chủ chốt, hàng
đầu trong PNTP thông qua các hoạt động như: tổ chức hoạt động phòng ngừa và kế
hoạch phòng ngừa tội phạm tại khu vực mình phụ trách, quản lý chặt chẽ các đối
tượng có tiền án tiền sự, phối hợp với các chủ thể khác xây dựng chương trình
PNTP…
-

Các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Tư Pháp – chủ thể chủ yếu của hoạt động

PNTP (các viện nghiên cứu, các tổ chức thuộc Bộ tư pháp) thông qua các hoạt động
như: đưa ra các sáng kiến pháp luật để sứa đổi, bổ sung cho phù hợp, nghiên cứu
nguyên nhân và điều kiện phạm tội để từ đó đưa ra giải pháp phòng ngừa…
-

Các tổ chức xã hội tập thể quần chúng lao động và cá nhân công dân là

những chủ thể hoạt động PNTP. Đây là nhóm chủ thể đơng đảo, có thể tham gia
hoạt động PNTP mọi lúc, mọi nơi, với mọi đối tượng phạm tội, đặc biệt trong việc

tố giác tội phạm, thực hiện các chương trình phịng ngừa tội phạm của cơ quan chức
năng…
Như vậy, từ cơ quan lãnh đạo (ĐCSVN), cơ quan quản lý nhà nước
(HĐND), cơ quan hành chính nhà nước đến các tổ chức, cá nhân…cũng có nghĩa là
tồn dân, tồn xã hội tham gia vào mặt trận PNTP, thể hiện bản chất xã hội triệt để
của hoạt động PNTP.
Xét một cách chung nhất, các chủ thể PNTP thể hiện vai trị PNTP của mình
thơng qua việc tác động đến nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để hạn chế, loại
trừ các nguyên nhân, điều kiện ấy, làm cho tội phạm khơng có cơ hội phát sinh.
Nguyên nhân của THTP nói chung là tổng hợp những hiện tượng kinh tế, xã hội,
chính trị tiêu cực tác động lẫn nhau làm phát sinh THTP. Điều kiện của THTP là
những thiếu sót cụ thể trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa…thúc đẩy q trình
phát sinh tội phạm. Các chủ thể cần nghiên cứu yếu tố nguồn gốc của sự tiêu cực
trong xã hội làm phát sinh tội phạm: do những yếu tố nào mà tội phạm đã nảy sinh,
những nhân tố nào là chủ yếu và có khả năng ngăn chặn chúng bằng những biện

13


pháp nào, có như vậy thì hiệu quả của cơng tác PNTP mới gắn liền với thực tiễn, có
xuất phát từ thực tiễn mới có thể bảo vệ thực tiễn.
Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể là những dấu hiệu đặc điểm
nhân thân của người phạm tội và những tình huống hồn cảnh khách quan bên
ngồi trong sự tác động qua lại của chúng dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội
cụ thể một cách vô ý hoặc cố ý. Nhân thân người phạm tội là cầu nối giữa môi
trường xã hội và tội phạm. Hệ thống các chủ thể PNTP phải đi sâu vào phân tích
các dấu hiệu xã hội, tính chất, đặc điểm tâm lý đạo đức, mối quan hệ giữa đặc điểm
xã hội và đặc điểm sinh học của người phạm tội để hiểu được đầy đủ NN&ĐK của
hành vi phạm tội từ đó có các biện pháp “thức tỉnh”, giác ngộ những suy nghĩ, hành
vi lệch chuẩn mực đạo đức bởi những phẩm chất tiêu cực hình thành trong cá nhân

là yếu tố quyết định phạm tội khi có hồn cảnh thuận lợi. Ví dụ: nảy sinh ý định
trộm cắp khi vào nhà thấy khơng có người thì sẽ thực hiện hành vi lấy tài sản. Chủ
thể phịng ngừa có vai trị cải tạo làm thay đổi các tình huống phát sinh tội phạm (là
mọi công dân đề cao ý thức cảnh giác, khóa cửa cẩn thận trước khi ra khỏi nhà…)
Xem xét hệ thống chủ thể PNTP cho thấy, mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm
vụ riêng biệt nhưng lại có quan hệ mật thiết với các cơ quan khác nên cần phối hợp
chặt chẽ để đấu tranh PNTP. Ngoài việc thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan mình, các cơ quan này cịn phải hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của
nhà nước, tổ chức và mọi cơng dân đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm. Việc
hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của nhà nước, tổ chức và mọi cơng dân đấu
tranh phịng ngừa và chống tội phạm được coi là trách nhiệm của các cơ quan Cơng
An, Kiểm Sát, Tịa Án, Thanh tra, Hải quan, quản lý thị trường, Kiểm lâm, Bộ Đội
Biên Phòng…mỗi cơ quan tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ và những yêu cầu
của việc PNTP mà có biện pháp hướng dẫn, giúp đỡ sao cho có hiệu quả: Đảng đề
ra chủ trương, đường lối, chính sách PNTP, Quốc Hội thể chế hóa bằng pháp luật,
Nghị quyết về kinh tế, chính trị, quốc phịng…và đưa áp dụng vào cuộc sống, đây là
công đoạn tiếp nối của một phương thức mang tính hệ thống đối với Chính phủ:
triển khai thực hiện những chính sách của Đảng, pháp luật của Quốc hội. Trong và

14


sau khi thực hiện, Quốc hội giám sát, kiểm tra tiến trình và kết quả đạt được;
HĐND giám sát hoạt động PNTP của UBND, TAND, VKSND cùng cấp thông qua
các nghị quyết của HĐND như xây dựng địa bàn trong sạch ở phường xã, nâng cao
đời sống cho nhân dân, triệt để xóa bỏ hành vi tiêu cực…; Các cơ quan Cơng An,
Tịa Án, Viện Kiểm Sát phối hợp chặt chẽ trong quá trình tố tụng giải quyết tội
phạm, trong việc xây dựng các chương trình PNTP trên địa bàn từng địa phương và
cả nước… ; Đối với những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức thì các cơ
quan tổ chức đó có nhiệm vụ giáo dục họ nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp

luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN, kịp thời có biện pháp loại trừ
NN&ĐK gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức mình. Mỗi cơ quan có chức năng,
nhiệm vụ riêng biệt nhưng lại có quan hệ mật thiết với các cơ quan khác nên cần
phải phối hợp chặt chẽ để đấu tranh phòng chống tội phạm. việc hướng dẫn, giúp đỡ
các cơ quan khác của của nhà nước, tổ chức và mọi cơng dân đấu tranh phịng ngừa
và chống tội phạm được coi là trách nhiệm của cơ quan Cơng An, Viện Kiểm Sát,
Tịa Án, Thanh tra, Hải quan, Quản lý thị trường, Kiểm lâm, Bộ đội biên phịng…
Trách nhiệm PNTP khơng chỉ là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các
cán bộ công chức, viên chức mà là trách nhiệm của mọi công dân. Việc tham gia
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của mọi công dân là biện pháp đem lại
hiệu quả cao. Các cơ quan, tổ chức, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật phải dựa
vào dân, phát động phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh chính trị và trật
tự an tồn xã hội…
Mơi trường ngồi xã hội đã ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách con người. Vì
vậy các chủ thể cần tăng cường cơng tác giáo dục, đạo đức, văn hóa, pháp luật…
thường là các yếu tố quan trọng đến mức quyết định toàn bộ cuộc đời của con
người, chủ thể phòng ngừa phải dựa vào thực tế để nắm bắt cơ chế tâm lý cá nhân
cũng như những hồn cảnh cơ hội có khả năng phát sinh tội phạm.Vì tính chất xã
hội đó của tội phạm mà thơng qua việc phân tích chủ thể PNTP cho ta thêm cơ sở
để khẳng định: PNTP là hoạt động của toàn xã hội.
1.3

Biện pháp PNTP.

15


Biện pháp PNTP là cách thức để thực hiện các hoạt động nhằm mục đích
PNTP, đó là những cách thức tác động vào NN&ĐK phạm tội.
Tội phạm là những hiện tượng không tự nhiên sinh ra mà là kết quả của sự

tác động qua lại giữa các quá trình, hiện tượng xã hội. Tội phạm trở thành hệ quả tất
yếu trong mối liên hệ nhân quả giữa các quá trình, các hiện tượng xã hội. Do vậy,
PNTP chỉ có thể thực hiện được khi loại trừ được nguyên nhân và điều kiện phát
sinh tội phạm. Đó chính là phương hướng cơ bản lâu dài của quá trình PNTP. Để
khắc phục NN&ĐK phạm tội dẫn đến loại trừ NN&ĐK đó để phục vụ mục đích
PNTP cần sử dụng nhiều biện pháp khác nhau cho phù hợp với yêu cầu của THTP
nói chung cũng như từng tội phạm cụ thể. PNTP được tiến hành bằng nhiều biện
pháp khác nhau. Mỗi biện pháp gắn liền với chức năng, vai trò của tổ chức nhà
nước và xã hội nhất định, có thể nêu một số vấn đề khái quát về biện pháp PNTP
như sau:
1.3.1 Theo cấp độ phịng ngừa có các biện pháp PNTP:
-

PNTP theo cấp độ xã hội chung: là biện pháp phòng ngừa được thực hiện

trên cơ sở những nỗ lực và cải thiện tồn diện các điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội, tư tưởng cũng như pháp luật. PNTP bằng biện pháp xã hội chung thực chất là
tạo những tiền đề tích cực; những tiền đề căn bản cho việc loại trừ tình trạng phạm
tội đó là việc hình thành ý thức tự giác cho cơng dân, nâng cao trình độ văn hóa,
chính trị xã hội cho cơng luận, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
-

Theo chuyên ngành tội phạm học: biện pháp phòng ngừa theo cấp độ

chuyên ngành tội phạm học được coi là biện pháp làm vơ hiệu hóa hoặc lọai bỏ
ngun nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể và của THTP nói chung. Xét trong
chuyên ngành tội phạm học, việc PNTP được thực hiện bằng nhiều biện pháp như:
biện pháp xã hội, biện pháp cưỡng chế hình sự, biện pháp hành chính…
-


Theo phạm vi lãnh thổ (phạm vi toàn quốc, khu vực, tỉnh, huyện v.v…).

Biện pháp phịng ngừa này chỉ có hiệu quả khi xác định được đầy đủ các đặc điểm
riêng của THTP tại từng khu vực địa lý nhất định. Mỗi địa phương, tùy thuộc vào
điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa mà có những đặc điểm khác nhau về nguyên

16


nhân và điều kiện phạm tội, diễn biến của từng loại cụ thể cũng như khả năng thực
tế của việc áp dụng các biện pháp phịng ngừa THTP nói chung và tội phạm cụ thể
nói riêng. Ví dụ: ở vùng nông thôn, vùng công nghiệp, vùng thành thị…với những
đặc điểm khác nhau về tự nhiên và xã hội, các biện pháp PNTP đưa ra cần thiết thực
và phù hợp với từng địa phương…
1.3.2
-

Theo nội dung các biện pháp tác động có các biện pháp PNTP:
Biện pháp kinh tế - xã hội: là biện pháp tác động bằng kinh tế để khắc

phục, hạn chế và loại trừ nguyên nhân và điều kiện của THTP. V.I Lênin đã chỉ rõ:
“một trong những biện pháp PNTP là phải nâng cao đời sống vật chất của quần
chúng, phải khơng ngừng tăng cường tính tự giác, tích cực, tạo điều kiện cho quần
chúng nhân dân tham gia công việc của nhà nước và của xã hội” [15]. Việc giải
quyết những vấn đề chiến lược kinh tế đã mở ra những khả năng to lớn để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ xã hội cụ thể khác của sự phát triển nền kinh tế XHCN, đã mở ra
con đường dẫn đến việc loại trừ ra khỏi đời sống xã hội những hiện tượng trái pháp
luật và nguyên nhân của những hiện tượng đó vì một trong những nguyên nhân và
điều kiện cơ bản của tội phạm hiện nay là nguyên nhân kinh tế - sự mâu thuẫn, bất
cơng về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Nền kinh tế kém

phát triển, đời sống của một bộ phận dân cư không được đảm bảo, thiếu thốn đói
nghèo là những hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát sinh và tồn tại của
tội phạm. Vì vậy, phát triển sản xuất, nâng cao mức sống của nhân dân, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất của nhân dân là một trong các giải pháp có tính
chất chiến lược lâu dài, hiệu quả trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm.
-

Biện pháp chính trị tư tưởng: Đây là biện pháp tác động vào tư tưởng,

nhận thức của con người, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cơng
cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, các tác hại do tội phạm gây ra cho xã
hội…dưới các hình thức như tuyên truyền pháp luật, xét xử án công khai…nhằm
nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân. Một mặt, là để động viên nhân dân tự
giác tham gia phòng ngừa và chống tội phạm. Mặt khác nhằm định hướng cho các

17


phần tử dao động nhận thức được các giá trị đúng, sai, cái gì được làm và cái gì
khơng được làm từ đó khơng đi vào con đường phạm tội.
-

Biện pháp văn hóa, giáo dục: Đây là tổng hợp những biện pháp nhằm

nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Trong cơ cấu chung của THTP
thì nhìn chung tỷ lệ người phạm tội là người có học vấn thấp chiếm một tỷ trọng
tương đối cao. Bên cạnh đó, mặc dù thực hiện chính sách mở cửa đã đem lại rất
nhiều mặt tích cực cho nền kinh tế: Kinh tế nước nhà phát triển nhanh, đời sống
nhân dân được nâng cao…tuy nhiên, khơng ít các hiện tượng tiêu cực cũng bắt đầu
xuất hiện như: các văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại; các tư tưởng phản động, các lối

sống tha hóa, biến chất…khơng ngừng phát triển và tràn vào nước ta. Ngun nhân
là do chúng khơng kiểm sốt được hết các mặt trái, các “tác dụng phụ” của nó gây
ra. Do đó địi hỏi Đảng và nhà nước ta khơng ngừng nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần lành mạnh cho nhân dân, đảm bảo phổ cập văn hóa ở mức có thể và khơng
ngừng nâng cao trình độ văn hóa của xã hội, tổ chức hệ thống giáo dục đào tạo rộng
khắp với những điều kiện thuận lợi cho nhân dân, thu hút quần chúng nhân dân
tham gia vào các văn hóa lành mạnh, bổ ích, sử dụng sức mạnh của các tổ chức xã
hội vào công tác PNTP, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cá nhân đối với cộng
đồng…Những biện pháp này sẽ có tác dụng to lớn đối với việc khắc phục nguyên
nhân và điều kiện của THTP.
-

Biện pháp tổ chức quản lý: là biện pháp tổ chức xã hội, hình thành hệ

thống tổ chức xã hội chặt chẽ, thống nhất từ TW đến địa phương. Trong thời kỳ quá
độ lên CNXH thì nhiệm vụ tổ chức quản lý kinh tế, quản lý xã hội có một vai trị rất
quan trọng. Tuy nhiên, cơng việc này cũng còn khá mới mẻ. Nhất là trong giai đoạn
hiện nay Nhà nước ta đang trong thời kỳ đầu của q trình chuyển hóa từ nền kinh
tế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường, công việc này đòi hỏi phải đổi mới cung
cách quản lý và tư duy quản lý sao cho phù hợp với yêu cầu khách quan đặt ra.
Không tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành động cơ, ý thức phạm tội,
không tạo sơ hở cho việc thực hiện tội phạm – đây là một yêu cầu rất lớn, đòi hỏi
phải có q trình thực hiện lâu dài. Tuy nhiên, trước mắt cần khắc phục những sai

18


lầm, thiếu sót, sơ hở trong tổ chức quản lý để hạn chế khắc phục một số nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm. Phòng chống, hạn chế, khắc phục tình trạng bố trí
cán bộ khơng phù hợp với năng lực, trình độ, phẩm chất, quản lý cán bộ khơng

nghiêm, quản lý tài sản lỏng lẻo, tổ chức bộ máy thiếu hợp lý…sẽ có tác dụng khắc
phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.
-

Biện pháp pháp luật: Trong quá trình xây dựng CNXH, pháp luật có một

vai trị rất to lớn, V.I Lênin đã nhấn mạnh: “pháp luật XHCN như là một cơng cụ để
thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước” [15]. Thấm nhuần tư tưởng này
nên tại Đ.12 của Hiến pháp 1992 quy định: “nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN…mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý
theo pháp luật”.
Trong lĩnh vực PNTP, pháp luật có vai trị rất quan trọng: trật tự kỷ cương xã
hội, kỷ cương đất nước được đảm bảo đến mức độ nào phụ thuộc hầu như hoàn toàn
vào các biện pháp pháp luật. Tác dụng phịng ngừa của pháp luật được thể hiện ở
tồn bộ uá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Có thể nói rằng, tất cả các ngành
luật trong hệ thống pháp luật trong một chừng mực nào đó đều có tác dụng phịng
ngừa tội phạm, bằng các chế tài do ngành luật đó quy định. Ví dụ: chế tài trách
nhiệm vật chất của ngành luật dân sự, chế tài xử phạt hành chính của ngành luật
hành chính, kỷ luật lao động trong ngành luật lao động…tuy nhiên, khơng có chế tài
nào mạnh mẽ như chế tài luật Hình sự, PNTP là một trong những chức năng, nhiệm
vụ quan trọng của luật Hình sự. Vì vậy việc nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tăng cường pháp chế XHCN là một trong những phương hướng cơ bản PNTP
căn bản và lâu dài.
1.3.3

Tiếp cận dưới góc độ khái quát chung nhất, để làm nổi bật bản chất xã

hội và trách nhiệm của toàn xã hội trong hoạt động PNTP, dựa vào chủ thể thực
hiện các biện pháp PNTP ta có biện pháp phòng ngừa chung và biện pháp phòng

ngừa riêng.

19


-

Biện pháp phòng ngừa chung bao gồm những biện pháp chính trị, kinh tế, xã

hội, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật… nhằm thủ tiêu các nguyên nhân phát
sinh tội phạm. Biện pháp phòng ngừa chung là biện pháp mà Đảng, nhà nước, chính
quyền, cơ quan nhà nước, các đồn thể xã hội và mọi cơng dân tiến hành nhằm khắc
phục tận gốc những nhân tố làm phát sinh tội phạm và từng bước đẩy lùi tội phạm
ra khỏi đời sống xã hội.
-

Biện pháp phịng ngừa riêng có nhiều loại: biện pháp hình phạt, biện pháp

giáo dục, chữa bệnh bắt buộc, biện pháp tác động xã hội, biện pháp xử lý hành
chính và thi hành kỷ luật, biện pháp ngăn ngừa tội phạm khi phát hiện ý định phạm
tội, biện pháp tác động cá nhân đối với những người khơng vững vàng có thể đi
theo con đường phạm tội, tuyên truyền luật hình sự, loại trừ các NN&ĐK gây ra
những tội phạm cụ thể [17 – tr373,374]. Biện pháp phịng ngừa riêng là các biện
pháp PNTP có tác dụng tác động trực tiếp đến tội phạm và ngừoi phạm tội. Vì vậy
ngay từ lúc đưa ra nó đã nhằm mục đích phịng ngừa nhăn chặn các yếu tố có khả
năng gây án, hoặc nếu tội phạm đã xảy ra thì kịp thời điều tra nhanh chóng, truy tố,
xét xử, giáo dục và cải tạo người phạm tội. Thông thường các biện pháp này được
tiến hành do hoạt động chuyên môn của các cơ quan bảo vệ pháp luật chuyên trách
như Cơng An, Viện Kiểm Sát, Tịa Án, thanh tra, với sự phối hợp chặt chẽ của các
cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã hội và mọi công dân. Ở đây

pháp luật thể hiện rõ thái độ khuyến khích và cứng rắn của nhà nước với những kẻ
phạm tội.
Tội phạm là một hiện tượng nguy hiểm, phức tạp, đa dạng, tương ứng với
tính chất này của tội phạm, phịng ngừa chỉ có thể đạt được khi nó là một q trình
gồm nhiều biện pháp khác nhau với những tính chất và mức độ khác nhau. Do vậy
PNTP không phải và không thể là là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức mà là
nhiệm vụ của toàn xã hội bao gồm Đảng, nhà nước, các tổ chức, mọi công dân. Mặt
khác, để thực hiện nhiệm vụ này, Đảng, nhà nước, xã hội phải sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau trong suốt một quá trình lâu dài. Các biện pháp này, mặc dù do con
người - các chủ thể PNTP thực hiện những nội dung, tính chất, mức độ, thời điểm,

20


phạm vi và địa bàn áp dụng lại do yêu cầu khách quan của cơng cuộc đấu tranh
phịng chống tội phạm quy định.Vì vậy, từng nơi, từng lúc và từng điều kiện hoàn
cảnh cụ thể mà áp dụng một hoặc một số biện pháp thích hợp mới có thể đem lại
hiệu quả cần thiết.
Có thể tựu chung lại, PNTP gồm các biện pháp nhà nước và xã hội (như khái
niệm tại 1.1), do vậy không thể là một cá nhân, một tổ chức nào có thể thực hiện tất
cả các biện pháp này mà PNTP là trách nhiệm này thuộc về nhà nước và xã hội,
thuộc trách nhiệm chung của tồn xã hội, mọi tổ chức cá nhân có trách nhiệm phối
hợp thực hiện cơng tác phịng ngừa tội phạm.
Tình hình PNTP trong thời gian qua tại tp.HCM và một số địa phương

1.4

trong nước.
1.4.1


Các quy định pháp luật và các chương trình thực hiện việc PNTP
đã và đang diễn ra .

Như đã chứng minh ở trên, hoạt động PNTP là hoạt động chung của tòan xã
hội, là nhiệm vụ của mọi ban ngành, tổ chức, cá nhân…đây là hoạt động mang tính
hệ thống, chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất và có sự phối hợp nhịp nhàng, có mối quan
hệ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức & công dân.
Ở nước ta, PNTP mang tính kế hoạch, có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan
nhà nước cũng như của tổ chức cộng đồng dân cư dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng.
Để PNTP, từ trước đến nay nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp,
chương trình trong đó đáng chú ý là phát động phong trào quần chúng bảo vệ an
ninh, phong trào quần chúng bảo vệ trị an…đặc biệt giai đoạn hiện nay thực hiện
chương trình quốc gia về phịng chống tội phạm. Để thực hiện các chính sách,
chương trình về phịng ngừa tội phạm, chúng ta đã tiến hành luật hóa bằng các quy
định:
-

Bộ luật hình sự có những quy định rất có ý nghĩa về PNTP tại phần lời

nói đầu, tại Đ.1, phần nhiệm vụ của BLHS, tại Đ.4 quy định trách nhiệm phòng
ngừa và chống tội phạm…

21


-

BLTTHS quy định về PNTP tại Đ.1, quy định nhiệm vụ của bộ luật, có


phần quy định riêng về việc xử lý đối với người chưa thành niên thể hiện chính sách
hình sự mềm dẻo linh hoạt của luật hình sự việt nam.
-

Các văn bản luật được ban hành nhằm thực hiện các chính sách PNTP:

luật phịng, chống tham nhũng, luật phòng chống ma túy, pháp lệnh phòng chống
mại dâm, luật thực hành tiết kiệm, quy định về công khai đấu thầu, dự toán, quyết
toán trong xây dựng cơ bản, quy định về khai thác tài nguyên…
NQ liên tịch số 01/1994/NQ-LT ngày 27/12/1994 của TW Đồn TNCSHCM
& Bộ Cơng An về ngăn chặn tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên, NQ liên tịch
số 02/1998/NQ-LT ngày 01/8/1998 của TW Đoàn TNCSHCM & Bộ Cơng An về
phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên, nghị quyết
liên tịch giữa Bộ CA với Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam về “phối hợp vận động
toàn dân xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”; Bộ CA, Bộ
Quốc Phòng, Tổng cục Hải quan còn ban hành Quy chế “phối hợp giữa các lực
lượng trong đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy”. Ban chỉ đạo chương trình
quốc gia phịng, chống tội phạm và đài truyền hình Việt Nam đã ra nghị quyết “phối
hợp tun truyền, truyền hình”. Đồn Thanh Niên CSHCM đã phối hợp với Bộ
Công An tổ chức liên hoan phim truyền hình về phịng chống tội phạm, tệ nạn xã
hội, mại dâm, HIV”, nghị quyết liên tịch giữa hội LHPN việt nam và bộ công an về
“quản lý, giáo dục con em trong gia đình khơng phạm tội và tệ nạn xã hội” [5].
-

Ngày 31/7/1998, thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số

138/1998/QĐ/TTg về việc phê duyệt chương trình quốc gia phòng chống tội phạm
với các nội dung cơ bản phát động quần chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm,
cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư, vận động người phạm tội
ra đầu thú, tuyên truyền, giáo dục về phòng chống tội phạm nhằm nâng cao ý thức

pháp luật của công dân, bảo vệ trật tự xã hội, triển khai đồng bộ các biện pháp
PNTP ở cộng đồng dân cư, trong từng gia đình, trong cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang…

22


-

Các chương trình hành động để phịng ngừa từng loại tội phạm đựơc các

ban ngành đề ra: như chương trình hành động phịng, chống tội phạm bn bán phụ
nữ, trẻ em từ 2004 đến 2010 ban hành kèm theo QĐ số 134/2004/QĐ- TTg ngày
14/7/2004 của thủ tướng Chính phủ, chính phủ cũng đã quyết định thành lập ban chỉ
đạo 138/CP để chỉ đạo triển khai thực hiện bốn đề án của chương trình quốc gia
phịng chống tội phạm, các hoạt động “đường dây nóng” về tố giác tội phạm, “hộp
thư góp ý”…các danh hiệu gia đình văn hóa, khu phố văn hóa…các chương trình 3
khơng, 5 khơng…đã và đang đi vào đời sống người dân và góp phần đáng kể vào
cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và PNTP nói riêng.
-

Hội liên hiệp phụ nữ chủ trương: Vận động hội viên phụ nữ, các thành

viên trong gia đình thực hiện 4 khơng với ma t: Khơng sử dụng, không sản xuất,
không buôn bán, không vận chuyển ma tuý. Phối hợp tham gia xây dựng Đảng,
Chính quyền, Hội phụ nữ, xây dựng lực lượng CAND trong sạch vững mạnh. Lồng
ghép việc thực hiện Nghị quyết số 09 và Chương trình Quốc gia phịng chống tội
phạm, Chương trình hành động phịng chống ma t với các chương trình hoạt động
của Hội LHPN Việt Nam; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước “Phụ nữ tích cực
học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, (Gắn nội dung sinh

hoạt Hội với nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật và xây dựng gia đình “No
ấm – bình đẳng - tiến bộ - hạnh phúc”, khơng có tội phạm và tệ nạn xã hội [5].
 Ở phạm vi địa phương: các chương trình cụ thể về PNTP thường xuyên
diễn ra: quận Cầu Giấy, Hà Nội đã biết phát huy dân chủ ở cơ sở, lấy hộ gia đình, số
nhà, ngõ, tổ dân phố, khu dân cư… cơ quan, đơn vị, trường học làm nơi xây dựng
phong trào; lấy ý thức “tự phòng, tự quản, tự bảo vệ” của từng người dân, hộ gia
đình, khu dân cư… làm mục tiêu xây dựng, đạt được nhiều thành tích quan trọng
(năm 2007, trên địa bàn quận chỉ xảy ra 456 vụ phạm pháp hình sự, giảm 234 vụ
(33,9%) so với năm trước) [58]. Nội dung, hình thức của phong trào phù hợp với
tình hình, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội để giải quyết những vấn đề bức xúc từ
cơ sở, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân để họ đồng tình ủng hộ, từ đó tích
cực tham gia. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của toàn dân trong đấu

23


tranh phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội, nhất là trong phát hiện, tố giác tội phạm,
cảm hóa giáo dục người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư. Coi trọng vai trị của gia
đình, nhà trường, xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
Việc triển khai phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có sự phối hợp, lồng
ghép chặt chẽ với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
khác của Đảng, Chính quyền đã góp phần ổn định và nâng cao hiệu quả công tác
đảm bảo an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở cơ sở; Căn cứ vào địa
điểm từng địa bàn, Hội LHPN tỉnh Hịa Bình chỉ đạo xây dựng các mơ hình điểm
như mơ hình “địa bàn trong sạch khơng có tội phạm”, “tổ phụ nữ khơng có người
thân vi phạm pháp luật”, “tổ phụ nữ dân tộc khơng có người thân nhiễm HIV”...
Vận động chị em ký cam kết xây dựng gia đình “4 khơng” với ma tuý; tổ chức ký
giao ước thi đua giữa các huyện Hội....; tổ chức khảo sát, nắm tình hình phạm tội và
phụ nữ đi làm ăn xa trên địa bàn tỉnh để nghiên cứu đưa ra giải pháp hoạt động cho
phù hợp với tình hình thực tế, phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng

tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” thường xuyên được triển khai và thực hiện có
hiệu quả, Hội LHPN huyện Lạc Sơn triển khai Đề án “phòng chống say rượu, bia
trong gia đình và cộng đồng” có trên 12 ngàn lượt Hội viên tham gia.
Theo báo cáo tổng kết của HLHPN tỉnh Hịa Bình, tại địa phương, vai trị
phối hợp giữa các đoàn thể, tổ chức được phát huy: hội cựu chiến binh, hội phụ nữ,
đoàn thanh niên, hội người cao tuổi, hoạt động snh hoạt của các câu lạc bộ (“Câu
lạc bộ phụ nữ với pháp luật”; Hội LHPN các cấp tỉnh Hịa Bình đã xây dựng được
23 mơ hình CLB với 939 CLB có số thành viên tham gia là 25.744. Trong đó có 63
CLB phịng chống TNXH với 2.318 thành viên, 280 CLB gia đình hạnh phúc có
6.144 thành viên, 38 CLB pháp luật. Bên cạnh đó, các mơ hình như: nhóm bạn đồng
đẳng, nhóm bạn cùng tiến, nhóm bạn chia sẻ, tổ phụ nữ khơng có người thân mắc
tội phạm, tổ phụ nữ dân tộc khơng có người thân phạm tội và nhiễm HIV... đã thu
hút được nhiều thành viên tham gia).
1.4.2

Một số kết quả thực tiễn đạt được trong công tác PNTP.

24


Trong nhiều năm thực hiện công tác PNTP, chúng ta phải đấu tranh với tình
hình tội phạm ngày càng gia tăng nhanh chóng cả về lượng và chất. Tuy nhiên trên
mặt trân đấu tranh phòng chống tội phạm đã đạt được một số kết quả quan trọng.
Năm 2007, toàn quốc xảy ra 50.878 vụ phạm pháp hình sự các loại, giảm
2.969 vụ so với năm 2006; đã điều tra khám phá 37.752 vụ, bắt giữ xử lý 45.996 đối
tượng.(số liệu của Bộ Công An).
Tội phạm tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, Hà Nội, Hải Phòng,
TP.HCM, Đà Nẵng trước khi triển khai chương trình quốc gia phịng chống tội
phạm, số vụ phạm tội xả ra đã chiếm tới 40% tổng số vụ xảy ra trong cả nước. trong
những năm gần đây, số lượng tội phạm xảy ra ở 4 thành phố này đã giảm gần 1%

[53 – Tr127].
Theo báo cáo của ngành tư pháp: Kết quả thực hiện phong trào "tồn dân
tham gia phịng chống tội phạm", nhân dân đã cung cấp gần 5.000 nguồn tin có giá
trị, giúp cơ quan cơng an triệt phá 291 băng nhóm tội phạm, cảm hóa giáo dục hàng
ngàn đối tượng. Thực hiện đề án 01-138 phát động toàn dân tham gia phịng ngừa
phát hiện tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục người phạm tội tại gia đình, cộng đồng
dân cư giai đọan 2005-2010. Các khu dân cư đã thực hiện chương trình "4 giảm, 7
có" gắn với cuộc vận động "Tịan dân địan kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư". Qua phong trào đã huy động được sức mạnh của cộng đồng cùng với Nhà
nước đấu tranh với các lọai tội phạm: Quần chúng đã cung cấp cho lực lượng công
an 5.270 nguồn tin về họat động của các lọai tội phạm và tệ nạn xã hội, trong đó có
4.732 nguồn tin có giá trị, giúp cơ quan cơng an triệt phá 291 băng ổ nhóm tội
phạm, điều tra làm rõ 1.003 vụ, bắt 1.500 đối tượng phạm tội các lọai, thu hồi vũ
khí và tài sản trị giá gần 4 tỷ đồng; cảm hóa giáo dục năm 2005 được 3.335 người (
6 tháng đầu năm 2006 là 2.497 người), đã có 449 người tiến bộ đưa ra khỏi diện
quản lý, có 192 đối được được MTTQ các đồn thể quan tâm bố trí, tạo điều kiện có
việc làm ổn định.(báo cáo của ngành tư pháp). Tp.HCM thực hiện chương trình 3
giảm: giảm phạm pháp hình sự, giảm tệ nạn mại dâm, giảm tệ nạn ma túy. Tp. Đà
Nẵng thực hiện chương trình 5 khơng: khơng có người mù chữ, khơng có người

25


×