Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của GIA ĐÌNH TRONG GIÁO dục ý THỨC bảo vệ tổ QUỐC CHO THANH NIÊN TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.47 KB, 72 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ Tổ quốc XHCN là quy luật phổ biến của các nước XHCN. Đối với nước ta, bảo vệ Tổ
quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Hiện nay, tình hình thế
giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế
lực thù địch lợi dụng sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, lợi dụng cuộc chiến chống khủng
bố, tấn công quyết liệt vào độc lập chủ quyền của các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước XHCN
trong đó có nước ta. Vì vậy, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn
nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố: chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ; sự kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế;
sức mạnh của con người kết hợp với vũ khí trang bị…Trong đó, yếu tố con người giữ vai trò quyết
định. Nhiệm vụ trước hết và trên hết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải làm cho ý thức bảo
vệ Tổ quốc được thấm nhuần sâu sắc đến mọi tầng lớp nhân dân mà trọng tâm là thanh niên.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan
trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Do đó gia đình có vai trò quan trọng trong giáo dục ý
thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho con em mình. Nhận thức được vấn đề này, nhiều năm qua các
gia đình ở tỉnh Phú Thọ đã thường xuyên coi trọng giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho
con em mình, kịp thời động viên thanh niên phát huy truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng,
truyền thống đất Tổ Hùng Vương và truyền thống gia đình, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của thanh niên khi Đảng cần. Tuy nhiên, trước tác động tiêu cực của
cơ chế thị trường và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù bằng “diễn biến hòa bình”, nhiều gia đình ở tỉnh
Phú Thọ do mải mê làm kinh tế, kiếm sống, làm giàu nên đã sao nhãng trong giáo dục nói chung, giáo
dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên con em mình nói riêng. Hậu quả làm cho
một bộ phận thanh niên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về đạo đức lối sống, chạy theo lối sống
vật chất tầm thường, buông thả, thờ ơ lãnh đạm đối với các vấn đề chính trị - xã hội, thậm chí trốn tránh
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quân sự, đào bỏ ngũ… gây tổn hại đến việc củng cố nền quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và việc hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị quân đội, ảnh
hưởng đến uy tín, truyền thống của địa phương, gia đình và quân đội. Vì vậy, phát huy vai trò của gia
đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên cả nước nói chung, thanh




niên tỉnh Phú Thọ nói riêng thực sự trở nên cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay. Đó cũng chính
là lý do để tác giả lựa chọn đề tài “Vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Bảo vệ Tổ quốc XHCN và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã được C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đề cập trong nhiều tác phẩm. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng Cộng
sản Việt Nam đề ra quan điểm, đường lối chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
trong các kỳ đại hội. Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra “Nghị
quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình mới”, Nxb CTQG, Hà Nội. 2003. Đây là cơ sở lý luận
và thực tiễn để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nghiên cứu, quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình mới, đồng thời là cơ sở để phát huy vai trò của gia đình trong
giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc XHCN, ở nước ta đã có nhiều công
trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đề cập dưới các góc độ tiếp cận khác nhau về bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN như: “Bảo vệ Tổ quốc trong tình mới một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Viện khoa
học xã hội nhân văn quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003; “Nâng cao chất lượng quán triệt
tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc cho học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp trung đoàn ở Học
viện chính trị quân sự hiện nay”, đề tài khoa học cấp Học viện do Tiến sỹ Đặng Bá Minh chủ nhiệm đề
tài, Học viện Chính trị quân sự 2004.
Về ý thức chính trị XHCN, một số tác giả đã tập trung nghiên cứu ở các góc độ như: “Phát triển ý
thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và quân đội thời kỳ đổi mới” của PGS - TS Lê Văn Quang,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2001; “Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của Quân đội
nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Hồng Anh, Luận văn thạc sỹ triết học, Học
viện chính trị quân sự, Hà Nội, 1995; “Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong nâng cao ý thức
chính trị xã hội chủ nghĩa của công nhân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai hiện nay” của Nguyễn Ngọc Liệu, Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị quân sự,
Hà Nội, 2004.

Nghiên cứu về vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội nói chung và vai trò của gia đình
trong giáo dục con cái nói riêng, có các công trình và bài viết: “Gia đình Việt Nam các trách nhiệm,
các nguồn lực trong sự thay đổi của đất nước” của Giáo sư Lê Thi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1995; “Văn hoá gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội”, do Lê Minh chủ biên, Nxb Lao Động, Hà


Nội, 1994; “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” của Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và
phụ nữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994; “Phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng ý thức tôn
trọng pháp luật cho thanh niên ở tỉnh Hà Tây hiện nay” của Dương Văn Hoành, Luận văn thạc sỹ triết
học, Học viện Chính trị quân sự, H.2001; “Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình sỹ quan trẻ ở
các trường sỹ quan quân đội hiện nay” của Nguyễn Văn Đang, Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện
Chính trị quân sự, H.2001.
Các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đã đề cập tương đối toàn diện và có hệ
thống về bảo vệ Tổ quốc XHCN; về ý thức xã hội và ý thức chính trị XHCN; về gia đình, khái niệm
gia đình, vị trí vai trò, chức năng, mối quan hệ của gia đình. Đồng thời nêu lên một số phương hướng,
giải pháp nhằm xây dựng, nâng cao nhận thức về bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới, nâng cao
ý thức chính trị XHCN, ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho các tầng lớp nhân dân lao động nói chung,
trong quân đội nói riêng; phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục con
cái, xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ, hạnh phúc, góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đề cập tới vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên, nhất là ở một số địa phương cụ thể. Vì vậy, đề tài “Vai trò
của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” mà
tác giả lựa chọn đã không trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã được công bố trong và ngoài quân đội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN cho thanh niên, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia
đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm, cấu trúc ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN và giáo dục giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam XHCN cho thanh niên hiện nay.
- Làm rõ vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên
hiện nay.
- Phân tích thực trạng vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN và đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:


Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc XHCN, ý bảo vệ Tổ quốc XHCN, vai trò của gia đình đối
với sự phát triển xã hội nói chung và vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN cho thanh niên nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn dựa vào các báo cáo tổng kết của các cơ quan, ban ngành trong tỉnh Phú Thọ kết hợp với
kết quả nghiên cứu, khảo sát của tác giả về thực trạng vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: lịch sử
- lô gíc, phân tích - tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ góc độ chính trị - xã hội của
vấn đề.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên tỉnh Phú Thọ và cả nước hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy một số chủ đề ở
các nhà trường trong quân đội
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ

lục.


Chương 1
Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHO THANH NIÊN HIỆN NAY
1.1. Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa cho thanh niên hiện nay
1.1.1. Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
* Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Tổ quốc là một địa vực, lãnh thổ sinh sống của một cộng đồng dân cư (gồm một hay nhiều dân tộc)
có cùng ngôn ngữ, văn hoá, truyền thống lịch sử gắn với một chế độ kinh tế, chính trị, xã hội trong một
giai đoạn lịch sử cụ thể. Tổ quốc bao gồm hai phương diện thống nhất hữu cơ với nhau: những yếu tố
tự nhiên, địa bàn cư trú và hoạt động của một cộng đồng dân cư, gắn bó với quá trình sống, trưởng
thành của nhiều thế hệ người; những yếu tố xã hội như ngôn ngữ, văn hoá, truyền thống lịch sử và nhất
là luôn gắn với một chế độ kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Tổ quốc không phải là một khái niệm
trừu tượng, “nhất thành bất biến” mà là một phạm trù lịch sử mang nội dung phong phú: kinh tế, chính
trị, văn hoá, ngôn ngữ, địa lý…và luôn luôn vận động biến đổi, phát triển không ngừng. Mỗi loại hình
tổ quốc bao giờ cũng gắn liền với chế độ kinh tế, chính trị và giai cấp thống trị chế độ xã hội đó. Trong
chế độ xã hội có đối kháng giai cấp, tổ quốc thuộc về giai cấp thống trị, bóc lột. Không có một Tổ
quốc chung cho kẻ thống trị và người bị trị. Dưới chủ nghĩa tư bản, “…người công nhân không có Tổ
quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có” [19, tr. 623].
Tổ quốc XHCN là một loại hình tổ quốc phát triển cao nhất trong lịch sử loài người. Tổ quốc XHCN ra
đời gắn liền với sự thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong thế kỷ
XIX, mặc dù Tổ quốc XHCN chưa xuất hiện, nhưng C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra cho giai cấp công
nhân cần phải bảo vệ những thành quả cách mạng của mình. Phát triển tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã xây dựng học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN gắn liền với thực tiễn bảo vệ Chính
quyền Xô Viết sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công. V.I.Lênin chỉ rõ: “Kể từ ngày
25 tháng 10 năm 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ
Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội

chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ Nước cộng hoà Xô Viết với tính cách
là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội ” [15, tr. 102].
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi CNXH hiện thực ra đời, các nước XHCN đã phải
thường xuyên chống trả những âm mưu, thủ đoạn và hành động lật đổ, bao vây, xâm lược của đủ loại
thù trong giặc ngoài. Đầu tiên là nhân dân Nga phải đứng lên trong những năm nội chiến có sự can


thiệp của 14 nước đế quốc (1918 - 1920) và sau này là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại phát
xít Đức và đồng minh của chúng (1941 - 1945). Khi CNXH trở thành hệ thống trên thế giới thì cuộc
đương đầu với các thế lực thù địch để bảo vệ CNXH cũng diễn ra vô cùng quyết liệt. Đặc biệt là sự sụp
đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã chứng minh quy luật khách quan của sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc XHCN.
Ở nước ta, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được đặt ra ngay từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Tiếp đó, chúng ta phải tiến hành cuộc kháng
chiến chống Pháp giành độc lập tự do cho Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Sau khi miền Bắc
được giải phóng, cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc XHCN,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Khi cả nước độc lập, thống nhất đi lên CNXH, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta. Điều đó đã
chứng minh rằng, bảo vệ Tổ quốc XHCN là một quy luật nhằm giữ vững và phát triển những thành
quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã giành được, đó cũng chính là sự quán triệt sâu sắc mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của cách mạng Việt Nam. Ngay trong bản “Tuyên ngôn độc lập”
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nước Việt nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [21, tr.
4]. Vận dụng và phát triển học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta khẳng định:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác,
củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả
cách mạng” [5, tr. 10].

Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến hết sức phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ
hòng xoá bỏ các nước XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm.
Nước ta, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: tình hình chính trị - xã hội ổn định; kinh tế phát
triển; giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội; củng cố được lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN;
động viên được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị tham gia


vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu đó là kết quả tổng hợp của quá trình thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của nhân dân ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng, đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn
nguy cơ mà Đảng ta chỉ rõ trong Hội nghị giữa nhiệm kỳ Khóa VII đến nay vẫn tồn tại và diễn biến
phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Trong đó, điều cần nhấn mạnh
là: “tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân” [9, tr. 67]. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù
địch đang ra sức chống phá cách mạng nước ta, tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ Đảng với nhân dân, đòi thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng,
“phi chính trị hóa” quân đội, từng bước xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN trên đất
nước ta. Hoạt động “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với nước ta diễn
ra trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an
ninh …và không loại trừ hành động can thiệp quân sự, xâm lược của kẻ thù nhằm xoá bỏ độc lập dân
tộc và CNXH của nhân dân ta.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của nhân dân ta đặt ra những yêu cầu mới.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc” [9, tr. 117]. Cụ thể hóa quan điểm trên, Nghị quyết Hội

nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ rõ sáu mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc XHCN trong giai đoạn hiện nay: “Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hoá; sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước
theo định hướng XHCN” [2, tr. 45 - 46].
Trong tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta, quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được
giải quyết một cách biện chứng. “Theo tư duy mới, nhiệm vụ quốc phòng ngày nay không chỉ nhằm để
chống chiến tranh xâm lược bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia mà còn gắn chặt với
yêu cầu thường xuyên bảo vệ an ninh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, khoa học,
công nghệ, văn hoá, xã hội. Bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”
[28, tr. 9]. Đó cũng chính là sự nhận thức sâu sắc quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc


ta. Ngày nay quy luật đó được thể hiện ở hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xây dựng đất nước giàu mạnh theo con đường XHCN tạo ra khả năng
bảo vệ tốt nhất. Bởi lẽ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, của cả hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Sức mạnh tổng hợp đó chỉ có thể có được thông qua công cuộc xây
dựng đất nước theo định hướng XHCN. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là công việc thường xuyên gắn với
xây dựng CNXH tạo thành một chỉnh thể thống nhất của quá trình đổi mới vì độc lập dân tộc và
CNXH.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định, trong đó vấn đề quan
trọng là phải phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, của các tầng lớp nhân dân, của các cấp, các
ngành. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt, mà trước hết là
tiềm lực về chính trị - tinh thần, nâng cao nhận thức, xây dựng ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, trọng tâm là lực lượng thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
* Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn
ngữ; ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, ý thức là

sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo, ý thức
không phải là bản sao giản đơn, thụ động, máy móc hiện thực; ý thức là của con người, mà con người
là một thực thể xã hội năng động sáng tạo, ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con
người tác động cải tạo thế giới. Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện
tượng xã hội bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
C.Mác cho rằng: “Ngay từ đầu ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con
người còn tồn tại” [18, tr. 43].
Như vậy, bản tính tự nhiên của con người thông qua hoạt động lao động sản xuất, trao đổi ngôn ngữ,
giao tiếp và các quan hệ xã hội được hình thành và bộc lộ ra, được xã hội hóa trở thành các phẩm chất xã
hội của con người - bản chất người. C.Mác khẳng định “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hoà những quan hệ xã hội” [18, tr. 66]. Và vì vậy, ý thức của con người là một hiện tượng lịch sử,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nó nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn liền với quá trình
phát triển của lịch sử - xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn của lịch sử xã hội.
Ý thức nói chung có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều thành tố quan hệ với nhau. Nghiên cứu cấu
trúc của ý thức bao gồm các yếu tố: Tri thức, tình cảm, ý chí. Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt
lõi, là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, phản ánh thế giới. Tri thức có nhiều lĩnh vực
khác nhau như tri thức về tự nhiên, xã hội, con người… và nhiều cấp độ như tri thức cảm tính và lý


tính, tri thức kinh nghiệm và lý luận, tri thức tiền khoa học và khoa học… Để cải tạo tự nhiên và xã
hội, con người phải có tri thức về sự vật hiện tượng, nếu không có tri thức thì con người hoạt động
không có hiệu quả trong thực tiễn, càng có tri thức về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc. Ý thức
mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì đó là hiện tượng trừu tượng trống rỗng, không
giúp gì cho con người trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, tác động của thế giới đến con người không
chỉ đem lại tri thức về thế giới mà còn đem lại tình cảm của con người về thế giới.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại xã hội mà trực tiếp là quan hệ giữa người
với người và quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Tình cảm là những thái độ cảm xúc ổn
định của con người đối với những sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, phản ánh ý nghĩa của
chúng trong mối liên hệ với nhu cầu và động cơ của họ. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con
người và trở thành một động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức có biến thành tình cảm

mãnh liệt thì mới đạt đến độ sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì tri thức mới biến thành hành động
thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
Ý chí là điểm hội tụ của tri thức và tình cảm hướng vào hoạt động của con người. Ý chí là mặt năng
động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ
lực khắc phục khó khăn; năng lực này không phải tự nhiên ai cũng có và không phải ai cũng có như
nhau. Là một hiện tượng tâm lý, ý chí cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan; phản ánh mục đích
của hành động do các điều kiện của hiện thực khách quan quy định. Nói cách khác, ý chí là sự phản
ánh các điều kiện khách quan dưới hình thức các mục đích hành động.
Là mặt năng động của ý thức, ý chí là hình thức tâm lý điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người
(trong ý chí có cả mặt năng động của tri thức, lẫn mặt năng động của tình cảm, đạo đức). Ý chí của con
người được hình thành và biến đổi tùy theo những điều kiện lịch sử - xã hội, tùy theo những điều kiện
vật chất của đời sống xã hội; tính chất của những mục đích và của những gì thúc đẩy đối với hành
động của con người được quyết định bởi chỗ từng người tạo lập và biến đổi nhu cầu của bản thân phù
hợp với mục đích và yêu cầu của xã hội. Nhờ ý chí mà con người tổ chức được hoạt động của mình,
biến đổi được tự nhiên và xã hội, tạo ra được những giá trị vật chất và tinh thần, thực hiện được những
chuyển biến và có được những phát hiện trong khoa học.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm lý luận,
những tình cảm, tâm trạng, truyền thống…, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định. Xét theo cấp độ phản ánh, ý thức xã hội bao gồm: ý thức thông
thường - tâm lý xã hội và ý thức lý luận - hệ tư tưởng.
Ý thức xã hội thông thường là những hiểu biết xã hội về những quan niệm sống của con người được
hình thành một cách trực tiếp từ thực tiễn cuộc sống xã hội, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hàng ngày của


con người. Ý thức xã hội thông thường được biểu hiện và tồn tại dưới nhiều dạng phong phú, lặp đi lặp
lại biểu hiện thành những tình cảm, thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống… và chính các mặt
đó tạo thành tâm lý xã hội.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm xã hội mang tính hệ thống hóa, được xây dựng nên bởi tư
duy lý luận và được diễn tả dưới dạng hệ thống các khái niệm khoa học, các học thuyết xã hội. Ý thức lý
luận phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát và sâu sắc hơn, nên nó là nhân tố chủ yếu thể hiện

tính vượt trước của ý thức xã hội. Trong ý thức lý luận, hệ tư tưởng là yếu tố quan trọng nhất của ý thức xã
hội.
Ý thức thông thường - tâm lý xã hội và ý thức lý luận - hệ tư tưởng tuy là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau và dù ở cấp độ nào thì chúng
cũng phản ánh theo cấu trúc: tri thức, tình cảm, ý chí.
Ý thức bảo vệ tổ quốc là một loại hình của ý thức xã hội, ý thức bảo vệ Tổ quốc được hình thành, phát triển
và ngày càng hoàn thiện gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Ý thức bảo vệ
tổ quốc phản ánh nội dung, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trên cả hai phương diện tự nhiên - lịch sử và
chính trị - xã hội. Mỗi một tổ quốc đều do một giai cấp đại diện, do đó ý thức bảo vệ tổ quốc phản ánh lợi
ích kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị, giai cấp thống trị không thể duy trì được sự thống trị của
mình nếu như không xác lập những lợi ích cơ bản của mình và không có ý thức bảo vệ những lợi ích căn
bản đó. Trong chủ nghĩa tư bản, ý thức bảo vệ tổ quốc được xây dựng trên quan điểm, lập trường của giai
cấp tư sản, nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp tư sản. Trong cách mạng XHCN, sau khi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản, bắt đầu sự
nghiệp xây dựng CNXH, đồng thời cũng là quá trình tiến hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một nhiệm vụ chiến lược gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ xây dựng CNXH
trong suốt tiến trình cách mạng XHCN. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một quy luật khách quan, cùng với
xây dựng CNXH hình thành nên sự phong phú đa dạng của đời sống xã hội hiện thực (tức tồn tại xã
hội) trong CNXH. Ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN là một loại hình của ý thức xã hội XHCN, phản ánh
tính tất yếu khách quan, yêu cầu và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN
nảy sinh từ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì mục tiêu CNXH,
được học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ quốc soi đường nhằm chống lại sự
xâm lược, bao vây, chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với Tổ quốc XHCN.
Ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN còn thể hiện ở tư duy về bảo vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trước những thời cơ và thách thức của bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước.
Việc nhận thức và quyết tâm biến đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng cộng sản thành hiện thực cũng
là một nhân tố quan trọng của ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN.


Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là một loại hình của ý thức xã hội XHCN, phản ánh tính tất yếu

(yêu cầu khách quan), mục tiêu, nhiệm vụ, những vấn đề chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam về bảo vệ Tổ quốc XHCN và mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích
quốc gia dân tộc.
Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN phản ánh quy luật dựng nước phải đi đôi với giữ nước
trong lịch sử dân tộc, ngày nay là xây dựng CNXH gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc XHCN dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống yêu nước, quyết tâm giữ nước, không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ đã được hun đúc trong suốt mấy ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân
tộc. Chính điều này làm cho ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN có thể thẩm thấu đến mọi tầng
lớp nhân dân, phù hợp với trình độ nhận thức của họ. Đây cũng chính là cơ sở để phân loại cấp độ theo
cấu trúc của ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trước hết, về tri thức bảo vệ Tổ quốc XHCN ở cấp độ thông thường, đó là sự hiểu biết về truyền
thống lịch sử dân tộc mà dòng chủ lưu của nó là truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết muôn
người như một, quyết tâm giữ nước, không chịu khuất phục trước xâm lược của ngoại bang. Sự hiểu
biết truyền thống lịch sử dân tộc, là cơ sở để tôn trọng, kế thừa và phát huy lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy: “Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta
là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước tiếng để muôn
đời… Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập,
tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [20, tr. 216 - 217].
Từ hiểu biết về lịch sử, hình thành niềm tự hào về đất nước, dân tộc, con người Việt Nam, về truyền
thống quật cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm giữ gìn giang sơn, bờ cõi, giống nòi của các thế hệ đi
trước. Đảng ta khẳng định: “Chúng ta tự hào về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo;
tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân” [9, tr. 64].
Sự hiểu biết về lịch sử dân tộc, đất nước, niềm tự hào về truyền thống dân tộc là động lực tinh thần to lớn
thúc đẩy mạnh mẽ mỗi nguời dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ thấy rõ niềm vinh dự cùng trách nhiệm,
nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Ở cấp độ tư tưởng lý luận, đó là sự giác ngộ lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu; quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà



nước về bảo vệ Tổ quốc XHCN, những vấn đề chiến lược, sách lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, nhất là về đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh; thường xuyên đề cao cảnh giác cách
mạng trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối
với nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư
tưởng chống lại các quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và công cuộc đổi mới đất
nước.
Thứ hai, về tình cảm, thái độ và sự đòi hỏi bên trong đối với nhiệm vụ sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Đây là nhu cầu sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, là nguồn gốc
của tính tích cực hành động thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Tình cảm, thái độ là một
đặc trưng mang tính tâm lý xã hội cao của con người, luôn gắn với nhu cầu, động cơ, mục đích của con
người; sự khái quát những hiểu biết, tri thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đưa tới quá trình tích hợp những
động cơ, nhu cầu, mục đích sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Có được động cơ, mục đích, nhu
cầu sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc con người mới dễ dàng bộc lộ các hành vi và thể hiện các hành động tích cực,
cụ thể cho sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nhu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được biểu hiện trên một số khía cạnh: sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc,
xả thân vì nền độc lập tự do của Tổ quốc; sẵn sàng bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; bảo vệ nhân dân, bảo vệ sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Sẵn sàng
bảo vệ tổ chức đảng, chính quyền địa phương, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… Sẵn sàng
nhận và làm theo các yêu cầu khi Tổ quốc đòi hỏi.
Tuy nhiên, để có được tình cảm, thái độ và sự đòi hỏi bên trong đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN thì trước hết nó phải được vun đắp từ tình yêu thương con người, đồng loại, tình yêu gia đình,
làng xóm, quê hương - nơi chôn nhau cắt rốn, mảnh đất đã chịu nhiều nắng mưa để làm ra hạt lúa củ khoai
nuôi ta lớn từng ngày, từ đó mà nâng niu, giữ gìn, quyết tâm bảo vệ gia đình, quê hương, đất nước.
Thứ ba, bằng ý chí và các hành động tích cực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN như: tích
cực tham gia các hoạt động học tập về nội dung giáo dục quốc phòng, các quan điểm của Đảng về bảo vệ
Tổ quốc; tham gia đăng ký nghĩa vụ quân sự; tham gia lực lượng dân quân tự vệ, luyện tập các phương án
chiến đấu phòng thủ ở địa phương; đăng ký dự bị động viên; tích cực đấu tranh chống các hành động phá

hoại của kẻ thù và các loại tội phạm. Trong các lực lượng vũ trang, ý chí và các hành động tích cực đó
được biểu hiện ở tinh thần say sưa tích cực luyện tập kỹ thuật, chiến thuật, chấp hành nghiêm kỷ luật, tích


cực bảo vệ các đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật quân đội… đấu tranh chống
lại sự phá hoại của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta.
Ý chí bảo vệ Tổ quốc XHCN của con người Việt Nam hôm nay là sự kết tinh và được lưu truyền lại của
bao thế hệ đi trước. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, các thế hệ cha anh luôn luôn nêu
cao ý chí tự lực tự cường, quyết chiến, quyết thắng thiên tai địch họa, thoát khỏi nghèo đói, thoát khỏi cảnh
bị áp bức, nô lệ. Những truyền thuyết về Thánh Gióng, về Sơn Tinh - Thủy Tinh, nỏ thần Kim Quy… là
biểu tượng cho ý chí và nghị lực của một dân tộc biết chân trọng, giữ gìn giang sơn xã tắc để lại cho muôn
đời sau.
1.1.2. Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho thanh niên hiện nay
* Một số đặc điểm cơ bản của thanh niên hiện nay
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội hiện
tại và là người chủ tương lai của đất nước. Đánh giá vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp đổi
mới, Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI
có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con
đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng,
rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [7, tr. 82]. Đồng thời Đảng ta cũng xác định: “Chăm
lo giáo dục, đào luyện thế hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính
trị, của gia đình, nhà trường và của toàn xã hội” [8, tr. 124 - 125].
Những biến đổi của tình hình trong nước và thế giới hiện nay đang tác động mạnh mẽ đến thanh niên cả
nước và mỗi địa phương. Thanh niên đang có những thay đổi về cơ cấu xã hội, địa vị kinh tế, ý thức, tư
tưởng, tâm lý, lối sống… và những thay đổi này sẽ còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ cùng với quá trình đổi
mới, thực hiện CNH, HĐH đất nước. Xem xét thanh niên hiện nay phải đặt trong mối quan hệ tác động với
hoàn cảnh, điều kiện và môi trường xã hội, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ về thông tin, sự mở rộng
hợp tác giao lưu kinh tế, văn hoá giữa nước ta với thế giới, giữa các địa phương trong cả nước. Tình hình
thanh niên hiện nay có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, về nhận thức và thái độ chính trị.
Công cuộc đổi mới đất nước gần 20 năm qua đưa lại sự phát triển mọi mặt đã ảnh hưởng tích cực
đến tư tưởng, chính trị của thanh niên. Thanh niên hiện nay ngày càng tin tưởng vào sự nghiệp đổi
mới đất nước và coi ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới đất nước. Bằng hành động tích cực, chủ động tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, khắp nơi trong cả nước đã xuất hiện nhiều tài năng trẻ,
nhiều tấm gương trong sản xuất kinh doanh; phong trào lập thân, lập nghiệp, nghiên cứu ứng dụng


khoa học công nghệ, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, thể thao và bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên
Việt Nam ngày nay năng động, tháo vát, có trình độ học vấn, có tầm nhìn rộng và nhạy cảm với thời
cuộc. Họ rất quan tâm đến tình hình chính trị - xã hội diễn ra ở địa phương, đất nước cũng như trên thế
giới và luôn khát vọng đưa gia đình, quê hương thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Họ vừa chủ động học
hỏi trang bị kiến thức khoa học công nghệ vừa tìm cách nâng cao giác ngộ chính trị, rèn luyện tư cách
đạo đức để trở thành người công dân tốt, người cán bộ, người chiến sỹ có phẩm chất và năng lực đáp
ứng với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thanh niên hiện nay rất mong muốn được đứng trong các tổ chức chính trị để cống hiến, trưởng
thành và có nguyện vọng được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng cao.
Điều đó cho thấy, thanh niên hiện nay đang tiếp tục kế thừa và giữ vững truyền thống cách mạng của
cha anh; quan tâm đến thời cuộc và vận mệnh của đất nước; tích cực ủng hộ và chủ động tham gia vào
công cuộc đổi mới của quê hương, đất nước, các phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ
nước”, các chương trình do Trung ương Đoàn phát động. Lòng tin của thanh niên đối với Đảng, Đoàn
và chế độ XHCN được củng cố và nâng cao. Đây là yếu tố hết sức thuận lợi để giáo dục chính trị - tư
tưởng, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên. Tuy nhiên, trước tác động mặt
trái của kinh tế thị trường cũng còn một bộ phận thanh niên non kém về tư tưởng chính trị, chưa nhận
thức rõ được tình hình, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới; ngại tham gia sinh hoạt đoàn thể, xã hội;
thiếu ý thức rèn luyện, ý chí tự lực, tự cường trong học tập, lao động sản xuất vươn lên thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu.
Thứ hai, về xu hướng nghề nghiệp, đời sống văn hoá tinh thần và lối sống của thanh niên.
Trong ý thức của đại đa số thanh niên cho rằng, mặc dù họ đã có cuộc sống đầy đủ hơn trước nhưng họ

vẫn mong muốn được làm việc. Trong cơ chế thị trường, họ có ý thức cao hơn đối với giá trị sức lao
động của mình, tính hiệu quả, năng động được đánh giá cao; nhiều thanh niên tình nguyện đi xây dựng
đảo, xây dựng các khu kinh tế mới, tình nguyện tham gia giúp đỡ vùng sâu, vùng xa… Một điều dễ nhận
thấy ở thanh niên hiện nay là sự năng động, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp. Họ có xu hướng vượt
ra khỏi các giới hạn cổ truyền để hoà nhập, thích ứng với thế giới hiện đại. Song, trên thực tế vẫn còn có
những mâu thuẫn, một mặt do sự tăng nhanh nhu cầu của xã hội; mặt khác, do nhu cầu cuộc sống bức
bách, buộc một số thanh niên phải đứng trước sự lựa chọn giữa nhu cầu có việc làm, có thu nhập ngay, với
việc tiếp tục học tập để nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn và tri thức.
Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, sự giao lưu văn hoá mở rộng như hiện
nay, nhu cầu và việc thưởng thức văn hoá của thanh niên ngày càng đa dạng và ở mức độ cao. Thanh niên
hiện nay thích các loại hình nghệ thuật mới, hiện đại và nội dung thiên về các vấn đề xã hội, nhân văn và


trữ tình. Các loại hình nghệ thuật cổ như tuồng, chèo, cải lương… với những chủ đề hấp dẫn vẫn lôi cuốn
được thanh niên, nhất là ở nông thôn. Song, nhu cầu thưởng thức văn hoá nghệ thuật của thanh niên ở các
khu vực cũng có sự khác biệt tương đối lớn như: giữa khu vực thành thị với nông thôn và vùng sâu vùng
xa. Các phương tiện truyền tải thông tin được thanh niên tiếp nhận là vô tuyến truyền hình, truyền thanh,
báo chí, truyền miệng. Song sử dụng phương tiện nào lại phụ thuộc vào điều kiện của từng địa phương và
gia đình. Hiện nay đời sống văn hoá tinh thần của một bộ phận thanh niên nhìn chung còn nghèo nàn, đặc
biệt là ở các xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho
đời sống văn hoá tinh thần của thanh niên còn mỏng, hiệu quả sử dụng thấp, chất lượng kém…
Về lối sống của thanh niên hiện nay cơ bản vẫn giữ được truyền thống, đạo lý, hướng về cái đẹp, cái
thiện, tham gia đông đảo vào các hoạt động nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa… Trong giao tiếp ứng xử, thanh
niên tỏ ra mạnh dạn, tự tin và chủ động, sống có mục đích, có hoài bão, lý tưởng. Thanh niên thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên tinh thần giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, hiểu biết lịch sử, tình yêu gia
đình, quê hương, đất nước… Họ sẵn sàng tham gia thực hiện luật nghĩa vụ quân sự, tham gia xây dựng lực
lượng vũ trang địa phương và hành động tích cực cho sự nghiệp bảo vệ quê hương, đất nước. Song trong
thanh niên vẫn còn một bộ phận chạy theo lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền, sống không có lý tưởng,
thiếu tôn trọng kỷ cương phép nước, quy định của địa phương; một số có hành vi bạo lực, côn đồ, tham gia
vào các tệ nạn như cờ bạc, nghiện hút, ma túy, mại dâm, trộm cắp… nhất là ở các thành phố, thị xã… Đây

là sự cảnh báo về nguyên nhân giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội đối với thanh niên cần được
khắc phục.
Thứ ba, về thanh niên tham gia lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc.
Đại bộ phận thanh niên trong lực lượng vũ trang đều trưởng thành dưới chế độ XHCN, được học tập, đào
tạo cơ bản, có hệ thống. Nhìn chung họ có nhận thức đúng đắn về CNXH, về trách nhiệm và nghĩa vụ đối với
nhân dân, đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; luôn có ý thức tổ chức kỷ luật, tích cực học tập, rèn
luyện, công tác để tiến bộ, phấn đấu xứng danh “Bộ đội cụ Hồ”; ở những nơi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn,
căng thẳng, thanh niên vẫn luôn là lực lượng xung kích thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Trong những năm
qua, tỷ lệ quân nhân đăng ký thi vào các trường sỹ quan trong quân đội ngày càng tăng. Điều đó cho thấy,
thanh niên hiện nay coi công tác trong quân đội cũng là một nghề nghiệp và mong muốn được đi học để phục
vụ lâu dài trong quân đội.
Ngày nay, thanh niên quân nhân sống năng động và thực tế hơn, họ có mối quan tâm chung về vấn đề
công bằng xã hội, tự do, dân chủ và kỷ cương pháp luật Nhà nước. Đa số thanh niên có tâm trạng bất bình
trước tình trạng tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn mại dâm và ma túy trong
thanh niên. Nguyện vọng chung của thanh niên hiện nay là mong muốn Đảng, Nhà nước có những quy


định và chính sách phù hợp để việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự được nghiêm minh, bình đẳng giữa
mọi đối tượng; mong muốn được đơn vị tạo điều kiện học thêm văn hoá, học nghề trong thời gian tại ngũ
để có thể vừa hoàn thành nhiệm vụ trước mắt vừa có kiến thức, nghề nghiệp cần thiết cho việc lập thân, lập
nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên quân nhân vẫn
còn bồng bột, thiếu tính kiềm chế, thiếu kinh nghiệm nên dễ bị kích động, có những phản ứng tiêu cực
hoặc thể hiện thái độ thờ ơ, bàng quan trước các hoạt động của đơn vị, thậm chí vi phạm kỷ luật quân đội,
pháp luật của Nhà nước.
* Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCNcho thanh niên hiện nay
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động, ảnh hưởng có mục đích, có kế hoạch
mang tính tự giác, chủ động đến con người, đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách
con người. Theo nghĩa rộng giáo dục là toàn bộ tác động của các chủ thể xã hội (gia đình, nhà trường, xã
hội) đến con người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu là quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức,
hành vi của con người. Sự tác động của các chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm nâng cao

nhận thức, xây dựng phẩm chất nhân cách theo mô hình, mục tiêu giáo dục đã được xác định.
Mục đích của giáo dục là nhằm hình thành ở mỗi con người những phẩm chất nhân cách quan trọng
nhất, biểu hiện ở phẩm chất, năng lực và những hành vi nhằm thực hiện thắng lợi những yêu cầu phát
triển của xã hội. Nội dung giáo dục rất đa dạng và phong phú như: giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lao động, pháp luật, kinh tế, truyền thống… trong đó giáo dục chính trị, tư tưởng là một trong những nội
dung cơ bản, quan trọng hàng đầu mà mỗi quốc gia dân tộc cần phải xác định trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của mình.
Đối với nước ta, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [9, tr. 108 - 109]. Vì vậy, trong
đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta chỉ rõ: “Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo
dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức
khỏe, nghề nghiệp; giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [9, tr. 126]. Đây chính là định hướng cơ bản cho các chủ
thể giáo dục phát huy vai trò của mình trong giáo dục thế hệ trẻ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thanh niên là lực lượng cơ bản, lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để có
đầy đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh và trí tuệ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong


tình hình mới, đòi hỏi thanh niên phải được giáo dục toàn diện, trong đó giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc
XHCN là một nội dung quan trọng, giúp cho thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của mình.
Ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của thanh niên được hình thành bởi giáo dục của gia đình, nhà
trường và xã hội. Tuy mỗi môi trường giáo dục có vị trí, vai trò riêng, song giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng cùng tác động tích cực đến việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc của thanh niên; các
môi trường trên đều tác động đến nhận thức, tình cảm, động cơ, nhu cầu và hành động tích cực trên thực tế
cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của thanh niên.
Như vậy, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên hiện nay là hoạt động tự giác
của các chủ thể giáo dục tác động vào thanh niên nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng tình cảm, động cơ,

thái độ, trách nhiệm và ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sự hình thành, phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của thanh niên hiện nay chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan, trong đó vai trò giáo dục của nhà
trường, xã hội và vai trò giáo dục của gia đình có ý nghĩa rất to lớn và quan trọng.
Nội dung giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho thanh niên mang tính toàn diện. Tuy nhiên, xuất
phát từ đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi, trình độ nhận thức, sự trải nghiệm trong cuộc sống… của thanh niên,
cho nên giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho thanh niên cần tập trung vào những nội dung thiết
thực ở cấp độ ý thức thức bảo vệ Tổ quốc XHCN thông thường.
Một là, giáo dục cho thanh niên có những hiểu biết về tình yêu thương con người, tình yêu gia đình, quê
hương, đất nước, tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá độc lập dân tộc và
CNXH của nhân dân ta. Hai là, giáo dục cho thanh niên niềm tự hào về truyền thống dựng nước đi đôi với
giữ nước, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, trên cơ sở đó giúp cho
thanh niên tiếp tục kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống của các thế hệ đi trước trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Ba là, xây dựng cho thanh niên tình cảm, thái độ, trách nhiệm
đúng đắn đối với Đảng, Nhà nước, đối với chế độ XHCN và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN,
kiên quyết đấu tranh chống những tư tưởng và hành động tiêu cực phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bốn là, hình thành ở thanh niên tinh thần sẵn sàng và hành động tích cực theo
mục tiêu, yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân địa phương và gia đình; sẵn sàng xả thân vì nền độc
lập, tự do của Tổ quốc, góp phần cùng các lực lượng trong cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Như vậy, nội dung giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên là một thể thống
nhất bao gồm các các yếu tố: nhận thức, tình cảm, thái độ, trách nhiệm, tinh thần sẵn sàng và hành động
tích cực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong đó, trình độ nhận thức là cơ sở của tình


cảm, thái độ, nhu cầu và là kết quả của nhận thức; là động cơ bên trong thôi thúc hành động của thanh niên;
tinh thần sẵn sàng hành động tích cực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là kết quả cuối cùng của ý thức bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN, là thước đo trình độ nhận thức, tình cảm, thái độ, nhu cầu của thanh niên trong
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Do đó, trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho

thanh niên hiện nay cần phải coi trọng tất cả các nội dung trên.
Hình thức giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên rất đa dạng và phong phú
như: thông qua các hoạt động tuyên truyền giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng; kể chuyện
truyền thống; các lễ hội văn hoá; tham quan; các hình thức sinh hoạt đoàn thanh niên và thông qua học tập,
công tác hàng ngày của thanh niên ở gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Tuy nhiên, để lựa chọn hình
thức giáo dục phù hợp phải căn cứ vào đối tượng, đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên. Giáo dục ý thức
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên hiện nay là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của thế
hệ đi trước đối với thế hệ đi sau. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự quan tâm của nhà trường, của tất cả các cấp, các
ngành, các tổ chức, đoàn thể, các đơn vị quân đội và các gia đình trong cả nước. Có như vậy mới tạo nên
một môi trường rộng lớn, vừa trang bị nhận thức vừa bồi dưỡng tình cảm, xây dựng động cơ, thái độ đúng
đắn, nâng cao tính tích cực hành động cho thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho thanh
niên hiện nay
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên
cơ sở hôn nhân và huyết thống. C. Mác viết: “… hàng ngày tái tạo ra đời sống bản thân mình, con người
bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái,
đó là gia đình” [18, tr. 41]. Như vậy, yếu tố hôn nhân, huyết thống và tình cảm là nét đặc trưng của gia
đình. Nhưng xét đầy đủ và rộng hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình cảm - tâm lý, mà còn là một
tổ chức kinh tế - tiêu dùng, một môi trường giáo dục - văn hoá, một cơ cấu - thiết chế xã hội. Mỗi gia
đình tồn tại và phát triển do các thành tố: cấu trúc gia đình, các chức năng của gia đình, các mối quan hệ
nội tại và môi trường gia đình.
Gia đình được tạo thành, một mặt do nhu cầu xã hội về việc tái sản xuất con người và xã hội hoá các thế
hệ đang lớn lên, mặt khác do nhu cầu của các cá nhân muốn được chung sống cùng nhau, muốn được làm
cha làm mẹ. Giữa gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, xã hội tiến bộ tạo điều kiện tốt cho
gia đình phát triển lành mạnh, gia đình hạnh phúc góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của xã
hội. Với tư cách là tế bào của xã hội, gia đình thực hiện một trong những chức năng cơ bản là giáo dục con
cái trở thành người có ích cho xã hội. Vì thế gia đình có vai trò quan trọng trong giáo dục nói chung, giáo


dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên nói riêng. Để khẳng định vai trò to lớn đó cần

phải thấy rõ những đặc điểm của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho
thanh niên.
1.2.1. Đặc điểm của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
cho thanh niên hiện nay
Thứ nhất, đó là sự truyền thụ, lĩnh hội ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN của thế hệ đi trước - ông bà,
cha mẹ, những người ruột thịt cho thế hệ đi sau - con cái, thanh thiếu niên.
Đây là một đặc điểm quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ của gia đình trong CNXH mà ở đó có sự đan
xen giữa tình cảm và trách nhiệm của những người ruột thịt trong cùng một tổ ấm. Điều này làm cho
giáo dục của gia đình có những ưu thế hơn so với giáo dục trong nhà trường và ngoài xã hội. Bởi vì,
trong gia đình có đủ mọi lứa tuổi thuộc nhiều thế hệ khác nhau, chung sống với nhau tương đối bền vững
dựa trên hai mối quan hệ hôn nhân và huyết thống. Truyền thống yêu nước thương nòi, truyền thống
dựng nước đi đôi với giữ nước; tình cảm yêu gia đình, quê hương, đất nước; ý chí tự lực tự cường, lòng
căm thù giặc sâu sắc…trong lịch sử dân tộc Việt Nam được các gia đình lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Thông qua tình cảm, trách nhiệm của ông bà, cha mẹ, những người đi trước, những người đã
từng nếm mật nằm gai “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”
trong các cuộc kháng chiến giành, giữ độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục truyền thụ
những yếu tố đó cho các thế hệ đi sau và nó đã trở thành một sức mạnh to lớn giúp cho thanh thiếu niên
ngày nay phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Gia đình không những là nền móng xây dựng và hình thành nhân cách cho thanh niên mà ngay trong
nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử của thanh niên cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ gia đình. Mọi tình cảm,
tư tưởng, thái độ, hành vi ứng xử và trách nhiệm của thanh niên đối với sự nghiệp bảo vệ bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN đều thông qua quá trình truyền thụ, giáo dục của thế hệ đi trước cho thế hệ đi sau.
Những giá trị đó sẽ in dấu trong suốt quãng đời của thanh niên, trở thành tư tưởng ổn định, hun đúc trong
thanh niên tinh thần giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, ý chí quyết tâm cao khi họ trực tiếp tham gia
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tạo thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy thanh niên trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Chỗ mạnh của gia đình là kinh nghiệm xã hội, kiến thức đa dạng về dựng nước và giữ nước. Đó là một
tập thể khác nhau về tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, tính tình, bao gồm ông bà, cha mẹ, anh em, do vậy
giáo dục mang tính phối hợp nhiều mặt về kiến thức, về các mối quan hệ xã hội… Phương pháp giáo dục
của gia đình là thuyết phục, giảng giải, có lắng nghe và trao đổi ý kiến giữa các thế hệ, mà không phải là

truyền thụ và ra lệnh từ trên xuống, và cha mẹ là những người thầy dạy không tiếc công sức, thời gian để


hướng dẫn con cái về mọi mặt. Mục tiêu giáo dục của gia đình là trang bị những kiến thức cần thiết,
những kinh nghiệm sống để sau này người thanh niên có thể đảm nhận và thực hiện tốt nhiệm vụ giữ
nước mà xã hội giao phó; đồng thời nuôi dưỡng ở người thanh niên những tình cảm nhận hậu, sự nhường
nhịn, sẵn sàng hy sinh bản thân mình khi Tổ quốc cần, lòng căm thù giặc sâu sắc và không cam chịu với
nỗi nhục mất nước.
Sự lĩnh hội, truyền thụ ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên của các gia đình sẽ
không đạt hiệu quả nếu như các bậc ông bà, cha mẹ chưa nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm truyền thụ,
giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên. Nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay, khi nhiều gia đình chỉ lo kiếm sống, lo làm giàu đã quên đi hoặc giao trách nhiệm này
cho nhà trường và xã hội. Cơ chế thị trường đang tác động cả tích cực và tiêu cực đến những giá trị
truyền thống của gia đình, quê hương trong quá trình truyền thụ, lĩnh hội ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN cho thanh niên hiện nay.
Thứ hai, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của gia đình cho thanh niên không có lớp
học cụ thể; không thành chương trình, kế hoạch, nội dung thống nhất.
Đây là một đặc điểm khác so với giáo dục của nhà trường và xã hội. Với tư cách là một xã hội vi mô,
gia đình phản ánh tất cả các quan hệ xã hội và tất cả các mặt của đời sống xã hội vào bản thân nó. Để
gia đình phát huy được vai trò của mình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN nghĩa cho thanh
niên không hẳn phải tổ chức thành lớp học cụ thể; thành chương trình, kế hoạch, nội dung thống nhất
mà thông qua các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình, sự gương mẫu của các bậc
cha mẹ, sự nhận thức sâu sắc truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của các thế hệ đi trước
truyền thụ cho con cái từ lúc sinh ra cho đến khi trưởng thành.
Nếu như giáo dục ở nhà trường và ngoài xã hội được tổ chức theo một chương trình, nội dung, kế hoạch
thống nhất thì giáo dục ở mỗi gia đình lại là sự kết hợp, vận dụng có tính chất đáp ứng, giải quyết những
tình huống xảy ra trong cuộc sống. Những kiến thức, kỹ năng do gia đình cung cấp không phải là những
mớ lý thuyết trừu tượng mà nó luôn gắn với thực tiễn cuộc sống, cung cấp cho thanh niên những kinh
nghiệm sống hàng ngày. Tuy nhiên, tính chất đúng đắn của nó lại phụ thuộc vào trình độ của cha mẹ, vào
đặc điểm của văn hoá gia đình, vào khả năng sư phạm của cha mẹ và các thành viên trong gia đình.

Mặt khác, chủ thể giáo dục gia đình là cha mẹ và những người thân trong gia đình của thanh niên; đối
tượng giáo dục là con cái, mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể là mối quan hệ ruột thịt, thân tình và yêu
thương nhau đã tạo nên một nét nổi bật làm cho gia đình có một ưu thế hơn hẳn so với giáo dục ở nhà
trường và ngoài xã hội. Tình yêu đối với con cái và cuộc sống chung trong gia đình diễn ra hàng ngày đã
làm cho các bậc cha mẹ hiểu rõ con cái mình hơn bất kỳ một nhà giáo dục nào và họ biết dựa vào những


đặc điểm riêng của con cái để có cách dạy khác nhau. Một ưu thế khác của giáo dục gia đình là ở sự đa
dạng của các chủ thể giáo dục: ông bà, bố mẹ, anh chị; sự khác nhau về tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, địa
vị xã hội… là điều kiện tốt để nâng cao vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN cho thanh niên. Giáo dục vừa là nhu cầu tình cảm của cha mẹ, vừa là trách nhiệm với xã hội
và với chính hạnh phúc của bản thân gia đình. Vì vậy, cha mẹ tham gia vào giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc
XHCN cho thanh niên một cách thành tâm, nhiệt tình và vô tư. Nhưng so với nhà trường thì họ lại bị thiếu
hụt về trình độ được đào tạo sư phạm.
Từ đặc điểm này cũng cho thấy, kết quả giáo dục ý thức bảo vệ Việt Nam Tổ quốc XHCN cho thanh
niên hiện nay sẽ không đồng đều, không thống nhất. Nếu gia đình thật sự quan tâm chăm lo đến việc
nâng cao nhận thức của mình và phát huy những ưu thế trên thì chất lượng giáo dục sẽ đạt hiệu quả cao.
Ngược lại, nếu gia đình không quan tâm hoặc quá mải mê làm kinh tế, làm giàu, giao trách nhiệm giáo
dục cho nhà trường và xã hội thì chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh
niên sẽ không cao.
Thứ ba, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên của gia đình được thực hiện
với nhiều nội dung, hình thức, biện pháp phong phú.
Đây là một đặc điểm nổi bật của gia đình chiếm ưu thế hơn hẳn so với giáo dục nhà trường và xã hội. Ưu
thế nổi bật của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Việt Nam XHCN cho thanh niên ở
chỗ, cha mẹ biết rõ hơn ai hết những đặc điểm riêng của con cái mình; những động cơ, nhu cầu, những mặt
mạnh, mặt yếu, những thiếu hụt trong trình độ nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của thanh niên, và
do đó có thể tiến hành những nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục bổ sung, sửa đổi kịp thời. Trong sinh
hoạt hàng ngày, những hoạt động chung của gia đình tác động thường xuyên và sâu sắc đến thanh niên;
tấm gương của cha mẹ khi làm việc, lúc nghỉ ngơi, trong lời nói, hành vi… đều ảnh hưởng đến nhận thức,
lối sống của thanh niên. Ngay cách dạy con cái của các bậc cha mẹ cũng phản ánh một phần cách họ được

cha mẹ dạy dỗ trước đây, bằng chính sự trải nghiệm của bản thân được đúc rút lại. Nhìn chung, phương
pháp giáo dục của gia đình vô cùng phong phú, gắn liền sinh hoạt hàng ngày với việc giải quyết các tình
huống nảy sinh trong cuộc sống. Mặt khác, ở gia đình lý thuyết luôn đi với thực hành, các bài thuyết giáo
luôn đi kèm với những nhiệm vụ, những công việc được giao một cách linh hoạt, do đó hình thức, biện
pháp giáo dục cũng hết sức phong phú và đa dạng.
Mặc dù ở nhà trường và ngoài xã hội thanh niên thường xuyên được giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN thông qua các bài học, môn học, thông qua sinh hoạt cộng đồng nhưng thời gian có hạn, nội
dung có lúc còn nghèo nàn, hình thức, biện pháp chậm thay đổi nên phần nào đó thanh niên nhận thức về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN còn chung chung. Còn ở gia đình phương pháp giáo dục là thuyết phục,


giảng giải, có sự lắng nghe và trao đổi ý kiến giữa cha mẹ và con cái, mà không phải là truyền thụ một chiều
và ra lệnh; nên nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục rất đa dạng và phù hợp với tâm lý thanh niên.
Nội dung của giáo dục gia đình không chỉ chú ý đến giáo dục đạo đức, trí tuệ, lao động mà còn góp
phần giáo dục tư tưởng, chính trị, thể chất, thẩm mỹ và giáo dục đời sống gia đình cho thanh niên. Mặt
khác, những kiến thức, kỹ năng do gia đình cung cấp luôn gắn với thực tiễn cuộc sống, cung cấp cho
thanh niên kinh nghiệm sống hàng ngày. Tuy nhiên, tính chất đúng đắn của những nội dung giáo dục phụ
thuộc vào trình độ của cha mẹ và những người lớn trong gia đình, vào khả năng sư phạm của cha mẹ và
các thành viên trong gia đình. Các yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành công của bố mẹ trong giáo
dục con cái là: ý thức trách nhiệm, sự quan tâm thường xuyên, sự gương mẫu của cha mẹ trong lời nói và
việc làm; thông qua cuộc sống hàng ngày và thái độ đối xử, ứng xử xã hội của cha mẹ cũng là một yếu tố
có tính quyết định.
Những đặc điểm của gia đình nêu trên có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò của gia đình trong
giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên hiện nay.
1.2.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho thanh niên
hiện nay
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình và xã hội có quan hệ mật thiết với nhau, xã hội phát triển lành mạnh
tạo điều kiện cho gia đình tiến bộ, gia đình bình đẳng hạnh phúc góp phần quan trọng cho sự phát triển hài
hoà của xã hội. Theo Ph.ăngghen nhận định: “… Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một
thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là

do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình” [1, tr. 44]. Nhận định đó
cho thấy vai trò rất to lớn của gia đình đối với sự phát triển của xã hội.
Trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta hiện nay, gia đình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng,
góp phần quyết định vào thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức đúng đắn
vai trò to lớn của gia đình, Đảng ta khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi
dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [5, tr. 15].
Cụ thể hoá quan điểm của Đảng, Luật hôn nhân và gia đình nước ta chỉ rõ: “Gia đình là tế bào của xã
hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt” [16, tr. 7]. Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò to lớn của gia đình đối
với sự phát triển bền vững của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Nếu việc tái sản xuất ra con người là chức năng cơ bản của gia đình thì việc nuôi dưỡng, giáo dục
chúng thành người là công việc hàng đầu của gia đình. Nó thật sự là nhu cầu tình cảm của bố mẹ, là


niềm hạnh phúc lớn lao của gia đình, là trách nhiệm của gia đình đối với Tổ quốc. Nói cách khác,
người ta sinh ra không phải đã là con người mà chỉ trở thành con người trong quá trình giáo dục, trước
hết là giáo dục của gia đình.
Giáo dục - một trong những chức năng cơ bản của gia đình, sẽ tồn tại cùng với sự tồn tại của gia
đình; cũng như các chức năng khác, chức năng giáo dục của gia đình cũng có những biến đổi theo sự
biến đổi của đời sống xã hội. Gia đình là một tế bào của xã hội mà các thành viên của nó gắn kết với
nhau bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống, bằng sinh hoạt chung và trách nhiệm lẫn nhau về đạo lý
và pháp luật, mỗi con người ngay từ khi sinh ra đã được đặt vào những quan hệ nhất định đó. Tức là dù
muốn hay không, đời sống của mỗi con người thường bắt đầu diễn ra trong phạm vi gia đình; từ tình
cảm yêu thương và trách nhiệm với con cái, từ nhu cầu bản thân muốn được làm cha làm mẹ đã đưa
gia đình tới việc thực hiện chức năng giáo dục thế hệ trẻ [26, tr. 226 - 233]
Mục đích của giáo dục gia đình được quy định bởi chế độ kinh tế xã hội mà cơ sở của nó là hệ tư
tưởng, những chuẩn mực đạo đức, hệ thống mối quan hệ qua lại trong gia đình [11, tr. 234]. Mục đích
giáo dục gia đình mang tính linh hoạt, nó thay đổi theo sự vận động và phát triển của xã hội, sự biến

đổi và phát triển của đứa trẻ, phụ thuộc vào chính cuộc sống gia đình và những định hướng giá trị của
xã hội. Giáo dục gia đình đối với con cái là một quá trình kéo dài từ những năm tuổi thơ cho đến khi
trưởng thành. Cho nên, có thể nói giáo dục gia đình có vai trò to lớn tác động đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của con người trong suốt cuộc đời.
Như vậy, giáo dục gia đình ở đây được hiểu là toàn bộ những tác động của gia đình đến sự hình
thành và phát triển nhân cách con người. Không thể có sự hình thành và phát triển nhân cách một cách
đầy đủ và bền vững nếu không có một môi trường giáo dục gia đình thuận lợi. Bởi vì gia đình là thể
chế đầu tiên quan trọng nhất in dấu lên nhân cách đang hình thành ở đứa trẻ cho đến khi được hình
thành và phát triển một cách cơ bản. Càng lớn lên đứa trẻ càng thể hiện rõ nét những phẩm chất nhân
cách của cha mẹ, ông bà, của gia đình bằng hành vi ứng xử của nó đối với mọi người và xã hội.
Những đặc trưng nhân cách gia đình giáo dục cho con cái là: tên gọi, dáng đi, hành vi ứng xử, ngôn ngữ,
trí tuệ, niềm tin và cuối cùng là ý thức. Ý thức là đặc trưng riêng chỉ có ở con người, ý thức tạo cho con
người vươn lên thành nhân cách có ích cho xã hội. Gia đình giáo dục, xây dựng cho con cái các loại ý thức,
trong đó có ý thức bảo vệ Tổ quốc mà nhờ đó con người tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát
triển của xã hội, của đất nước [13, tr. 202 - 211].
Vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên là rất quan
trọng. Gia đình, nhà trường, xã hội và các đơn vị quân đội có vai trò quyết định đến việc giáo dục ý thức bảo
vệ Tổ quốc cho thanh niên, trong đó trước hết là vai trò giáo dục của gia đình. Cha mẹ sinh con, chăm lo nuôi
dưỡng, giáo dục hình thành và phát triển nhân cách cho con cái và nhân cách đó tiếp tục phát triển, hoàn thiện


khi họ ở lứa tuổi thanh niên tham gia hoạt động bảo vệ Tổ quốc XHCN. Người thanh niên khi tham gia hoạt
động bảo vệ Tổ quốc với nền tảng ý thức được giáo dục từ gia đình, họ tiếp tục bổ sung những giá trị xã hội
để hoàn thiện ý thức bảo vệ Tổ quốc cho mình, nhằm thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc. Khi
đánh giá vai trò của cha mẹ, tác giả Hoàng Gia Trang viết: “Cha mẹ là người đầu tiên biến đứa trẻ từ một
thực thể sinh vật thành thực thể xã hội” [27, tr.14]. Với một gia đình tốt, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân và là một gia
đình văn hoá, tất yếu sẽ là môi trường giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN tốt nhất cho thanh niên.
Gia đình Việt Nam, từ trước đến nay luôn giữ vai trò quyết định trong việc nuôi dạy con cái, hình thành
nhân cách ban đầu cho thế hệ trẻ; luôn giữ được vai trò là hạt nhân, là nền móng xây dựng xã hội; là cái nôi

thân yêu nuôi dưỡng con người. Lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức tự nguyện tham gia bảo vệ Tổ quốc
cũng như trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc được hình thành trong nhân cách thanh niên ngay từ thuở
ấu thơ. Tình cảm, tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương ở tuổi nhỏ là cơ sở để phát triển thành tình yêu
Tổ quốc khi bước vào tuổi thanh niên; vì vậy, gia đình là môi trường đầu tiên có vai trò quyết định việc
hình thành ý thức bảo vệ Tổ quốc cho thanh niên.
Nội dung giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của gia đình cho thanh niên khi còn nhỏ là
trang bị cho họ tình cảm yêu thương con người, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước; những kiến thức cần
thiết, những kinh nghiệm sống; niềm tự hào về truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc, tình
cảm đối với Tổ quốc, với Đảng, Bác Hồ; lòng căm thù giặc sâu sắc… Khi đến tuổi thanh niên, những nội
dung trên tiếp tục phát triển hoàn thiện trở thành ý thức bảo vệ Tổ quốc. Ở nhà trường và xã hội, nội dung
giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên là giáo dục tinh thần giác ngộ giai cấp, giác
ngộ dân tộc, tinh thần sẵn sàng tham gia bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng hành động tích cực cho sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Chủ thể của giáo dục gia đình là cha mẹ và những người thân trong gia đình của đứa trẻ. Đối tượng giáo
dục gia đình là đứa con. Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể là mối quan hệ ruột thịt, thân tình và yêu
thương nhau; sự đa dạng của các chủ thể giáo dục: bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, sự khác nhau về tuổi tác, giới
tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội, tính cách…là điều kiện tốt để phát triển trí tuệ và tình cảm, giúp trẻ có
những quan sát và nhận thức về xã hội, tập cho trẻ làm quen với xã hội bên ngoài và từ đó từng bước hình
thành tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, tình yêu Tổ quốc… kết hợp với giáo dục nhà trường và xã
hội hình thành ý thức bảo vệ Tổ quốc cho trẻ khi bước vào lứa tuổi thanh niên tham gia bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Khẳng định vai trò giáo dục của gia đình, Đảng ta đã chỉ rõ: “Giáo dục con người là chiến lược của
mọi chiến lược, nhằm xây dựng những con người mới và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập


tự do và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc…
Hoàn thành sự nghiệp đó trước hết phải thực hiện có hiệu quả việc giáo dục nói chung và giáo dục lối
sống nói riêng trong mỗi gia đình” [6, tr. 28]. Như vậy, gia đình không chỉ là nơi giáo dục cho thanh
niên ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN nói chung mà còn định hướng cho thanh niên những hành động
tích cực trên thực tế đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. Vai trò của gia đình trong giáo dục ý

thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho thanh niên hiện nay được biểu hiện cụ thể trên các nội
dung:
Một là, gia đình là môi trường đầu tiên giáo dục cho thanh niên tình cảm yêu thương con người,
tình yêu quê hương, đất nước, góp phần nâng cao nhận thức cho thanh niên về những vấn đề liên quan
đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Con người bắt đầu từ gia đình, mọi tư tưởng, tình cảm, hành vi giao tiếp, úng xử của mỗi con người
bắt nguồn từ tình cảm, lối sống và văn hoá gia đình. Bởi vì, gia đình là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng
con người, nơi con người sinh ra và hình thành nền tảng của nhân cách và lối sống. Văn hoá con người
bắt đầu từ văn hoá gia đình và mang dấu ấn của văn hoá gia đình, cái gốc văn hoá của con người là tiếp
thu từ gia đình, từ truyền thống văn hoá của gia đình, văn hoá gia đình tỏa ra trong môi trường sống,
trong không khí sống của gia đình, trong mọi ứng xử của những thành viên trong gia đình đối với nhau
và đối với những người xung quanh. Gia đình dạy thanh niên tình yêu thương con người, tình họ hàng,
làng mạc, cái Tổ quốc rất cụ thể, cái XHCN rất cụ thể. Từ những cái rất cụ thể của văn hoá gia đình
mà hàng ngày người thanh niên được cảm nhận, được tiếp thu, thấm đượm để trở thành những công
dân có văn hoá [25, tr. 71] và từ đó hình thành ở người thanh niên tình cảm đúng đắn đối với gia đình,
quê hương, đất nước, với Tổ quốc thân yêu của mình.
Khác với giáo dục nhà trường dựa vào trách nhiệm và nghĩa vụ của người học sinh, giáo dục gia
đình mang tính xúc cảm - tình cảm. Trong gia đình, giáo dục diễn ra trên cơ sở tình cảm, yêu thương
và tin cậy nhau giữa cha mẹ và con cái, vì vậy những tác động của gia đình, của cha mẹ được con cái
dễ tiếp nhận hơn ở nhà trường; cuộc sống giữa những người thân yêu, ruột thịt là điều kiện tốt nhất để
giáo dục thanh niên tình cảm, đạo đức, trách nhiệm đối với làng xóm, quê hương, đất nước. Trong mỗi
gia đình, cha mẹ là người biết rõ hơn ai hết những đặc điểm riêng của con mình, những mặt mạnh, mặt
yếu, những thiếu hụt trong tình cảm… và do đó có thể bổ sung những hình thức, biện pháp giáo dục
phù hợp giúp cho thanh niên có những nhận thức, tình cảm nhất định về xây dựng và bảo vệ quê
hương, đất nước. Bên cạnh đó, giáo dục gia đình được thực hiện trong chính cuộc sống hàng ngày của
gia đình, thông qua những hoạt động thực tiễn của con cái, do đó giáo dục gia đình so với giáo dục nhà


×