Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

LÊ THỊ THANH TIỀN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

LÊ THỊ THANH TIỀN

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI BN BÁN HÀNG GIẢ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

KHĨA 25 - 26
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
HÀNH VI BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Cao Vũ Minh
Học viên: Lê Thị Thanh Tiền
Lớp: Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính


Khóa: 25-26

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài: “Xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả” là công trình nghiên cứu do chính
tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Cao Vũ Minh. Luận văn có sử
dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin
này đều được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thông tin được sử
dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực.
Tác giả

Lê Thị Thanh Tiền


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ........................................... 4
6. Cơ cấu của đề tài ............................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI BN BÁN HÀNG GIẢ ........................... 5
1.1. Vi phạm hành chính về hành vi buôn bán hàng giả ................................... 5
1.1.1. Khái niệm “hàng giả” và “buôn bán hàng giả” .................................. 5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về bn bán hàng giả ...... 8

1.1.3. Các vi phạm hành chính cụ thể liên quan đến hành vi buôn bán
hàng giả ......................................................................................................... 15
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng giả ........... 18
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
bn bán hàng giả ......................................................................................... 18
1.2.2. Mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán
hàng giả ......................................................................................................... 23
1.2.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán
hàng giả. ........................................................................................................ 25
1.2.4. Hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng giả ................................ 31
1.2.5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán
hàng giả ......................................................................................................... 33
1.2.6. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán
hàng giả ......................................................................................................... 36


1.2.7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng
giả ................................................................................................................... 38
Kết luận chương 1 ................................................................................................... 40
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT
ĐỘNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ .............................................................................................................. 41
2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
bn bán hàng giả và giải pháp hồn thiện...................................................... 41
2.1.1. Những mặt tích cực ............................................................................. 41
2.1.2. Những vướng mắc, bất cập và giải pháp hoàn thiện ........................ 46
2.2. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng
giả và giải pháp hồn thiện ................................................................................ 59
2.2.1. Tình hình vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính đối

với hành vi bn bán hàng giả ..................................................................... 59
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập và giải pháp hoàn thiện ........................ 65
Kết luận chương 2 ................................................................................................... 76
Kết luận chung ......................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, kinh tế thế giới biến động phức tạp, thương mại sụt giảm nghiêm
trọng. Mức tăng trưởng thế giới năm 2018 chỉ đạt ở mức 2,7%, tăng trưởng toàn cầu
thấp hơn rất nhiều so với dự báo1. Tình hình kinh tế thế giới khó khăn đã có những
tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, trong những năm qua, hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước khơng thuận lợi. Lợi
dụng khó khăn trong nước, các đối tượng làm ăn phi pháp đã bất chấp quy định
pháp luật, sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi trong hoạt động buôn lậu, gian lận thương
mại, vận chuyển buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất
lượng… để kiếm lời bất chính. Đặc biệt là dịp cuối năm và Tết nguyên đán, thị
trường hàng hóa trở nên sơi động do nhu cầu mua sắm của người dân tăng cao, đây
cũng là thời điểm và cơ hội để các hàng hóa kém chất lượng, hàng cấm, hàng giả trà
trộn vào thị trường. Nạn buôn bán hàng giả ở nước ta trong những năm gần đây
diễn biến phức tạp, mang tính thời sự và có xu hướng gia tăng về quy mơ, chủng
loại hàng hóa với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Chính vì vậy, việc đấu tranh phòng
chống hàng giả là một vấn đề cấp thiết và được các cơ quan chức năng cũng như cả
xã hội quan tâm.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ
về đẩy mạnh cơng tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả

trong tình hình mới và Kế hoạch số 3036/KH-BCT ngày 13/4/2017 của Bộ Công
thương, các cơ quan chức năng đã tích cực tổ chức nhiều đợt kiểm tra nhằm phát
hiện và xử phạt những trường hợp gian lận thương mại, góp phần bình ổn thị trường
những tháng cuối năm. Tại Tp. Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân thành phố cũng chỉ
đạo các Ủy ban nhân dân các quận, huyện nâng cao trách nhiệm, tăng cường công
tác kiểm tra, kịp thời nắm chắc tình trạng chứa trữ, trung chuyển hàng hóa nhập lậu,
gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn.
Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những biện pháp để duy trì trật tự
quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả không nằm ngồi ý nghĩa đó,

Hồ Quế Hậu (2019), “Cách mạng cơng nghiệp 4.0 ở Việt Nam: Tiềm năng, rào cản và vai trị của Nhà
nước”, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 260.
1


2

nhằm duy trì trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực hàng hóa, góp phần giảm lượng
hàng giả trên thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước và cơng dân.
Hiện nay, tình hình hàng giả đang được bày bán trên thị trường khơng thun
giảm mà cịn có chiều hướng gia tăng. Cơng tác xử phạt vi phạm hành chính đối với
hàng giả gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, các cơ quan nhà nước vẫn bị “trói
tay” khi triển khai pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hàng giả vào cuộc
sống. Do đó, việc nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối với hàng giả nhằm chỉ ra những bất cập và đưa
ra kiến nghị hoàn thiện là việc làm hết sức cần thiết. Chính vì lý do đó, tác giả quyết
định lựa chọn đề tài: “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán
hàng giả” để làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thơng qua q trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy liên quan đến đề tài của
mình đã có một số cơng trình nghiên cứu sau đây:
Sách chun khảo Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 do PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp làm chủ biên, Nxb. Hồng Đức năm 2017. Đây
là cơng trình nghiên cứu, bình luận chuyên sâu các quy định của Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012. Trong đó có các quy định về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hàng giả. Tuy nhiên, nội dung của tác phẩm chỉ dừng lại ở góc độ
bình luận các điều luật trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 chứ chưa
phân tích, đánh giá, bình luận một cách tồn diện các quy định xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả. Trên tinh thần tiếp thu các kết quả
nghiên cứu trong tác phẩm này, tác giả sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng để phân tích,
đánh giá một cách đầy đủ, chi tiết hơn các quy định của pháp luật có liên quan về
vấn đề này.
Ngồi ra, cịn có một số luận văn thạc sĩ liên quan đến xử phạt vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực y tế, xay dựng, báo chí… Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nghiên cứu nào liên quan trực tiếp đến xử phạt vi phạm hành chính đối với bn
bán hàng giả. Qua đó có thể thấy rằng, đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi bn bán hàng giả” là một đề tài mới và phù hợp với thực tiễn quản lý.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích đề tài là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, phân tích,
đánh giá một cách tồn diện các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn xử phạt
hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả. Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất


3

kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn
bán hàng giả cũng như công tác thi hành pháp luật trên thực tế.
Xuất phát từ mục đích trên, tác giả xác định:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận về xử phạt vi

phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả.
- Làm rõ những vấn đề pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi buôn bán hàng giả, chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật về
vấn đề này.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi buôn bán hàng giả và chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong
việc thực thi trên thực tế.
- Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như công tác áp dụng
pháp luật trong thực tiễn khi xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán
hàng giả.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích các vấn đề lý
luận cũng như quy định của pháp luật liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi bn bán hàng giả; tổng hợp, phân tích các vấn đề pháp lý có liên quan
từ thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong đánh giá các quy định của pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả qua các thời kỳ
để thấy được sự thay đổi của pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, so sánh quy
định của các văn bản pháp luật có liên quan cùng điều chỉnh về hành vi bn bán
hàng giả nhằm mục đích chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt cũng như lý giải
cho những điểm tương đồng, khác biệt đó và đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
- Phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp các quy định pháp luật có
liên quan cũng như các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn áp dụng xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả làm cơ sở dữ liệu để phân tích,
đánh giá một cách tồn diện các vấn đề pháp lý và thực tiễn.
- Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để thu thập ý kiến đánh giá
của người tiêu dùng, của tổ chức đối với hành vi buôn bán hàng giả.



4

5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi bn bán hàng giả có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết
trong bối cảnh hiện nay. Do đó, nội dung của đề tài đáp ứng được điều kiện về tính
mới cũng như có khả năng ứng dụng cao. Những kiến nghị của luận văn hy vọng sẽ
đem lại kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật, góp phần bảo
đảm cho pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Từ đó, nâng cao hơn nữa
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Đề tài còn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên và những ai quan tâm
đến đề tài này. Mặt khác, với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường
nguyên tắc pháp quyền trong quản lý nhà nước nói chung và hoạt động thương mại
nói riêng thì đề tài sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm công việc thực tiễn như
lực lượng thanh tra chuyên ngành...
6. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có
hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi buôn bán hàng giả
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả và một số giải pháp hoàn thiện.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI HÀNH VI BN BÁN HÀNG GIẢ

1.1. Vi phạm hành chính về hành vi bn bán hàng giả
1.1.1. Khái niệm “hàng giả” và “buôn bán hàng giả”
Trong những năm qua, cùng với xu thế hội nhập kinh tế thế giới, tình hình
sản xuất, bn bán hàng giả có diễn biến ngày càng phức tạp, khơng chỉ gây thiệt
hại cho lợi ích quốc gia mà cịn gây thiệt hại cho nền kinh tế thế giới. Nhiều nước
trên thế giới đã có những giải pháp hữu hiệu nhằm đấu tranh, phịng chống nạn sản
xuất, bn bán hàng giả. Để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp,
nhà sản xuất và của người tiêu dùng, nhà nước Việt Nam đã có những quan tâm
hàng đầu phòng chống và ngăn ngừa hàng giả.
Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “hàng giả” là “hàng khơng có giá trị
sử dụng hay khơng có cơng dụng như hàng thật”2. Theo Phịng Thương mại Quốc tế
(ICC) thì hàng giả là “hàng tiêu dùng vi phạm luật bản quyền giả hiệu với mẫu mã
giống những thương hiệu có tiếng rồi bán ra thị trường để gạt người tiêu thụ bằng
cách bán giá cao để lời to. Hàng giả có phẩm chất kém, khơng bị ràng buộc bởi tiêu
chuẩn kiểm sốt về phẩm chất của xí nghiệp hay tiêu chuẩn an toàn của nhà
nước”3. Như vậy, cách định nghĩa của Phịng Thương mại Quốc tế (ICC) có phần cụ
thể hơn so với Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam bởi đã nói lên các thuộc tính của hàng
giả.
Tài liệu tập huấn về phân biệt hàng thật với hàng giả của Cục Quản lý thị
trường (Bộ Cơng thương) thì khơng nêu lên khái niệm hàng giả mà liệt kê có bốn
loại hàng giả gồm: i. hàng giả về chất lượng và cơng dụng; ii. hàng giả mạo nhãn
hiệu hàng hóa, bao bì hàng hóa; iii. hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ; iv. các loại tem,
nhãn, bao bì hàng hóa giả. Trong đó, hàng giả chất lượng và cơng dụng là hàng hóa
khơng có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất tự
nhiên, tên gọi và cơng dụng của hàng hóa. Hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì
hàng hóa là hàng hóa giả mạo tên, địa chỉ của thương nhân khác trên nhãn hoặc bao
bì cùng loại hàng hóa hoặc giả mạo chỉ dẫn về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất,
đóng gói, lắp ráp hàng hóa trên nhãn hoặc bao bì hàng hóa. Giả mạo về sở hữu trí
tuệ là hàng hóa, bao bì hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân
biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà

Nguyễn Lân (2006), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr. 804.
ICC International Chamber of Commerce (2013), “Countering Counterfeiting: A Guide to Protecting and
Enforcing Intellectual Property Rights”, International Business Magazine, United Kingdom, No. 5.
2
3


6

không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu, của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý hoặc
sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác
giả hoặc quyền liên quan. Tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả gồm các loại đề can, nhãn
hàng hóa, bao bì hàng hóa, tem chất lượng, tem chống giả, phiếu bảo hành, niêm
màng co hàng hóa có nội dung giả mạo tên, địa chỉ thương nhân, nguồn gốc hàng
hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa4.
Dưới góc độ pháp lý thì hàng giả gồm: i. hàng hóa khơng có giá trị sử dụng,
cơng dụng; có giá trị sử dụng, cơng dụng khơng đúng với nguồn gốc bản chất tự
nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, cơng dụng khơng đúng với giá trị sử
dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký; ii. hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ
tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của
hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy
chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; iii.
thuốc phịng bệnh, chữa bệnh cho người, vật ni khơng có dược chất; có dược chất
nhưng khơng đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược chất đã đăng ký;
có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; iv. thuốc bảo vệ
thực vật khơng có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với
tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng; không đủ
loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng
hóa; v. hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa
chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa;

giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương
nhân khác; vi. hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về
nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa; vii. hàng hóa giả mạo
về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) bao gồm: hàng hóa giả mạo nhãn hiệu (là hàng hóa, bao bì của
hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà khơng được phép của
chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý) và hàng hóa sao chép
lậu (là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc
quyền liên quan)5; viii. tem, nhãn, bao bì giả gồm đề can, nhãn hàng hóa, bao bì
hàng hóa, các loại tem chất lượng, phiếu bảo hành, niêm màng co hàng hóa hoặc vật
phẩm khác của cá nhân, tổ chức kinh doanh có chỉ dẫn giả mạo tên và địa chỉ của
Cục Quản lý thị trường - Bộ Công thương (2015), Tài liệu tập huấn về phân biệt hàng thật với hàng giả, Tài
liệu lưu hành nội bộ, tr. 6.
5
Khoản 2 và 3 Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
4


7

thương nhân khác; giả mạo tên thương mại, tên thương phẩm hàng hóa, mã số đăng
ký lưu hành, mã vạch hoặc bao bì hàng hóa của thương nhân khác 6. Tuy nhiên, quy
định trên vẫn chỉ mang tính liệt kê các loại hàng giả mà chưa có định nghĩa chính
xác. Theo tác giả, việc đưa ra khái niệm về hàng giả đóng vai trị rất quan trọng.
Điều này khơng chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa trong thực tiễn đấu
tranh phòng chống tệ nạn hàng giả. Do đó, có thể hiểu, “hàng giả là những sản
phẩm, hàng hóa được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản
phẩm, hàng hóa được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị
trường hoặc những sản phẩm, hàng hóa khơng có giá trị sử dụng đúng với nguồn

gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và cơng dụng của nó hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản
tạo nên giá trị sử dụng, cơng dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so
với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký”.
Qua khái niệm trên, có thể thấy hàng giả được xác định là hàng khơng có giá
trị sử dụng, cơng dụng khơng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên hoặc như đã
đăng ký, hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật
cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, cơng dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở
xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký... Hàng giả
không đơn thuần chỉ là hàng kém chất lượng sử dụng mà cịn là hàng hóa có nhãn
hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác, giả
mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa, giả mạo mã số đăng ký lưu
hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác, giả mạo mã số
đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác...
Như đã trình bày, hàng giả được định nghĩa có nhiều loại khác nhau. Hiện
nay, trong xã hội, có những loại hàng giả mà người tiêu dùng có thể xác định được
ngay bằng trực quan sinh động. Tuy nhiên, cũng có những loại hàng giả tinh vi mà
việc đánh giá phải do cơ quan chức năng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành.
Hàng giả là một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội. Hệ lụy tiêu cực
mà hàng giả mang lại cho xã hội là rất to lớn. Nó ảnh hưởng đến sức khỏe, tài chính
của người tiêu dùng, làm suy giảm niềm tin của người tiêu dùng và gây nên những
hậu quả tiêu cực đến tính minh bạch của thị trường hàng hóa, làm giảm uy tín của
các nhà sản xuất chân chính. Cụ thể, những mặt hàng gia dụng, đồ điện tử bị làm giả
đa phần gây thiệt hại cho người tiêu dùng về mặt kinh tế. Đối với các mặt hàng thực
phẩm, thuốc chữa bệnh giả, hậu quả mang lại là vô cùng nghiêm trọng về mặt sức
Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
6



8

khỏe, thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng. Do đó, để ngăn chặn tệ nạn hàng
giả thì phải quyết liệt đấu tranh chống lại hành vi buôn bán hàng giả.
Theo khoản 2 Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) thì “bn bán là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn,
bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa hàng hóa vào lưu thơng”. Với
tư duy đó thì “bn bán hàng giả là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất
khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa hàng giả vào lưu thông trong thị trường”.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về bn bán hàng giả
1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
Khi đề cập đến pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thì một trong những
vấn đề cần được quan tâm hàng đầu là cơ sở của việc xử phạt. Cơ sở pháp lý của
việc xử phạt vi phạm hành chính là có hành vi vi phạm được pháp luật quy định.
Việc nghiên cứu về khái niệm vi phạm hành chính vừa có ý nghĩa lý luận vừa mang
tính thực tiễn sâu sắc.
Khái niệm vi phạm hành chính được định nghĩa lần đầu tiên trong Pháp lệnh
Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989. Theo đó, khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt
vi phạm hành chính năm 1989 quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá
nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà
nước mà khơng phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt vi phạm hành chính”. Tuy nhiên, khái niệm này lại tồn tại rất nhiều bất cập. Cụ
thể, khái niệm này thiếu các dấu hiệu về năng lực trách nhiệm hành chính của chủ
thể và có sự khơng chính xác khi cho rằng các quy tắc quản lý nhà nước là khách
thể của vi phạm hành chính7.
Khác với Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính năm 1995 khơng đưa ra khái niệm trực tiếp về vi phạm hành
chính. Khái niệm này chỉ được quy định gián tiếp thông qua khái niệm xử phạt vi

phạm hành chính. Theo đó, “xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá
nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vơ ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính” (Điều 1). Sau này, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) cũng đã kế thừa cách quy định này. Theo

Lê Vương Long (2003), “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật
học số 9.
7


9

đó, “xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức
(sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt hành chính” (khoản 2 Điều 1). Thiết nghĩ, vi phạm
hành chính là khái niệm cơ bản nhất của pháp luật về xử phạt nên không thể được
quy định gián tiếp thông qua một khái niệm khác. Việc đưa ra định nghĩa về vi
phạm hành chính sẽ tạo ra cách hiểu thống nhất, chính xác về vi phạm hành chính
và cũng là cơ sở để dự liệu đúng các loại vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực
quản lý nhà nước8.
Đáp ứng đòi hỏi khách quan này, ngày 20/6/2012, Quốc hội ban hành Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã
đưa ra định nghĩa cụ thể về vi phạm hành chính. Theo đó, vi phạm hành chính là
hành vi có lỗi, do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt vi phạm hành chính9. Mặc dù đã được quy định cụ thể bằng luật nhưng định
nghĩa “vi phạm hành chính” vẫn có những hạn chế nhất định về kỹ thuật lập pháp.
Thứ nhất, cụm từ “mà khơng phải là tội phạm hình sự” rất dễ làm cho những

người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính “chờ đợi” cơ quan hình sự phán
xét hành vi đó khơng phải là tội phạm thì mới xem là vi phạm hành chính.
Thứ hai, khách thể của vi phạm hành chính khơng chỉ là các quy tắc quản lý
nhà nước mà cịn là quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức. Cụm từ “vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước” chưa thể hiện rõ được khách thể
bào vệ là quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức.
Trên cơ sở khái niệm vi phạm hành chính nói chung, có thể tìm hiểu về khái
niệm vi phạm hành chính về bn bán hàng giả. Hiện nay, việc xử phạt vi phạm
hành chính về bn bán hàng giả được điều chỉnh bởi Nghị định số 185/2013/NĐCP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) của Chính phủ. Tuy nhiên,
Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐCP) lại không đưa ra khái niệm vi phạm hành chính về bn bán hàng giả. Có lẽ nhà
làm luật cho rằng đã khái niệm vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 thì khơng cần phải có khái niệm vi phạm hành chính đối với các
hành vi cụ thể (bn bán hàng giả, sản xuất hàng cấm, kinh doanh hàng hóa nhập
lậu…). Tuy nhiên, dù thế nào đi chăng nữa thì sự “phớt lờ” này cũng có những hạn
Nguyễn Cảnh Hợp - Cao Vũ Minh (2011), “Hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính từ kinh nghiệm của
Liên bang Nga”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18.
9
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
8


10

chế nhất định bởi vi phạm hành chính khơng thể nói chung mà phải gắn với từng
lĩnh vực, thậm chí là từng hành vi cụ thể. Do đó, khái niệm vi phạm hành chính về
bn bán hàng giả cần được được định danh rõ ràng, cụ thể để từ đó có thể xác định
được các dấu hiệu đặc trưng của vi phạm hành chính liên quan đến hành vi này.
Theo tác giả, vi phạm hành chính về bn bán hàng giả diễn ra rất phổ biến,
có tính chất và mức độ nguy hiểm khá cao. Do đó, vấn đề cấp thiết là cần có định
nghĩa trực tiếp, cụ thể và chính xác liên quan đến khái niệm vi phạm hành về bn

bán hàng giả. Từ những phân tích trên, tác giả có thể đưa ra định nghĩa vi phạm
hành chính về buôn bán hàng giả như sau: “vi phạm hành chính về bn bán hàng
giả là việc cá nhân, tổ chức thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chào
hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập
khẩu và hoạt động khác đưa hàng giả vào lưu thông trên thị trường mà theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
1.1.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính về bn bán hàng giả
Muốn xác định một hành vi có phải là vi phạm hành chính về bn bán hàng
giả hay khơng thì cần xác định các đặc điểm của vi phạm hành chính đối với hành vi
này. Nhìn chung, vi phạm hành chính về bn bán hàng giả thường có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, vi phạm hành chính về bn bán hàng giả ln thể hiện dưới dạng
hành động.
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những dấu hiệu biểu hiện ra bên
ngoài mà con người có thể nhận biết được. Trong mặt khách quan của vi phạm hành
chính thì hành vi trái pháp luật là dấu hiệu bắt buộc. Hành vi trái pháp luật thường
được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Với cách tiếp cận đó thì
vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả cũng là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên,
cần lưu ý là vi phạm hành chính về bn bán hàng giả ln thể hiện dưới dạng hành
động như: chào hàng, bày bán, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu,
nhập khẩu hay các hoạt động khác nhằm đưa hàng giả vào lưu thông trên thị trường.
Trên thực tế, hành vi buôn bán hàng giả có biểu hiện rất đa dạng như: bn bán
hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa; bn bán hàng giả khơng có giá trị
sử dụng, cơng dụng; bn bán tem, nhãn, bao bì giả. Bn bán hàng giả phải là hành
vi đã và đang được thực hiện chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là
dự định. Như vậy, có thể khẳng định, khác với các vi phạm hành chính nói chung, vi
phạm hành chính về bn bán hàng giả là hành vi thể hiện dưới dạng hành động mà
không bao gồm hành vi thể hiện dưới dạng không hành động. Sở dĩ như vậy vì bn
bán hàng giả là hành vi đưa hàng giả vào lưu thông trên thị trường, đưa hàng giả đến
với người tiêu dùng. Một khi muốn đưa hàng giả vào lưu thơng trên thị trường thì



11

chủ thể phải thực hiện hàng loạt các hành động nhất định như chào hàng, bày bán,
bảo quản, vận chuyển... Chính vì tính chất “động” đó mà vi phạm hành chính về
bn bán hàng giả thường thể hiện dưới dạng hành động. Cụ thể là trong Nghị định
số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) thì hành
vi vi phạm liên quan đến buôn bán hàng giả luôn thể hiện dưới dạng hành động.
Thứ hai, vi phạm hành chính về bn bán hàng giả thường mang tính chất
kéo dài và vi phạm với số lượng lớn.
Trong thời gian qua, số vụ việc vi phạm hành chính liên quan đến hàng giả
ngày càng gia tăng, sản phẩm hàng giả lan rộng ra nhiều ngành nghề như đồ điện
gia dụng, máy móc sản xuất, dung dịch sản xuất mỹ phẩm. Việc sản xuất, bn bán
hàng giả có quy mơ và số lượng lớn, đặc biệt đối với nhóm hàng hóa có ảnh hưởng
đến sức khỏe như thực phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, thuốc chữa bệnh10.
Trên địa bàn Tp. Hà Nội xuất hiện các loại hàng giả chủ yếu giả về chất lượng và
công dụng, giả mạo nhãn hiệu, bao bì hàng hóa, giả mạo về sở hữu trí tuệ và các loại
tem, nhãn… Đáng lo ngại, những vụ việc nổi cộm về hàng giả tập trung vào nhóm
thực phẩm ăn uống, liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người. Theo số liệu thống
kê của Ban chỉ đạo 389 Tp. Hà Nội, trong dịp cuối năm 2017, các lực lượng chức
năng trên địa bàn thành phố đã thanh tra, kiểm tra 30.077 vụ và tiến hành xử phạt
1.981 vụ vi phạm về hàng giả11.
Nắm bắt tâm lý ưa chuộng hàng hóa giá rẻ, hàng khuyến mại của người tiêu
dùng nên nhiều đối tượng đã buôn bán hàng giả mà bất chấp đạo đức kinh doanh và
sử khỏe, tính mạng của người tiêu dùng. Trong bối cảnh “người khôn của khó”, kinh
tế phát triển, vật giá leo thang, chi tiêu hàng ngày của mỗi gia đình cần phải cân
nhắc cẩn thận thì nhu cầu sử dụng hàng hóa giá rẻ của người dân ngày càng cao.
Khi nhu cầu sử dụng hàng hóa giá rẻ của người dân tăng cao thì nhiều người lại có
một mảnh đất “màu mỡ” cho việc buôn bán hàng giả. Đối với những vi phạm hành

chính về bn bán hàng giả thì một đặc trưng cơ bản là hành vi vi phạm mang tính
chất kéo dài. Nếu trong lĩnh vực giao thông, các vi phạm hành chính diễn ra và có
thể chấm dứt ngay (vượt đèn đỏ, khơng có tín hiệu báo khi rẽ…) thì trong bn bán
hàng giả, nhiều vi phạm mang tính chất kéo dài và vi phạm với số lượng lớn. Đơn cử,
các hành vi chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ
Ban Chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (Ban Chỉ đạo 389), Thống kê công
tác xử phạt vi phạm hành chính về gian lận thương mại và hàng giả 06 tháng đầu năm 2018, Tài liệu tập
huấn cơng tác xử phạt vi phạm hành chính, tr. 03.
11
Infonet (bộ Thông tin và truyền thông), “Tuyên chiến” với hàng giả, hàng kém chất lượng dịp Tết 2019,
ngày 09/12/2018. Truy cập: ngày 9/1/2019.
10


12

thường được thực hiện liên tục, mang tính kéo dài. Số lượng hàng hóa rất lớn và chủng
loại cũng rất đa dạng. Theo số liệu báo cáo của Chi cục Quản lý thị trường Thành phố
Hồ Chí Minh thì trong năm 2017, lực lượng này đã xử phạt 1.579 vụ bn bán hàng
giả mà đa phần các vụ có thời gian vi phạm khá dài12. Tương tự, 10 tháng đầu năm
2018, lực lượng quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt vi phạm
hành chính hơn 1.250 vụ bn bán hàng giả. Trong đó, có rất nhiều hành vi bn bán
hàng giả đã được thực hiện “trót lọt” trong các năm qua13.
Thứ ba, chủ thể thực hiện hành vi buôn bán hàng giả thường là tổ chức, cá
nhân đủ 18 tuổi trở lên. Đặc biệt vi phạm hành chính về bn bán hàng giả cịn
được thực hiện bởi các chủ thể khá đặc thù là hộ gia đình, hộ kinh doanh.
Giống như nhiều hành vi vi phạm khác, vi phạm liên quan đến hành vi buôn
bán hàng giả được thực hiện bởi chủ thể là tổ chức, cá nhân có năng lực trách nhiệm
hành chính. Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm
hành chính phải là người khơng mắc các bệnh dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc

khả năng điều khiển hành vi và đạt độ tuổi theo quy định pháp luật14. Về nguyên tắc,
người từ đủ 14 tuổi trở lên là chủ thể của vi phạm hành chính nhưng trong lĩnh vực
bn bán hàng giả thì chủ thể của vi phạm hành chính thường ở độ tuổi từ đủ 18
tuổi trở lên. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, các vi phạm liên quan đến buôn bán
hàng giả… đều do người đã thành niên vi phạm. Trong lĩnh vực giao thơng, trật tự
an tồn xã hội thì người chưa đủ 18 tuổi - tức người chưa thành niên thường xuyên
bị xử phạt vi phạm hành chính do dễ bị kích động, dụ dỗ, lơi kéo15. Khác với các
hành vi điều khiển xe khơng có giấy phép lái xe phù hợp với hạng xe, điều khiển xe
lạng lách, đánh võng, vi phạm liên quan đến buôn bán hàng giả thường do người đã
thành niên vi phạm. Rất hiếm các vi phạm được thực hiện bởi người chưa thành
niên. Có lẽ khi bước vào độ tuổi trưởng thành và phát triển đầy đủ về thể chất, tâm
sinh lý thì con người mới ý thức những lợi ích vật chất thu được từ hành vi bn
bán hàng giả. Do đó, khi nhu cầu tối đa hóa lợi nhuận tăng cao, nhằm thỏa mãn nhu
cầu này một cách bất hợp pháp mà nhiều cá nhân đã bất chấp các quy định pháp
luật, từ đó dẫn đến vi phạm hành chính về bn bán hàng giả.
Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2017, ngày
14/12/2017.
13
Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tình hình hoạt động 10 tháng đầu năm 2018,
ngày 21/12/2018.
14
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Trần Minh Hương chủ biên, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, tr. 321.
15
Cao Vũ Minh (2015), “Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng nhằm bảo
vệ quyền của người chưa thành niên theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 20.
12



13

Khác với một số hành vi vi phạm, chủ thể vi phạm hành chính thường là cá
nhân thì vi phạm hành chính về bn bán hàng giả, chủ thể vi phạm hành chính là tổ
chức chiếm số lượng khá nhiều. Trong 03 năm từ 2015 - 2018, có đến 4.042 tổ chức
bị xử phạt vi phạm vi phạm hành chính liên quan đến hành vi buôn bán hàng giả
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh16. Bên cạnh đó, vi phạm hành chính trong lĩnh
vực này cịn được thực hiện bởi chủ thể đặc trưng là hộ gia đình, hộ kinh doanh.
Theo thống kê, trong năm 2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Bình Tân đã xử phạt
45 hộ gia đình, hộ kinh doanh có hành vi bn bán hàng giả17. Tương tự, trong năm
2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Tân Bình xử phạt 41 hộ gia đình, hộ kinh doanh
có hành vi bn bán hàng giả 18.
Thứ tư, hành vi buôn bán hàng giả thể hiện với hình thức lỗi cố ý.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính nói
chung và vi phạm hành chính về bn bán hàng giả nói riêng. Tuy chủ thể có thực
hiện hành vi trái pháp luật nhưng khơng có lỗi thì khơng thể xem là vi phạm. Do đó,
lỗi là yếu tố khơng thể thiếu trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính. Vi phạm
hành chính về bn bán hàng giả thường không phân biệt lỗi cố ý hay lỗi vô ý vì các
vi phạm hành chính liên quan đến hành vi này đều ít nhiều gây nguy hiểm cho xã
hội. Tuy nhiên, vi phạm hành chính về bn bán hàng giả phải được thực hiện với
lỗi cố ý. Phần lớn người buôn bán hàng giả là cá nhân, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh
doanh đều là những chủ thể nhận thức rõ ràng về pháp luật và ý thức được các
quyền năng liên quan đến việc bn bán hàng hóa của mình. Bên cạnh đó, trong
thời gian qua, Cục Quản lý thị trường, các Chi cục Quản lý thị trường, thậm chí là
các Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã đã chú trọng thực hiện các biện pháp tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kinh doanh và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng nhằm bảo đảm hiệu quả đối với hoạt động quản lý nhà nước về kinh doanh
thương mại. Do đó, các chủ thể vi phạm hành chính về bn bán hàng giả hồn tồn
nhận thức rõ ràng về hành vi của mình. Như vậy, nếu thực hiện hành vi bn bán
hàng giả thì rõ ràng vi phạm này được thực hiện với lỗi cố ý.

Theo khảo sát bằng phiếu điều tra xã hội học đối với 100 hộ gia đình, hộ kinh
doanh, cá nhân bn bán hàng hóa trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, khi được hỏi
“Anh/ chị có biết bn bán hàng giả là hành vi trái pháp luật hay khơng?” thì có
đến 100 % (100 hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân) có câu trả lời là “Biết”. Qua

Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tình hình hoạt động 10 tháng đầu năm 2018,
ngày 21/12/2018.
17
Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2018, ngày 06/12/2018.
18
Ủy ban nhân dân quận Tân Bình, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2018, ngày 20/12/2018.
16


14

kết quả khảo sát cho thấy tất cả chủ thể bn bán, kinh doanh hàng hóa đều hiểu
biết về quy định pháp luật.
Thứ năm, hành vi buôn bán hàng giả đa phần thể hiện với hình thức lỗi cố ý.
Hành vi buôn bán hàng giả xâm phạm đến trật tự trong hoạt động quản lý thị
trường của nhà nước. Hành vi trên đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp cúa người buôn bán hàng thật và của người tiêu dùng. Do đó, khi thực hiện
hành vi này, chủ thể luôn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi buôn bán hàng giả được
thực hiện nhằm làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với hàng thật. Trên thực tế,
người tiêu dùng bằng mắt thường hay bằng trực quan sinh động vẫn có thể phát hiện
ra hàng giả nhưng việc người tiêu dùng biết được hàng giả là ngoài ý muốn của
người vi phạm. Đây là điểm quan trọng nhằm phân biệt việc buôn bán hàng giả với
việc buôn bán những hàng hóa có tính chất bắt chước hàng thật phục vụ nhu cầu của
người tiêu dùng như buôn bán hàng giả cổ, chân tay giả, (dùng trong nha khoa), hoa
giả, hàng giả da… Khi thực hiện hành vi bn bán hàng giả thì người vi phạm

hướng đến mục đích thu lợi bất chính. Nhìn chung, đây là đặc điểm cơ bản khơng
thể thiếu vì bn bán hàng giả sẽ có chi phí thấp nhưng tiêu thụ dễ và thu lợi cao.
Do hàng hóa thật bị làm giả thường là hàng hóa có uy tín, có giá trị và sức mua cao
trên thị trường nên hàng hóa giả sẽ “có dịp” tiêu thụ nhanh, mạnh. Chính vì vậy,
việc thu lợi bất chính là mục đích quan trọng mà người buôn bán hàng giả hướng
tới. Đối với nhiều vi phạm hành chính (tiểu tiện khơng đúng nơi quy định, đổ rác
vào cống…) mục đích khơng đóng vai trị bắt buộc, hành vi buôn bán hàng giả luôn
phải tồn tại mục đích là nhằm thu lợi bất chính. Do đó, trong chế tài xử phạt, nhà
làm luật đã thiết kế thêm biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm”. Theo tác giả, đây là một quy định hợp
lý nhằm khắc phục những hậu quả xấu do hành vi buôn bán hàng giả gây ra. Khi
tiến hành khảo sát 10 cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ chức bị xử phạt trên
địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, khi được hỏi “Khi bn bán hàng giả thì anh/ chị hướng
đến mục đích gì?” thì có đến 100 % (10 hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân) có câu
trả lời là “lợi nhuận”. Qua kết quả khảo sát cho thấy tất cả chủ thể buôn bán, kinh
doanh hàng hóa đều hướng đến mục đích thu lợi bất chính khi thực hiện hành vi
bn bán hàng giả.
Tóm lại, các đặc điểm của vi phạm hành chính về bn bán hàng giả giúp ta
phân biệt vi phạm hành chính này với các hành vi vi phạm khác. Từ đó, giúp cho
cơng tác xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả được thực hiện đúng
pháp luật và phù hợp với tính chất của hành vi vi phạm.


15

1.1.3. Các vi phạm hành chính cụ thể liên quan đến hành vi bn bán
hàng giả
Vi phạm hành chính liên quan đến “hành vi buôn bán hàng giả” là một loại
vi phạm rất phổ biến, thể hiện qua các vi phạm cụ thể:
- Bn bán hàng giả khơng có giá trị sử dụng, công dụng.

- Buôn bán hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa.
- Bn bán tem, nhãn, bao bì giả.
Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
124/2015/NĐ-CP) đã dành 3 Điều để quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi buôn bán hàng giả gồm Điều 11, 13, 15. Theo đó, Điều 11 quy định
xử phạt đối với hành vi bn bán hàng giả khơng có giá trị sử dụng, công dụng,
Điều 13 quy định về xử phạt đối với hành vi buôn bán hàng giả mạo nhãn hàng hóa,
bao bì hàng hóa, Điều 15 quy định về xử phạt đối với buôn bán tem, nhãn, bao bì
giả. Có thể thấy rằng, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định số 124/2015/NĐ-CP) đã rất tiến bộ khi phân hóa trách nhiệm hành chính đối
với hành vi bn bán hàng giả theo từng nhóm đối tượng. Điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền trong việc xác định cơ sở pháp lý để tiến
hành xử phạt đối với các hành vi buôn bán hàng giả trên thực tế.
Trước đây, Nghị định số 06/2008/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2013)
quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi bn bán hàng giả về nhãn
hàng hóa, hành vi kinh doanh hàng giả, hành vi kinh doanh tem, nhãn, bao bì hàng
hóa giả. Tuy nhiên, thuật ngữ “bn bán, kinh doanh” chưa bao quát hết các hành
vi diễn ra trên thực tế như chào hàng, lưu giữ, xuất khẩu… Do đó, việc xử phạt trên
thực tế gặp nhiều vướng mắc. Sự khơng rõ ràng này dẫn đến tình trạng các chủ thể
vi phạm “chối cãi” hành vi vi phạm, người có thẩm quyền bị “trói tay” trong xử
phạt. Nếu quyết liệt xử phạt thì có thể dẫn đến tình trạng áp dụng khơng đúng các
quy định pháp luật, ảnh hưởng đến quyền con người19. Khắc phục hạn chế này, Nghị
định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) đã
quy định rất cụ thể về hành vi bn bán hàng giả. Theo đó, thuật ngữ “bn bán”
được giải thích rõ ràng là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chào
hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập
khẩu và hoạt động khác đưa hàng hóa vào lưu thơng. Theo tác giả, quy định rõ ràng
như trong Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
Nguyễn Huy Miện, Nguyễn Hương Nhung (2012), “Cần giao lại cho Viện kiểm sát nhân dân chức năng
kiểm sát văn bản quy phạm pháp luật và kiểm sát việc xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Kiểm sát số 5.

19


16

124/2015/NĐ-CP) là hợp lý bởi như đã trình bày định nghĩa “buôn bán” với cách
liệt kê các vi phạm cụ thể và cụm từ “hoạt động khác đưa hàng hóa vào lưu thông”
bao quát được tất cả các vi phạm trên thực tế. Do đó, quy định này có có tác dụng
cao trong việc phòng chống các vi phạm liên quan đến buôn bán hàng giả.
Đối với hành vi “buôn bán hàng giả khơng có giá trị sử dụng, cơng dụng”,
Điều 11 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
124/2015/NĐ-CP) đã có sự phân hóa rõ ràng giá trị hàng giả tương đương với số
lượng của hàng thật để từ đó quy định mức tiền phạt tương ứng. Theo đó, bn bán
hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị dưới 1.000.000 đồng sẽ
bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng; có giá trị từ 1.000.000 đồng đến
dưới 3.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng; có giá trị
từ 3.000.000 đồng đến dưới 5.000.000 đồng bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến
3.000.000; có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng bị phạt tiền từ
3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng; có giá trị từ 10.000.000 đồng đến dưới
20.000.000 đồng bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000; có giá trị từ
20.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
20.000.000; có giá trị từ 30.000.000 đồng trở lên mà không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Cần lưu ý là nếu buôn
bán hàng giả không có giá trị sử dụng, cơng dụng mà đối tượng là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh cho người, thức ăn chăn ni, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi, phụ gia thực
phẩm, chất bảo quản thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, thực phẩm chức
năng, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, diệt côn trùng, trang thiết bị y tế, xi măng, sắt thép xây
dựng, mũ bảo hiểm thì mức tiền phạt sẽ gấp hai lần. Bn bán “lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh,…, xi măng, sắt thép xây dựng, mũ bảo hiểm” giả mạo,

khơng có giá trị sử dụng, công dụng sẽ bị phạt gấp hai lần là một quy định rất hợp lý
và cần thiết. Sự hợp lý nằm ở góc độ đây là những loại hàng hóa ảnh hưởng trực
tiếp đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Buôn bán những loại hàng hóa
giả mạo này có thể gây tổn hại nghiêm trọng và lâu dài đến sức khỏe, tuổi thọ của
người sử dụng. Do đó, chế tài nặng này sẽ là một sự cần thiết nhằm răn đe hành vi
vi phạm.
Tương tự, đối với hành vi “buôn bán hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì
hàng hóa” thì nhà làm luật cũng có sự phân hóa cụ thể số lượng của hàng giả tương
đương với hàng thật để quy định mức tiền phạt cụ thể. Theo đó, Điều 13 Nghị định
số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) quy định
mức tiền phạt tối thiểu là 200.000 đồng và tối đa là 30.000.000 đồng. Tuy nhiên,
nếu buôn bán hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa mà đối tượng là lương


17

thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh cho người, thức ăn chăn ni,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi, phụ
gia thực phẩm, chất bảo quản thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, thực phẩm
chức năng, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, diệt côn trùng, trang thiết bị y tế, xi măng, sắt
thép xây dựng, mũ bảo hiểm thì mức tiền phạt sẽ gấp hai lần.
Đối với hành vi “bn bán tem, nhãn, bao bì giả”, Điều 15 Nghị định số
185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) quy định rất
cụ thể mức tiền phạt tăng lên tương ứng với số lượng tem, nhãn, bao bì giả. Theo
đó, bn bán tem, nhãn, bao bì giả có số lượng dưới 100 cái, chiếc, tờ hoặc đơn vị
tính tương đương thì bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000; số lượng tem, nhãn,
bao bì giả có số lượng từ 100 đơn vị đến dưới 500 đơn vị thì bị phạt tiền từ 300.000
đồng đến 500.000 đồng; số lượng tem, nhãn, bao bì giả có số lượng từ 500 đơn vị
đến dưới 1.000 đơn vị thì bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng; số
lượng từ 1.000 đơn vị đến dưới 2.000 đơn vị thì bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến

2.000.000 đồng; số lượng từ 2.000 đơn vị đến dưới 3.000 đơn vị thì bị phạt tiền từ
2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng; số lượng từ 3.000 đơn vị đến dưới 5.000 đơn
vị thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng; số lượng từ 5.000 đơn vị
đến dưới 10.000 đơn vị thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng; số
lượng từ 10.000 đơn vị trở lên thì bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000
đồng. Nếu bn bán tem, nhãn, bao bì giả của “lương thực, thực phẩm, phụ gia thực
phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, chất bảo quản thực phẩm, thực phẩm chức
năng, thuốc phòng bệnh, thuốc chữa bệnh cho người, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, diệt
côn trùng, trang thiết bị y tế, thức ăn chăn ni, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi, xi măng, sắt thép xây dựng, mũ bảo hiểm”
thì mức tiền phạt sẽ tăng gấp đôi.
Trước đây, đối với các hành vi bn bán hàng giả về nhãn hàng hóa, hành vi
kinh doanh hàng giả, hành vi kinh doanh tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả, Nghị định
số 06/2008/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2013) quy định hai hình thức xử
phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền. Tuy nhiên, khi thay thế Nghị định số
06/2008/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2013), Nghị định số 185/2013/NĐ-CP
(sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) đã bỏ đi hình thức phạt cảnh
cáo và chỉ quy định hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Nghị định số
185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP). Sự sửa đồi
này là phù hợp với thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán
hàng giả. Hình thừ xử phạt cảnh cáo là quá nhẹ và không có tác dụng trong đấu
tranh phịng chống vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng giả. Do đó,
trên thực tế, người có thẩm quyền ít khi áp dụng hình thức xử phạt này.


18

Liên quan đến hình thức phạt tiền thì so với Nghị định số 06/2008/NĐ-CP
(sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2013), Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) đã tăng mức tiền phạt đối với hành vi

buôn bán hàng giả. Cụ thể, nếu như theo Nghị định số 06/2008/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung năm 2010, 2013) thì mức tiền phạt tối thiểu đối với hành vi buôn bán hàng giả
là 50.000 đồng thì khi Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định số 124/2015/NĐ-CP) có hiệu lực, mức tiền phạt tối thiểu đối với hành vi buôn
bán hàng giả đã được tăng lên là 200.000 đồng. Quy định tăng mức tiền phạt đối với
hành vi buôn bán hàng giả trong Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) không chỉ phù hợp với sự trượt giá của đồng
tiền mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cơng tác đấu tranh, phịng chống vi phạm
hành chính đối với hành vi bn bán hàng giả.
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
bn bán hàng giả
1.2.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán
hàng giả
Quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực kinh doanh thương mại nói chung và
chất lượng hàng hóa nói riêng là một tất yếu. Nhà nước quản lý lĩnh vực kinh doanh
thương mại thông qua các quy phạm pháp luật. Các quy tắc xử sự chung này sẽ
được bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước.
Kinh doanh thương mại là một lĩnh vực rất quan trọng. Trong xu thế hội nhập
quốc tế, mua bán giao thương ngày càng mở rộng thì chất lượng, tính năng, cơng
dụng của hàng hóa càng được khai thác một cách tối đa nhằm tạo lợi nhuận cho con
người. Tuy nhiên, thay vì cắt giảm các chi phí kinh doanh khơng cần thiết, giảm giá
thành sản phẩm để tạo ra sức cạnh tranh và lôi cuốn khách hàng thì nhiều chủ thể lại
sản xuất, bn bán hàng giả. Chính vì vậy, để quản lý nhà nước về kinh doanh
thương mại nói chung và chất lượng hàng hóa nói riêng được diễn ra thơng suốt, đạt
hiệu quả cao thì Nhà nước cần tăng cường xử lý các hành vi vi phạm nói chung và
vi phạm hành chính nói riêng. Có lẽ, đây là một tất yếu khách quan khi Nhà nước
thực hiện sự quản lý trong lĩnh vực này.
Như đã trình bày, vi phạm hành chính về bn bán hàng giả diễn ra rất phổ

biến, gây ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội, xa hơn nữa là ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia và niềm tin của xã hội. Vì vậy, việc xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi này là một trong những biện pháp quan trọng và được sử dụng nhiều nhất


19

nhằm bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại được diễn ra hiệu quả.
Theo khoản 2, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì “xử phạt vi
phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. Trong lĩnh
vực kinh doanh thương mại, những vi phạm hành chính liên quan đến bn bán
hàng giả diễn ra thường xuyên, liên tục và kéo dài. Do đó, cơng tác xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi này sẽ góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
về kinh doanh thương mại và chất lượng hàng hóa.
Tương tự như khái niệm “vi phạm hành chính về bn bán hàng giả” thì
khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng giả” không
được quy định cụ thể, rõ ràng. Do đó, trên cơ sở khái niệm “xử phạt vi phạm hành
chính” nói chung, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi bn bán hàng giả”. Theo đó, “xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi bn bán hàng giả là việc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng các hình thức
xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính khi thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lưu
giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động
khác đưa hàng giả vào lưu thông trên thị trường”.
1.2.1.2. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng
giả
Thứ nhất, cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi

bn bán hàng giả khi có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định số
185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP).
Điều 1 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
124/2015/NĐ-CP) quy định: “Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành
chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền
lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động thương mại, sản xuất, bn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng”. Với quy định này có thể hiểu, mọi cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính trên lãnh thổ Việt Nam liên quan đến hành vi buôn bán hàng giả sẽ bị xử phạt
theo quy định của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
số 124/2015/NĐ-CP). Do đó, khi tiến hành xử phạt, người có thẩm quyền phải xác
định cụ thể có hay khơng hành vi vi phạm, hành vi này có được quy định trong Nghị
định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP) hay


20

khơng? Nếu có thì người có thẩm quyền mới tiến hành xử phạt về hành vi buôn bán
hàng giả.
Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
bn bán hàng giả khá đa dạng.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả
thuộc về các chủ thể: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Quản lý thị trường, Công
an nhân dân, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Thanh tra. Số lượng
chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng
giả rất đa dạng, chiếm số lượng lớn so với một số lĩnh vực khác vì kinh doanh
thương mại và bn bán hàng hóa là một lĩnh vực quan trọng, liên quan rất lớn đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức, trật tự quản lý của nhà nước. Vi
phạm hành chính trong lĩnh vực này diễn ra thường xuyên, liên tục và rất phổ biến
nên nhà nước vẫn trao quyền cho nhiều chủ thể để bảo đảm khả năng phát hiện và

xử lý kịp thời các hành vi vi phạm. Trong buôn bán hàng giả, các hành vi được thực
hiện đa phần với lỗi cố ý, mang tính chất kéo dài và với số lượng lớn. Các vi phạm
này lại có cơ sở rõ ràng cho việc chứng minh nên khi phát hiện có thể ra quyết định
xử phạt ngay mà không cần phải mất nhiều thời gian thu thập thêm chứng cứ. Bên
cạnh đó, với xu thế dân chủ thì người bị xử phạt có quyền khiếu nại, tố cáo khi nhận
thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên Nhà nước vẫn có kênh
thơng tin phản hồi mà không sợ việc trao quyền tràn lan, dẫn đến lạm quyền. Với
những lý do trên nên Nhà nước mạnh dạn trao quyền xử phạt cho nhiều chủ thể.
Đây cũng là một trong những điểm khác biệt giữa chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả với các chủ thể có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác như: chứng khốn, thuế, tài chính,
ngân hàng, cạnh tranh, y tế… Các vi phạm trong lĩnh vực chứng khốn, thuế, tài
chính, ngân hàng, cạnh tranh, y tế địi hỏi về chun mơn khá cao, do đó, chủ thể có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực này cần có những hiểu
biết chuyên sâu để cơng tác xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện đúng pháp
luật, thống nhất và hiệu quả. Việc xử phạt vi phạm hành chính sai thẩm quyền
khơng chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các cá nhân, tổ chức mà cịn làm cho cơng
tác xử phạt khơng đạt được hiệu quả.
Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng giả
được các chủ thể có thẩm quyền xác định dựa trên quy định cụ thể tại Điều 11, Điều
13, Điều 15 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
124/2015/NĐ-CP).
Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
124/2015/NĐ-CP) quy định cụ thể về các vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương


×