Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

THỰC TRẠNG cơ cấu đầu tư ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.88 KB, 62 trang )

LỜI NÓI ĐẦU.
Xét theo nghĩa rộng của đầu tư là bỏ ra lợi ích của hiện tại để tìm kiếm
một lợi nhuận trong tương lai. Xét theo nghĩa hẹp thì sự đầu tư ấy phải làm
tăng thêm một khối lượng nào đó các nguồn lực ban đầu, hay đó chính là đầu
tư phát triển. Điều đó có nghĩa là sẽ làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển. Như vậy đầu tư có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Đầu tư
phát triển có tác động đến nhiều mặt như: tổng cung, tổng cầu; tăng trưởng
kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ, tác động hai mặt đến
sự ổn định của nền kinh tế và tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kính tế. Là
yếu tố tác động đến tăng trưởng vì thế để có một sự tăng trưởng bền vững thì
cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý. Một nền kinh tế phát triển bền vững là
một nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, tăng tỉ trọng của ngành công nghiệp
dịch vụ và giảm dần tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong tổng thu nhập quốc
dân. Điều này đòi hỏi cần có một cơ cấu đầu tư hợp lý, phù hợp với những
mục tiêu chiến lược phát triển của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong đề tài này chúng em muốn đi sâu nghiên cứu một nội dung của
đầu tư là cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Qua đó xem tác động của
nó tới nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua từ đó xác định những vấn
đề tồn tại cũng như một số giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện cơ cấu đầu
tư hướng đến cơ cấu kinh tế hợp lí theo hướng CNH-HĐH.
1
PHẦN MỘT: MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU
ĐẦU TƯ, CƠ CẤU ĐẦU TƯ HỢP LÍ.
1. Đầu tư và đầu tư phát triển:
1.1.Đầu tư:
1.1.1. Khái niệm.
Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực hiện tại. Nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, tài
nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền


vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường học ), tài sản trí
tuệ ( trình độ văn hóa,chuyên môn ,quản lí,khoa học kĩ thuật ) và nguồn nhân
lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản
xuất xã hội. Điều này thể hiện rõ tính lan tỏa của đầu tư: không chỉ đem lại lợi
nhuận cho nhà đầu tư mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương
lai lớn hơn các nguồn lực hiện tại.
1.1.2 Đầu tư phát triển.
Nếu xét trong phạm vi quốc gia, chỉ có những hoạt động trực tiếp làm
tăng tài sản của nhà đầu tư và cả nền kinh tế thuộc phạm trù đầu tư theo
nghĩa hẹp là đầu tư phát triển. Nói cách khác, đầu tư phát triển là lọai đầu tư
quyết định trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là bộ phận cơ
bản của đầu tư…
2
1.2. Vai trò của đầu tư phát triển.
1.2.1 Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền
kinh tế.
- Tác động đến tổng cầu:
Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24-28%
trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Tác động của tổng cầu
thể hiện rõ trong ngắn hạn.Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận
chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu. Từ mô hình tổng cầu : AD= C + I+ G +X-
M.
Trong đó: C : Tiêu dùng.
I : Đầu tư.
G: Tiêu dùng của Chính phủ.
X: Xuất khẩu.
M: Nhập khẩu.
Như vậy khi cung chưa kịp thay đổi gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu

(AD) tăng (nếu các yếu tố khác không đổi).
-Tác động đến cung :
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và
ngoài nước.Hàm cung trong nước được biểu diễn qua hàm:
Q =F( K, L, T, R…).
K: vốn đầu tư.
L:Lao động.
T: Công nghệ.
R: Nguồn tài nguyên.
3
Tăng qui mô vốn đầu tư (K) là nguyên nhân trực tiếp là tăng tổng cung
của nền kinh tế (nếu các yếu tố khác không đổi).Mặt khác tác động của vốn
đầu tư còn được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ Do đó đầu tư gián tiếp làm tăng tổng
cung nền kinh tế.
1.2.2 Mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng
tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lí là những
nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư ,tăng năng suất nhân tố
tổng hợp, tác động đến việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-
HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…do đó nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng
trưởng kinh tế thể hiện ở công thức tính chỉ số ICOR = đầu tư trong kì/GDP
tăng thêm. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP phụ thuộc hoàn toàn vào vốn
đầu tư. Theo một số nghiên cứu, muốn giữ tốc độ tăng trưởng cao và ổn định
thì tỉ lệ đầu tư phải chiếm trên 25% so với GDP.
1.2.3 Đầu tư phát triển tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Con đường tất yếu để dẫn tới sự tăng trưởng trên thế giới là tăng cường
đầu tư vào khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm đầu tư vào khu vực nông,

lâm, ngư nghiệp. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp
với qui luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng
thời kì, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các
ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế trong khi vẫn coi trọng yếu tố
ngoại lực.Chẳng hạn đối với cơ cấu ngành: đầu tư vốn vào ngành nào, qui mô
vốn bao nhiêu, hiệu quả sử dụng vốn cao hay thấp đều ảnh hưởng đến tốc độ
phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề
vật chất để phát triển các ngành mới.
4
1.2.4 Đầu tư phát triển tác động đến khoa học công nghệ.
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát
triển khoa học công nghệ của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia.
Quá trình đổi mới công nghệ đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn (mua
thiết bị linh kiện, bằng sáng chế…). Mỗi doanh nghiệp hay quốc gia cần có
bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ phù hợp. Trên cơ sở đó đầu tư hiệu
quả để phát huy lợi thế so sánh từng đơn vị cũng như của toàn nền kinh tế
quốc dân.
2. Cơ cấu đầu tư,cơ cấu đầu tư hợp lí.
2.1. Cơ cấu đầu tư.
2.1.1 Khái niệm và bản chất.
Khái niệm: Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ
cấu về vốn, nguồn vốn, cơ cấu huy động và sử dụng vốn quan hệ hữu cơ,
tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không gian và thời gian, vận động
theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo ra những tiềm lực lớn
hơn về mọi mặt kinh tế xã hội.
Bản chất: Về bản chất, cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Cơ cấu đầu tư chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố thuộc nội tại nền kinh tế, có nhân tố tác
động từ bên ngoài, có nhân tố tích cực tích cực thúc đẩy phát triển, song cũng
có nhân tố kìm hãm, hạn chế sự phát triển.

2.1.2 Các loại cơ cấu đầu tư.
a) Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn :
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hay cơ cấu nguốn vốn đầu tư thể hiện
quan hệ tỉ lệ của từng loại nguồn vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội hay nguồn
vốn đầu tư của doanh nghiệp. Cùng với sự gia tăng vốn đầu tư xã hội, cơ cấu
5
nguồn vốn ngày càng đa dạng hơn, phù hợp với cơ chế xoá bỏ bao cấp trong
đầu tư, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và chính sách huy động
mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trên phạm vi quốc gia, một cơ cấu
nguồn vốn hợp lí là cơ cấu phản ánh khả năng huy động mọi nguồn nguồn lực
đầu tư cho đầu tư phát triển, phản ánh khả năng sử dụng hiệu quả cao mọi
nguồn vốn đầu tư, là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần tỉ trọng của nguồn
vốn đầu tư từ ngân sách, tăng cường tỉ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi và
nguồn vốn của dân cư.
Nước ta, thời kì 1986-1990 nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước
chiếm tỉ trọng không đáng kể, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước đạt
1,35% tổng vốn đầu tư, đầu tư nước ngoài chỉ khoảng 6,5% và các nguồn viện
trợ không nhiều thì nguồn vốn đầu tư xã hội chủ yếu vẫn là vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước. Nhưng đến thời kỳ từ 1991 cho đến nay, cơ cấu nguồn
vốn đầu tư đã có sự thay đổi lớn. Nguồn vốn đầu tư cấp phát trực tiếp của
ngân sách giảm dần, từ 23,59% (1991-1995) xuống còn 21,87% (1996-2000).
Cơ cấu đầu tư theo nguốn vốn bao gồm các bộ phận:
Vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn vốn được trích ra từ ngân sách của
nhà nước chi cho các hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nó thường được sử
dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ
các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà
nước.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước: nguồn này có vai trò quan
trọng trong phục vụ cho công tác quản lý nhà và điều tiết kinh tế vĩ mô.

Thông qua nguồn này, nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế của các
ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Nguồn này có
tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước.
Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn
6
trả vốn vay. Vốn tín dụng đầu tư là một hình thức quá độ chuyển từ phương
thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Nguồn vốn còn được phân bổ để thực hiện các
mục tiêu phát triển xã hội.
Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: được xác định là thành phần
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ
một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ
khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước.
Vốn đầu tư tư nhân và dân cư: bao gồn phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Vốn của dân cư phụ
thuộc vào thu nhập của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ
thuộc vào: trình độ phát triển của đất nước, tập quán tiêu dùng của dân cư,
chính sách động viên của nhà nước thông qua thuế thu nhập và các khoản
đóng góp đối với xã hội. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã đã và
đang hoạt động, thì phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp
đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: là loại hình đầu tư nước
ngoài trong đó người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều
hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước
ngoài là kết quả tất yếu của quá trình phân công lao động quốc tế. Đây là
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang
theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước tiếp nhận nên nó có thể thúc đẩy
phát triển ngành nghề mới, đặc biệt những ngành đòi hỏi cao về kĩ thuật, công
nghệ hay cần nhiều vốn. Nó có các hình thức chính như: Hợp đồng hợp tác

kinh doanh, liên doanh,công ti 100% vốn nước ngoài, các hình thức khác như
EPZ, BOT, BTO,BT. Nguồn vốn này có tác dụng cực kì to lớn đối với quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ
7
tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư. Không những là nguồn bổ sung vốn
quan trọng, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm
hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Đặc biệt nguồn
vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh hệ thống cơ
sở hạ tầng giao thông vận tải ,bưu chính viễn thông bước đầu hình thành các
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, đồng thời giải quyết công
ăn việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương….Bước đầu hình thành
được các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, thực hiện công
nghiệp hoá hiện đại hoá và đô thị hoá.
b, Cơ cấu vốn đầu tư.
Cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng
vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay của một dự án.
Trong thực tế, có một số cơ cấu vốn đầu tư quan trọng cần được chú ý:
Cơ cấu vốn đầu tư XDCB; vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học,
công nghệ và môi trường, vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, những chi
phí tạo ra tài sản lưu động và những chi phí khác…; Cơ cấu vốn đầu tư theo
quá trình và thực hiện dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư chi phí chuẩn bị thực
hiện đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư….
Trong doanh nghiệp thì cơ cấu vốn đầu tư có thể được phân chia theo
lĩnh vực hoạt động của nó, chẳng hạn đối với một công ti S cơ câú vốn đầu tư
chia thành: đầu tư trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, đầu tư trong lĩnh vực
xây dựng kinh doanh hạ tầng; đầu tư sản xuất kinh doanh sản phẩm; đầu tư
khác. Cách khác, đầu tư của công ti có thể chia thành vốn đầu tư cho xây lắp,
đầu tư thiết bị, chi phí khác.
c, Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành.
Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành là cơ cấu thực hiện đầu tư cho từng

ngành kinh tế quốc dân cùng như trong từng tiểu ngành, thể hiện việc thực
8
hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành trong
một thời kì nhất định.
- Xem xét cơ cấu đầu tư theo hai nhóm ngành: sản xuất sản phẩm xã hội
và nhóm ngành kết cấu hạ tầng.Trong đó đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
phải đi trước một bước, nhưng cần có tỉ lệ hợp lí vì nếu quá tập trung cho đầu
tư cho cơ sở hạ tầng, không chú ý đúng mức cho đầu tư sản xuất kinh doanh
thì sẽ khó hoặc không có tăng trưởng.
- Xem xét cơ cấu đầu tư theo ba nhóm ngành: công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ. Theo đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng, ưu tiên phát
triển công nghiệp và dịch vụ, chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp hợp lí xuất
phát từ tình hình thực tiễn của nước ta.
- Xem xét cơ cấu đầu tư theo hai khối ngành: khối ngành chủ đạo và khối
ngành còn lại. Đầu tư phải đảm bảo tương quan hợp lí giữa hai khối ngành để
nền kinh tế vừa có những sản phẩm chủ đạo, tạo thế và lực cho sự phát triển
lâu dài, đồng thời đảm bảo sự phát triển tổng hợp đáp ứng yêu cầu tăng
trưởng nhanh và bền vững.
d, Cơ cấu đầu tư phát triển theo vùng, lãnh thổ.
Cơ cấu đầu tư theo địa phương, vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư vốn theo
không gian, nó phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc phát
huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng. Một cơ cấu đầu tư theo địa phương hay
vùng lãnh thổ được xem là hợp lý nếu nó phù hợp với yêu cầu, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, phát huy lợi thế có sẵn của vùng trong sự hài hoà
cân đối phát triển với các vùng khác.
- Xem xét cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ: lãnh thổ phát triển và lãnh thổ
kém phát triển.Ở Việt nam,vùng lãnh thổ có tính chất động lực( phát triển) là
ba vùng kinh tế trọng điểm:Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, miền Trung và
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
9

- Xem xét cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ kinh tế, Việt nam có thể chia thành
các vùng:
-Trung du và miền núi phía Bắc.
-Đồng bằng Bắc bộ
-Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung.
-Tây nguyên.
-Đông nam bộ.
-Đồng bằng sông Cửu long.
Trong thời gian qua, tổng vốn đầu tư xã hội được phân vào hai vùng
kinh tế lớn là đồng bằng sông Hồng và vùng Đông nam bộ, hai vùng có tỉ
trọng vốn đầu tư nhỏ nhất là vùng miền núi phía bắc và vùng núi Tây nguyên.
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu đầu tư.
Cơ cấu đầu tư chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Các nhân tố đó có
thể là các nhân tố trong nội tại nền kinh tế, cũng có thể là những nhân tố tác
động từ bên ngoài. Các nhân tố đó có thể là nhân tố tích cực thúc đẩy sự
chuyển dịch tới một cơ cấu đầu tư hợp lý, cũng có thể là những nhân tố tiêu
cực kìm hãm sự chuyển dịch đó. Trong các nhân tố tác động đó có một số
nhân tố đáng chú ý sau:
Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội: đây là nhân tố rất
quan trọng ảnh hưởng đến cơ cấu đầu tư.Nó là nhân tố quyết định để trả lời
cho câu hỏi cái gì? Cho ai? trong quá trình ra quyết định của chủ đầu tư: cái
gì, cho ai và như thế nào?. Khi quyết định đầu tư vào ngành lĩnh vực nào thì
chủ đầu tư trước hết phải nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu thị trường
cũng như tình hình cung ứng sản phẩm đó trên thị trường. Có như vậy mới
biết được liệu việc đầu tư vào lĩnh vực đó có mang lại lợi nhuận hay không?
Có đáp ứng được nhu cầu của xã hội hay không? Như vậy quyết định đầu tư
10
của chủ đầu tư chịu sự tác động lớn của yếu tố nhu cầu thị trường. Do đó,
khối lượng vốn đầu tư cho các ngành các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau.
Và như vậy cơ cấu đầu tư sẽ thay đổi khi cầu tiêu dùng xã hội thay đổi.

Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: lực lượng sản xuất càng phát
triển thì trình độ chuyên môn hoá càng cao. Sự chuyên môn hoá trong sản
xuất giữa các ngành, lĩnh vực, giữa các vùng làm cho mỗi ngành, lĩnh vực
cũng như mỗi vùng kinh tế có những đặc thù riêng, có thế mạnh riêng. Những
thế mạnh đó tạo ra sức hút đối với các nhà đầu tư. Điều đó có nghĩa là trình
độ phát triển lực lượng sản xuất có ảnh hưởng không nhỏ đến cơ cấu đầu tư.
Ngày nay khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ quốc tế hoá,
khoa học công nghệ phát triển đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông
tin cho phép việc tiếp cận, tìm hiểu các thông tin thị trường của các nhà đầu tư
dễ dàng hơn, chính xác hơn. Do đó các nhà đầu tư có thể xác định được chiến
lược đầu tư hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập.
Quan điểm, chiến lược mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước
trong từng giai đoạn nhất định: có thể nói đây là nhân tố có tác động quyết
định tới cơ cấu đầu tư. Vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước không những
là đề ra những chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mà còn là việc
nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm điều chỉnh, hướng nền kinh tế xã hội
phát triển theo đúng mục tiêu, chiến lược đã đề ra. Nhà nước có thể đầu tư từ
vốn ngân sách nhà nước để xây dựng những chương trình, dự án phát triển
trong quy hoạch, kế hoạch đồng thời cũng có thể đưa ra những chính sách ưu
đãi, những biện pháp hỗ trợ nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư vào các
ngành, các vùng…theo định hướng của mình. Những biện pháp này đã thúc
đẩy sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xây
dựng nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu chiến lược đã đề ra, nhằm xây
dựng một nền kinh tế phát triển hơn, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá
trong nước trên trường quốc tế.
11
Cơ chế quản lí: môi trường đầu tư của một quốc gia và trong từng ngành
bị ảnh hưởng rất lớn bởi cơ chế quản lí của quốc gia đó .Nếu môi trường pháp
lí hoàn chỉnh, thông thoáng và ổn định sẽ là điệu kiện thuận lợi thu hút các
nhà đầu tư tham gia. Ngược lại, nếu môi trường pháp lí còn nhiều kẽ hở,chưa

đồng bộ,đồng thời gây cản trở cho quá trình đầu tư thì đó là một rào cản lớn
ngăn các nhà đầu tư tham gia đầu tư.Trong cơ chế quản lí thì khuôn khổ pháp
luật và bộ máy quản lí có ảnh hưởng quyết định.
Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài gồm có: nhân tố xu thế chính trị, xã
hội và kinh tế của các khu vực và thế giới là nhân tố có ảnh hưởng lớn tới cơ
cấu đầu tư của nền kinh tế. Một ảnh hưởng về tài chính tiền tệ của một nước
lớn cũng có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Một cuộc khủng hoảng
về tài chính sẽ kéo theo sự suy thoái của cả hệ thống tài chính các nước khác.
Sự thay đổi về tỉ lệ giá cả của các đồng tiền làm thay đổi về sức cạnh tranh
của các mặt hàng trong nước ra nước ngoài. Sự không ổn định về kinh tế
chính trị ở một nước, một khu vực gây ra tâm lý e ngại cho đầu tư cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế quốc gia, khu vực đó, gây
tổn thất không ít tới nền kinh tế.
Đặc biệt với giai đoạn hiện nay theo xu hướng hội nhập kinh tế thế giới,
sự phát triển của một nền kinh tế chịu tác động rất lớn từ các nền kinh tế khác
trong khu vực và thể giới. Mỗi quốc gia phải xây dựng cho mình đường lối,
chiến lược phát triển phù hợp với xu thế của thời đại, nhằm bắt kịp sự phát
triển của các nước trên thế giới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng
cao vị thế kinh tế chính trị trên trường quốc tế. Từ việc tìm hiểu thông tin về
tình hình kinh tế, chính trị, tìm hiểu thị trường của các nước trong khu vực và
trên thế giới các nhà đầu tư sẽ điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho hợp lý nhằm đạt
được hiệu quả cao nhất. Đồng thời nhà nước cũng sẽ căn cứ vào xu hướng
chính trị trên thế giới và khu vực để đề ra mục tiêu phát triển cho nước mình
cho phù hợp với xu thế đó.
12
2.2. Cơ cấu đầu tư hợp lý:
2.2.1. Khái niệm:
Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách
quan, với các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn,
phù hợp và phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, vùng,

cơ sở và toàn bộ nền kinh tế, có tác động tích cực đến đổi mới cơ cấu kinh tế
theo hướng ngày càng hợp lý hơn, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực
trong nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị
của thế giới và khu vực.
2.2.2. Đánh giá cơ cấu đầu tư hợp lý.
Một cơ cấu đầu tư hợp lý, trước hết phải phù hợp với quy luật khách
quan, nghĩa là nó phải phù hợp với các quy luật kinh tế xã hội, các quy
luật tự nhiên. Nếu đi nguợc lại các quy luật đó lập tức nó sẽ bị đào thải và
không thể tồn tại, phát triển được.
Trong mỗi giai đoạn, với những điều kiện khác nhau về kinh tế xã hội,
về chiến lược phát triển kinh tế xã hội khác nhau thì sẽ có một cơ cấu đầu tư
hợp lí khác nhau. Và trong các ngành khác nhau cũng sẽ có cơ cấu đầu tư hợp
lý khác nhau. Cơ cấu này là phù hợp với quốc gia này nhưng lại không phù
hợp với quốc gia kia, và ngay trong nền kinh tế thì cơ cấu hợp lý cho mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực cũng khác nhau. Vấn đề cần đặt ra là các nước phải xây
dựng cho mình cơ cấu đầu tư hợp lý trong toàn bộ nền kinh tế cũng như trong
từng bộ phận của nền kinh tế để đạt đựoc sự phát triển bền vững.
Với mỗi cách phân loại cơ cấu đầu tư thì sự hợp lý cũng khác nhau:
- Cơ cấu đầu tư hợp lí theo nguồn vốn:
Trên phạm vi quốc gia: Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu phản ánh khả
năng huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, phản ánh tối
13
đa mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, phản ánh khả năng sử dụng
hiệu quả cao mọi nguồn vốn đầu tư.
Xu hướng cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần
tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng
ưu đãi và nguồn vốn của dân cư.
Xét trên góc độ doanh nghiệp thì cơ cấu nguồn vốn hợp lý là cơ cấu phản
ánh tỷ lệ giữa các nguồn vốn trong doanh nghiệp, giữa vốn chủ sở hữu và vốn
đi vay sao cho tận dụng tối đa mọi nguồn lực của doanh nghiệp.

- Cơ cấu vốn đầu tư hợp lí.
Vốn đầu tư hợp lý được đánh giá thông qua danh mục và hiệu quả cuả
các bộ phận mà doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư.
Một cơ cấu vốn đầu tư hợp lý là cơ cấu mà vốn đầu tư được ưu tiên cho
bộ phận quan trọng nhất, phù hợp với yêu cầu, mục tiêu đầu tư và nó thường
chiếm một tỷ trọng khá cao.
- Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành hợp lí:
Cơ cấu đầu tư theo ngành hợp lý được đánh giá dựa trên chính sách phát
triển kinh tế từng thời kỳ để xem: Cơ cấu ngành được chuyển biến như thế đã
theo hướng tích cực chưa? Xem đã phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế
chưa?
Cơ cấu đầu tư ngành hợp lý là cơ cấu chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh
công nghiệp, phát triển các ngành dịch vụ và ưu tiên nông nghiệp nông thôn,
phát triển hạ tầng cơ sở cũng như các lĩnh vực xã hội nhằm hướng tới mục
tiêu công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước.
- Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ hợp lí:
Một cơ cấu đầu tư theo địa phương hay vùng lãnh thổ được xem là hợp
lý nếu nó phù hợp với yêu cầu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát huy
14
lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển chung của các vùng khác, đảm bảo sự phát triển thống nhất
và những cân đối trong phạm vi quốc gia và giữa các ngành.
2.2.3 .Hiệu quả từ cơ cấu đầu tư hợp lí.
-Cơ cấu đầu tư hợp lý là nhằm hướng tới một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ
cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ, thể hiện ở chỗ: nếu cơ
cấu kinh tế hướng vào việc thực hiện mục tiêu của nền kinh tế thì cơ cấu đầu
tư chính là phương tiện để đảm bảo cơ cấu kinh tế được hình thành hợp lý
theo mục đích hướng tới của nó. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư là điều kiện
cần và đủ để thực hiện mục tiêu kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể.
Sự thay đổi cuả cơ cấu đầu tư và sự tác động của nó đến cơ cấu kinh tế

diễn ra một cách thường xuyên, lặp đi lặp lại theo hướng tiệm cận đến những
cơ cấu kinh tế tối ưu. Qúa trình thay đổi đó mang tính chất khái quát dưới tác
động của các quy luật kinh tế. Thông qua việc nhận thức ngày càng đầy đủ và
sâu sắc cơ chế tác động của các quy luât kinh tế, mà nhà nước có thể định
hướng, điều tiết quá trình thay đổi cơ cấu đầu tư hướng vào mục tiêu kinh tế
xã hội đã trù định.
Xét về mặt hiệu quả thì cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế đều hướng vào
mục đích chung là nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội trên cơ sở phát huy hết
các nguồn lực của nền kinh tế.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa hai loại cơ cấu trên, từ yêu cầu của
chuyển dich cơ cấu kinh tế, của thực trạng cơ cấu đầu tư cho thấy việc chuyển
dịch cơ cấu đầu tư, xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý là tất yếu khách quan và
hết sức cần thiết, cấp bách và cần phải định hướng một cách khoa học.
-Khai thác và sử dụng.hợp lí các nguồn lực trong nước, đáp ứng nhu cầu
hội nhập, phù hợp với xu thế kinh tế - chính trị của thế giới và khu vực. Một
khi xác định được cơ cấu đầu tư hợp lí thì quốc gia đó sẽ có định hướng đúng
15
đắn cho sự tăng trưởng kinh tế đảm bảo nhanh và bền vững, đồng thời có kế
hoạch sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả và hợp lí, tạo ra lợi thế so
sánh với các nước trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh khốc liệt như hiện
nay.
3. Sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư.
3.1. Mối quan hệ giữa cơ cấu đầu tư &cơ cấu kinh tế, sự cần thiết phải
chuyển dịch cơ cấu đầu tư.
3.1.1.Cơ cấu kinh tế & sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành.
a) Cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận cấu thành nền kinh tế cùng các
mối quan hệ tương quan chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát
triển giữa các yếu tố cấu thành của nền kinh tế đối với nhau hay toàn bộ hệ
thống kinh tế.Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện

kinh tế xã hội nhất định, trong khoảng thời gian nhất định, luôn vận động và
hướng vào những mục tiêu cụ thể. Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự
thay đổi về lượng thì xu thế cơ cấu kinh tế thể hiện mặt chất trong quá trình
phát triển.
Cơ cấu kinh tế có thể chia thành các loại : cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế, cơ cấu tái
sản xuất, cơ cấu thương mại quốc tế…
Trên khía cạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành kinh tế
được xem là quan trọng nhất vì nó phản ánh được sự phát triển của khoa học
công nghệ, lực lượng sản xuất ,phân công lao động chuyên môn hóa và hợp
tác sản xuất. Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia. Một trong những cách phân loại cơ cấu ngành là:
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
16
Để đánh giá hiệu quả của cơ cấu kinh tế cần phải đưa ra các chỉ tiêu
đánh giá toàn diện cả về mặt định tính và định lượng
- Mặt định tính: Sự phù hợp, đáp ứng được các mục tiêu nhiệm vụ kinh
tế chính trị, xã hội đề ra trong từng thời kì cụ thể.
- Mặt định lượng: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực chất là sự chuyển
dịch cơ cấu sản lượng đầu ra do sự thay đổi các yếu tố đầu vào như: vốn, lao
động, tài nguyên, khoa học và công nghệ…
b) Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi theo
từng thời kì phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định.Quá
trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày
càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là
thay đổi về số lượng các ngành, tỉ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự
thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc
chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung

của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ,lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây
dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu
cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. …
3.1.2 Tác động của cơ cấu đầu tư tới cơ cấu kinh tế.
-Trên giác độ kinh tế vĩ mô, đầu tư với chức năng quan trọng tác động
trực tiếp vào quá trình tái sản xuất xã hội và làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Do
đó, cơ cấu đầu tư có mối quan hệ mật thiết tới sự hình thành và biến đổi cơ
cấu kinh tế. Một sự thay đổi tuyệt đối hoặc tỉ trọng vốn đầu tư trong mỗi
ngành sẽ làm thay đổi năng lực sản xuất và đo dó làm thay đổi sản lượng của
ngành đó dẫn đến làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mức tác động của thay đổi
17
cơ cấu đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế tùy thuộc vào động thái tăng
trưởng sản lượng và mức độ phát triển hợp lí của mỗi ngành .
- Đầu tư có tác động dây chuyền. Khi tăng cường đầu tư, phân bổ vào
một ngành, một lĩnh vực nào cho ngành, lĩnh vực đó gia tăng sản lượng và từ
đó làm thay đổi mối tương quan giữa các ngành. Những ngành, những lĩnh
vực phát triển nhanh sẽ thu hút nhiều lao động vào ngành, lĩnh vực đó, tạo ra
sự chuyển dịch giữa các ngành, các lĩnh vực.
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những
chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính sách đầu tư,
nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế
hoạch hóa, xây dưng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các
công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng một
cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
Thực tiễn phát triển nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý
sẽ tạo đà cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
-Tốc độ tăng trưởng kinh tế của mỗi ngành không chỉ phụ thuộc vào khối
lượng gia tăng vốn đầu tư mà còn phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng nguồn vốn
đó. Nghĩa là đầu tư được sử dụng phải phù hợp với các nguồn đầu vào khác
như lao động, tài nguyên và công nghệ, phải cho phép phát huy được các lợi

thế của ngành. Tức là mức độ ảnh hưởng của cơ cấu đầu tư đến cơ cấu kinh tế
còn phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong nội bộ ngành.
- Do đầu tư là một quá trình có độ trễ về thời gian và độ dài của thời gian
trễ thường khác nhau giữa các ngành, hiệu quả tác động của cơ cấu đầu tư đến
cơ cấu kinh tế chỉ có thể diễn ra khi vốn đầu tư được phát huy trong sản xuất
xã hội. Sự tác động của cơ cấu đầu tư dến tổng cung và tổng cầu của nền kinh
tế là không cùng thời điểm. Như vậy khi bố trí cơ cấu đầu tư không chỉ xem
xét tác động trực tiếp, trước mắt mà phải có cái nhìn chiến lược lâu dài, có
18
như vậy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu định hướng mới
được thực hiện một cách có hiệu quả.
-Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để
tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao là tăng cường đầu tư nhằm tạo
ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ .Đầu tư còn là điều
kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nền
kinh tế. Đầu tư còn giải quyết tình trạng mất cân đối về tình trạng phát triển
giữa các vùng, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên,địa thế
của những vùng có khả năng phát triển, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển
3.1.3 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu đầu tư ( ở Việt nam).
Thực chất, chuyển dịch cơ cấu đầu tư là sự điều chỉnh cơ cấu vốn, nguồn
vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu vốn huy động và sử dụng các loại vốn và nguồn
vốn phù hợp với mục tiêu xác định của toàn bộ nền kinh tế,ngành,địa
phương và các cơ sở trong từng thời kì phát triển.
Hơn 20 năm đổi mới kinh tế Việt nam đã có những bước tiến vượt bậc
đã và đang tạo thế và lực mới cho nước ta bước vào thời kì phát triển cao
hơn.Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay tạo ra rất nhiều cơ hội nhưng
cũng không ít thách thức to lớn đặt ra cho nền kinh tế của nước nhà. Đặc biệt
là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực do xuất
phát điểm của ta quá thấp lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh khốc

liệt.Để thoát khỏi tình trạnh yếu kém của nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân
dân, giải quyết các vấn đề xã hội phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững đi liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Chính vì vậy, công cuộc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hượp lí theo hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nội dung cơ bản mang tính chất quyết định.
19
3.2. Bài học kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới về chuyển dịch cơ
cấu đầu tư.
Hiệu quả của việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư đến sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế được minh chứng rõ nét qua thực tiễn của một số nước như Hàn
quốc,Thái lan, Singapore Tuy nhiên mỗi quốc gia có đặc điểm khác nhau về
điểm xuất phát, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội có con đường và bước đi
chuyển dịch khác nhau. Vì vậy nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm thành
công và cả thất bại của các nước nhất là những nước có điều kiện tương đồng
với Việt nam là vấn đề có ý nghĩa với nước ta trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu đầu tư. Từ đó rút ra một số lưu ý như sau:
- Nhận thức tầm quan trọng của vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát
triển; cần tăng vốn đầu tư, mở rộng tích luỹ trong nứơc thu hút vốn từ nước
ngoài trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định.
- Cần tạo được một qui trình hợp lý về đầu tư và xuất khẩu để sử dụng
vốn một cách hiệu quả nhất.
- Kiên định đường lối công nghiệp hoá hướng ngoại, mở cửa nền kinh tế,
tăng cường cạnh tranh, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
- Phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, không được lãng quên thay thế
nhập khẩu để khỏi phụ thuộc nước ngoài đảm bảo tính đồng bộ trong cơ cấu
ngành cũng như trong nội bộ ngành nhất là trong công nghiệp. Bố trí cơ cấu
đầu tư theo ngành phải chú ý giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp và
nông nghiêp.
- Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, kết hợp quy mô lớn với quy
mô vừa và nhỏ. Lựa chọn tiến bộ công nghệ tiên tiến, tăng cường đầu tư theo

chiều sâu.
20
- Bố trí đầu tư phải theo hướng tận dụng cao nhất lợi thế so sánh của
từng ngành vùng về lao động , tài nguyên… và phải đảm bảo tính linh hoạt
trong cơ cấu kinh tế khi lợi thế so sánh bị thay đổi.
PHẦN HAI: THỰC TRẠNG CƠ CẤU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
THỜI GIAN QUA
1. Tình hình cơ cấu đầu tư ở Việt nam.
Trong những năm gần đây nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ
về phát triển kinh tế xã hội, trong đó đầu tư phát triển đóng góp vai trò hết
sức quan trọng.Việc huy động tương đối đầy đủ các nguồn lực cho đầu tư, cơ
cấu lại các nguồn vốn đầu tư, coi trọng nguồn vốn của dân cư và tư
nhân,chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng hợp lí…đã và đang tạo ra thế và
lực cho nền kinh tế trong quá trình hộp nhập khu vực và quốc tế.
Trong 5 năm 1991-1995 vốn đầu tư phát triển thực hiện được 232,5
nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá 1995), tương đương khoảng 20,9 tỷ đô la, bằng
3,5 lần vốn đầu tư phát triển thực hiện trong thời kỳ 1986-1990 (vốn đầu tư 5
năm 1986-1990 khoảng 65 nghìn tỷ đồng theo mặt bằng giá 1995, tương
đương 5,9 tỷ đô la), tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm là
30,4%/năm. Trong giai đoạn 5 năm 1996- 2000, tổng vốn đầu tư phát triển
ước thực hiện khoảng 397 nghìn tỷ đồng (tuơng đương 36.100 triệu USD) gấp
1,74 lần thực hiện thời kỳ 1991-1995, tốc độ tăng bình quân hàng năm là
6,4% năm là 30,4%. Tính chung 10 năm 1991-2000 vốn đầu tư toàn bộ nền
kinh tế đã được thực hiện khoảng 640 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư xã hội (tương
đương khoảng 58 tỷ đô la), tăng bình quân hàng năm là 17,9%. Từ năm 2000
trở đi tổng vốn đầu tư xã hội liên tục tăng. Năm 2001 là 170,496 tỉ đồng, năm
21
2002 là 199.104 tỉ đồng,năm 2003 là 231,616 tỉ đồng, năm 2004 là 275 tỉ
đồng, năm 2005 là 335 tỉ đồng…
1.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn.

Tình hình
Trong giai đoạn 1991- 2000, tốc độ phát triển của các nguồn vốn là theo
chiều hướng tích cực. Trong số các nguồn vốn cấu thành nên tổng vốn đầu tư
toàn xã hội thì nguồn vốn Nhà nước năm 2000 gấp 6,4 lần năm 1990, vốn tín
dụng của Nhà nước gấp 8,2 lần, vốn của doanh nghiệp nhà nước gấp 4,9 lần;
vốn của khu vực ngoài quốc doanh gấp 1,4 lần; vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài gấp 5,9 lấn. Về cơ cấu nguồn vốn thì vốn của khu vực nhà nước và vốn
đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong khi vốn của khu vực
ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ dần .Vốn nhà nước năm 1991 chiếm
38% tổng vốn đầu tư toãn xã hội thì đến năm 2000 chiếm 61,9%. Hai tỷ lệ
tương ứng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lần lượt là 14,3% và 18,6%;
của vốn ngoài quốc doanh lần lượt là 47,7% và 19,5%. Tình hình cụ thể về cơ
cấu các nguồn vốn như sau: (Đơn vị: %).
Cơ cấu đầu tư toàn xã hội 1991-2000
Chỉ tiêu 1991-1995 1996-2000 1991-2000
Tổng số 100 100 100
- Vốn ngân sách nhà nước 23,59 21,87 22,5
- Vốn tín dụng đầu tư 6,14 15,57 12,1
- Vốn của các DNNN 10,89 16,15 14,22
- Vốn của dân cư và tư nhân 34,94 22,49 27,07
- Vốn đầu tư trực tiếp NN 24,44 23,92 24,11
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong những năm trở lại đây tổng vốn đầu tư phát triển xã hội cho toàn
xã hội ngày càng tăng, tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước
22
không ngừng tăng. Năm 2001 vốn đầu tư chiếm 35,42% tổng sản phẩm trong
nước thì đến 2005 đã chiếm khoảng 38,67% tổng sản phẩm trong nước. Trong
tổng vốn đầu tư trong 5 năm 1991-2000 thì nguồn vốn trong nước thường
chiếm tới 84%.
Bảng cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn thực hiện (từ 2001-2005).

Đơn vị: Nghìn tỷ đồng.
Bảng cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn(%) từ 2001-2005: tổng 100%
Năm Tổng % Nhà nước
Ngoài quốc
doanh
Đầu tư nước ngoài
2001 100 59,8 22,6 17,6
2002 100 56,3 26,2 17,5
2003 100 54,0 29,7 16,3
2004 100 53,6 52,2 15,5
2005 100 52,0 32,1 15,7
Nguồn: Niên giám thống kê 2006
Tuy vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, nhưng tỉ trọng
vốn đầu tư nhà nước có xu hướng giảm dần từ 59,8% năm 2001 xuống 52%
năm 2005. Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang hình
thành, phần nào phản ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Trong
khi đó vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước có mức tăng cao hơn cả
23
Năm Tổng số Nhà nước
Ngoài quốc
doanh
Đầu tư nước
ngoài
2001 170,496 101,973 38,512 30,011
2002 199,104 112,237 52,111 34,755
2003 231,616 125,127 68,688 37,800
2004 275,000 147,500 84,900 42,600
2005 335,000 175,000 107,500 52,500
mức tăng trưởng vốn cuả khu vực ngoài quốc doanh chiếm vị trí thứ hai
trong các nguồn vốn nhà nước.

Tốc độ tăng bình quân năm (%) qua các giai đoạn.
Giai
đoạn
Nhà nước Ngoài quốc doanh Đầu tư nước ngoài
1991-1995 21,1 11,5 46,7
1996-2000 20,2 8,1 1
2001-2005 10,2 20,9 9,9
Ta có biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng từng nguồn vốn như sau;
Nguồn vốn Nhà nước.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, ước thực hiện trong 5 năm (1996-
2000) trên 100 nghìn tỷ đồng (theo giá 1995), đã tập trung hơn cho lĩnh vực
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; trong đó đầu tư cho lĩnh vực nông
nghiệp khoảng 23,5%; cho công nghiệp 9,4%; cho giao thông vận tải và bưu
24
chính viễn thông 30,7%; cho khoa học và công nghệ 1,8%, giáo dục và đào
tạo 7,1%; y tế, xã hội 6,4%; văn hoá, thể dục thể thao 3,6%; cho các ngành
khác 17,5%.
Tính chung cho giai đoạn 2001-2005 tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà
nước chiếm khoảng 22,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Trong đó nguồn vốn
ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển năm 2005 là gần 79,199 nghìn
tỷ đồng chiếm khoảng 22% tổng nguồn đầu tư xã hội. Nếu tính cả nguồn trái
phiếu Chính phủ và công trái giáo dục khoảng từ 8-10 nghìn tỷ đồng thì tổng
đầu tư chiếm 32% so với tổng chi ngân sách nhà nước. Trong những năm tiếp
theo, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước có xu hướng tăng về giá trị tuyệt đối
nhưng giảm về tỉ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước: Nếu như trước 1990,
nguồn vốn này được xem là công cụ quản lí và điều tiết nền kinh tế thì trong
giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt
đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước.Giai đoạn 1991-
1995 nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước chiếm 5,6% tổng vốn đầu

tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội.Trong những năm tới ,xu hướng của nguồn vốn này là cải thiện về mặt
chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỉ trọng không có sự gia tăng đáng
kể.
Nguồn vốn tín dụng nhà nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự
đầu tư thông qua việc huy động khấu hao tài sản cố định, đất đai, nhà xưởng
chưa sử dụng, thì Nhà nước điều hành có mức độ; hai nguồn vốn này chiếm
khoảng 17% thời kỳ 1991-1995 và 31,72% thời kỳ 1996-2000. Như vậy
chung cho cả 3 nguồn vốn mà Nhà nước có thể điều hành với những mức độ
khác nhau chiếm khoảng 49% so với tổng nguồn, còn tất cả các nguồn vốn
khác điều hành gián tiếp thông qua cơ chế, chính sách.
25

×