Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY VÀO NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM, GIÁO ĐIỀU CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ. LIÊN HỆ THỰC TẾ XÃ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.23 KB, 19 trang )

1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam và kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Đó là học thuyết khoa học nêu ra các quy luật chung nhất về sự phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; là học thuyết cách mạng vạch ra con
đường, chiến lược và sách lược đấu tranh để giai cấp công nhân lãnh đạo quần
chúng cách mạng lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi ra đời đến nay hơn 100 năm qua, tư
tưởng của các nhà kinh điển đã vượt qua thử thách của thời đại cũng như sự
phê phán, cơng kích của các thế lực đối lập, thù địch. Cách mạng khoa học công nghệ, tồn cầu hóa và kinh tế tri thức đã tác động mạnh mẽ trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Các thế lực thù địch dựa vào những khó khăn, thách
thức trong quá trình phát triển đất nước để xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin,
cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, khơng cịn phù hợp với
thời đại ngày nay, địi hỏi phải xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy
nhiên, thực tiễn đã chứng minh, bất chấp sự cơng kích, bơi nhọ, phê phán, chủ
nghĩa Mác - Lênin vẫn vững vàng và phát huy vai trò trong thời đại ngày nay.
Càng trải qua khó khăn, chủ nghĩa Mác - Lênin lại càng bộc lộ tính sáng tạo,
tính thực tiễn cùng những giá trị tự thân. Sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản, là linh hồn của triết học Mác –
Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C. Mác đã phát hiện ra sức mạnh
của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của
thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy
chính là thực tiễn. Thực tiễn ln ln vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng
không ngừng đổi mới, phát triển. Vận dụng nguyên tắc này, Đảng cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo đất nước tiến hành thành công công cuộc đổi mới, đưa
đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế.



2

PHẦN II: NỘI DUNG
I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN
1. Phạm trù thực tiễn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giữa lý luận và thực tiễn
có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Đây là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Phạm trù
thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của nhận thức Mácxit
nói riêng và chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung. Trong lịch sử triết học, các
nhà triết học trước C.Mác cũng đã đề cập hoạt động thực tiễn, nhưng chưa có
nhà triết học nào hiểu đúng bản chất, vai trò của thực tiễn đối với nhận thức,
lý luận.
C.Mác – Ăngghen trên cơ sở khắc phục các hạn chế, thiếu sót, kế thừa
và phát triển sáng tạo trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước
đó. Từ đó đã đưa ra quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, C.Mác –
Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung
và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Thực tiễn là tồn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội – lịch sử
của con người nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Hoạt
động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, con người sử dụng những
công cụ vật chất, tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng
theo những mục đích nhất định. Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công
cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện
cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.

- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người,
các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị-xã
hội để thúc đẩy xã hội phát triển.


3

- Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực
tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống,
giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định
những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động
này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Như vậy, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử, xã hội của
con người; nó chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia của đông đảo những
con người trong xã hội. Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích, tính hiện
thực trực tiếp hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm phục
vụ con người, chứ không chỉ là hoạt động bản năng, bằng lịng với cái có sẵn
trong tự nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của
con người, khác với hoạt động bản năng, thích nghi một cách thụ động của
con vật với thế giới xung quanh.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra được một
“thiên nhiên thứ hai” của mình, một thế giới văn hóa tinh thần và vật chất,
những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có
sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, khơng có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội
lồi người khơng thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn
tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối
quan hệ giữa con người và thế giới. Xét về hình thức thực tiễn có ba hình thức
cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt
động thực nghiệm khoa học.

Ba hình thức thực tiễn này có mối quan hệ biện chứng, tác động, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trị quan trọng,
quyết định hai hình thức thực tiễn cịn lại. Tuy nhiên, hai hình thức thực tiễn
cịn lại có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
2. Phạm trù lý luận
Lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh
nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính


4

quy luật của các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý,
quy luật, phạm trù. Theo Hồ Chí Minh “Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Vì vậy, xét về đặc trưng cho thấy lý luận là một hệ thống tri thức có tính
lơ gic chặt chẽ, tính khái quát cao và tính phổ biến; bản chất của lý luận là khái
quát những tri thức kinh nghiệm thực tiễn, cho nên khơng có tri thức kinh
nghiệm thực tiễn thì lý luận khơng thể nảy sinh, hình thành và phát triển; mặt
khác lý luận khơng dừng lại ở việc phản ánh hiện tượng, mà đi sâu vào xem xét
bản chất, mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng, do đó lý luận có thể phản
ánh được tính tất yếu, tính quy luật của sự vật, hiện tượng đưa ra những dự báo
xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn,
được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra
những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy
luật của hiện thực khách quan. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh đúng thực
tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Vì lẽ đó, lý luận là một nội dung, một bộ
phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của một chính
đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền mà khơng có lý luận dẫn đường thì “cũng

như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”, cách mạng sẽ khơng
có “phong trào vận động” và đảng sẽ không thể làm nổi “trách nhiệm cách
mạng tiền phong”. Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của
đất nước, Đảng ta không ngừng phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa
xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bước đầu đã đạt được những
thành tựu nhất định.
II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN


5

1. Lý luận xa rời thực tiến, không vận dụng vào thực tiễn là lý luận
sách vở, giáo điều
Thực tiễn có vai trị quan trọng đối với việc hình thành và phát triển lý
luận của con người, lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực
tiễn, xuất phát từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn đó. Thực tiễn và lý luận không ngừng phát triển trong sự tác động
lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trị là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức, của lý luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Thực tiễn là cơ sở
của lý luận, điều đó có nghĩa, thực tiễn là nền tảng, là điểm xuất phát của lý
luận. Chính trên nền tảng của hoạt động thực tiễn con người mới có nhu cầu
tìm hiểu, khám phá thế giới, hoạt động nhận thức, lý luận mới nảy sinh.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho chúng
bộc lộ những thuộc tính, tính chất, quy luật… Trên cơ sở đó con người mới có
hiểu biết về sự vật và khái quát những hiểu biết ấy để hình thành phát triển lý
luận. Như vậy, con người liên hệ với thế giới hiện thực bên ngoài bằng thực
tiễn, chỉ thơng qua hoạt động thực tiễn thì còn người mới nhận thức được thế
giới khách quan. Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề ra

nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận
thức. Con người luôn ln có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo
thế giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật,
hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự vật vận động,
biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp con
người nhận thức được bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Trên cơ sở đó mà hình thành các lí thuyết khoa học.
Thực tiễn là cơ sở, là động lực của lý luận, vì thực tiễn ln vận động,
biến đổi và luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới cho lý
luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết. Vì thế, nó ln bắt con người phải đi sâu
nghiên cứu, mở rộng sự hiểu biết hiện có, đánh giá kiểm tra lại kiến thức cũ,
cách tiếp cận cũ, thậm chí phải thay thế những tri thức cũ, lạc hậu, lỗi thời
bằng những tri thức mới, tiến bộ. Trên cơ sở đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức,


6

lý luận phát triển. Mặt khác, thực tiễn là động lực thúc đẩy hoạt động thực
tiễn ở chỗ: nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng
được hồn thiện; năng lực tư duy lơgíc khơng ngừng được củng cố và phát
triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối
dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn là mục đích của lý luận, vì thực tiễn là đích cuối cùng lý luận
phải hướng tới, phải giải quyết. Chính nhu cầu sống, nhu cầu sản xuất vật
chất, cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận
thức thế giới xung quanh. Nghĩa là, nhận thức của con người ngay từ đầu đã
bị quy định bởi nhu cầu thực tiễn; ngược lại kết quả của nhận thức, của lý
luận sẽ phục vụ cho chính thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển. Lý luận
khơng đáp ứng được mục đích thực tiễn đặt ra, lý luận đó sẽ khơng có giá trị.
Hơn nữa, thực tiễn là mục đích của nhận thức. Cụ thể: nhận thức ra đời và

khơng ngừng hồn thiện trước hết khơng phải vì bản thân nhận thức mà là vì
thực tiễn, nhằm giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra và để chỉ đạo, định hướng
hoạt động thực tiễn. Chính nhu cầu của thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành và
phát triển của các ngành khoa học, biến những tri thức thành phương tiện giúp
cho hoạt động thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra lý luận, vì thơng qua thực tiễn kiểm
nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức là đúng hay sai, chân lý hay sai
lầm. Chỉ có thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân
lý, bác bỏ sai lầm. Mọi sự biến đổi của nhận thức hay lý luận suy cho cùng
không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Con người có được những
hiểu biết về thế giới thơng qua hoạt động thực tiễn. Do vậy chính thực tiễn là
tiêu chuẩn, là thước đo giá trị của những tri thức mà con người đã đạt được
trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, điều chỉnh, phát triển những tri thức
lý luận đã có làm cho lý luận ngày càng đầy đủ hơn và sâu sắc hơn. Xuất phát
từ thực tiễn mà con người khái quát, tổng hợp và xây dựng thành lý luận.
Chính q trình phát triển của thực tiễn đã đặt ra những vấn đề đòi hỏi lý luận


7

phải giải đáp. Lý luận được hình thành, phát triển và kiểm nghiệm trong thực
tiễn và tiếp tục bổ xung, phát triển trong thực tiễn.
Như vậy, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu
chuẩn của chân lý. Chính trong hoạt động thực tiễn, hoạt động cải tạo thế giới
mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực
tiễn cung cấp những cơ sở dữ liệu giúp nhận thức, lý luận hình thành và phát
triển. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hơm nay hoặc trực tiếp,
hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường nhắc nhở các bộ, đảng viên: “Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận sng”. Qua đó cho thấy, thực tiễn có vai trị rất to lớn đối với

lý luận.
2. Thực tiễn không được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo bởi lý luận
khoa học là thực tiễn mù quáng
Lý luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn song nó
có tính độc lập tương đối. Điều đó thể hiện ở chỗ, khơng phải lý luận nào
cũng xuất phát từ kinh nghiệm, có lý luận được xây dựng khơng trên cơ sở
những dữ liệu kinh nghiệm có trước. Điều này chỉ có thể lí giải bởi tính ưu
việt, vượt trội của tư duy trừu tượng của con người. Lý luận có vai trị rất to
lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt
động của con người. Lý luận khoa học phản ánh đúng hiện thực khách quan.
Nó góp phần hạn chế tính mị mẫm, tự phát, tăng cường tính tự giác, chủ
động tích cực trong hoạt động của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
nhắc nhở: “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng”. Điều này có nghĩa rằng, lý luận mặc dù do thực tiễn quyết định,
nhưng bản thân lý luận khi đã hình thành thì lại có một vai trị hết sức to lớn
đối với thực tiễn.
Lý luận đóng vai trị “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn, thể hiện
qua việc lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra
phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực
khách quan theo yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội. Nếu


8

thực tiễn không được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực
tiễn đó sẽ mất phương hướng, “lung túng như nhắm mắt mà đi”, rơi vào mị
mẫm, vịng vo, có khi quay trở lại xuất phát điểm ban đầu, không hiệu quả,
gây tốn kém, lãng phí thời gian, cơng sức…vv
Lý luận góp phần định hướng cho phong trào cách mạng. Vì khơng có
lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng. Lý luận khoa học,

cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để
tạo nên những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần
chúng.. Nhờ có lý luận khoa học, phong trào cách mạng quần chúng khơng
cịn mang tính tự phát, trở thành hoạt động chủ động, tự giác, tích cực. C.Mác
nhấn mạnh: “…lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng”.
Lý luận góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực
tiễn. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, mầm
móng và khả năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu phản ánh
đúng bản chất, nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
nó có thể đưa ra những dự báo tương lai của bản thân sự vật, hiện tượng. Như
vậy, dự báo tương lai là kết quả của thao tác tư duy, như phân tích và tổng
hợp, lơ gic và lịch sử… tức là quá trình nhận thức, phản ảnh, phán đoán về sự
vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng. Dự báo tương lai là một
trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người.
Như vậy, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau, giữa chúng có sự
liên hệ, xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Từ những điểm trên, chúng ta cần quán triệt
những điểm vận dụng sau: Một là, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Hai
là, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Ba là, phải


9

coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Đồng thời chúng ta cũng
cần phải chống bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí và đặc biệt tránh chủ

nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa thực dụng.
Ở nước ta, việc vận dụng sai hai nguyên tắc trên chủ yếu dẫn đến hai
sai lầm đó là bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Bệnh giáo điều là phương pháp tư duy vận dụng những khái niệm,
những công thức bất biến, không chú ý đến những tài liệu mới của thực tiễn
và của khoa học, những điều kiện cụ thể của địa điểm và thời gian, tức là coi
thường nguyên lý về tính cụ thể.
Điều này thể hiện cụ thể nhất ở các hệ thống văn bản pháp luật cũ của
nước ta và cách áp dụng cũ. Chúng ta có những văn bản kế thừa một cách
“quá mức” đến nỗi sử dụng nguyên từng câu từ hệ thống pháp luật nước ngoài
(Nga). Trong khi tình hình xã hội, chính trị, kinh tế của các nước không giống
nhau tại từng thời điểm.
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa
kinh nghiệm thực tiễn cá biệt, cụ thể; biến chúng thành những kinh nghiệm phổ
biến nhằm áp dụng những kinh nghiệm cá biệt này cho mọi trường hợp, mọi
điều kiện, mọi hồn cảnh, hạ thấp, coi thường lý luận khoa học.
Cơng cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào năm
1986 trong bối cảnh đất nước gặp phải những khó khăn gay gắt. Đổi mới
được bắt đầu từ thực tiễn, từ những trăn trở, suy tư, từ những hiện tượng ‘phá
rào”, từ những cách làm sáng tạo của các địa phương, cơ sở; được Trung ương
Đảng chỉ đạo rút kinh nghiệm, đi sâu tổng kết, đưa đến những đổi mới nhận
thức, tư duy, quan điểm, trên cơ sở đó điều chỉnh, đổi mới đường lối, chủ
trương, thể chế, chính sách phát triển phù hợp thực tiễn khách quan, tạo động
lực cho quá trình xây dựng đất nước. Qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về chủ
nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước để đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi
mới.



10

Trong đó qua q trình tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã chỉ ra bốn nguy
cơ vẫn tồn tại hiện nay và đã đề ra nhiều giải pháp khắc phục, đó là: Nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy
cơ “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta;
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp;
khoảng cách giàu – nghèo, phân hoá xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có
mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân
dân vào Đảng và Nhà nước.
Để Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn; trong thời
gian qua về xây dựng và hồn thiện thể chế, chính sách, Đảng, Quốc hội,
Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách mới liên quan tới
vần đề quan trọng, cấp bách đang dặt ra trong thực tiễn. Các nghị quyết của
các Hội nghị Trung ương khoá XII về “ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”; “Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước”; “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... đều
vì thực tiễn đặt ra và yêu cầu của phát triển đất nước mà ra đời.
III. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VÀO NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH KINH
NGHIỆM, GIÁO ĐIỀU CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở Việt Nam có nhiều, ví dụ như:
ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ, lúa nước, theo mùa, theo chu kỳ;
ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng gia trưởng, phong kiến; ảnh hưởng tiêu cực
của những kinh nghiệm chiến tranh du kích quá lâu dài….Nhưng nguyên
nhân cơ bản, trực tiếp nhất là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, không hiểu quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.


11

Để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý thì phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, như: thực hiện thành công
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của
nền sản xuất nhỏ; khắc phục tư tưởng gia trưởng, phong kiến như: tuyệt đối
hóa kinh nghiệm của người cao tuổi; tăng cường học tập nâng cao trình độ lý
luận, phải quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng
đúng quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Đặc biệt cùng với công tác tổng
kết thực tiễn, việc học tập, nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý là rất quan trọng.
Về bệnh giáo điều: ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Việt Nam có
hai loại bệnh giáo điều. Một là, giáo điều lý luận, thể hiện là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý vận dụng lý luận không căn cứ vào những điều kiện thực
tiễn – cụ thể của đơn vị mình, ngành mình; học tập lý luận tách rời thực tiễn,
xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở; bệnh “tầm chương, trích cú”; bệnh
câu chữ….Hai là, giáo điều kinh nghiệm, thể hiện là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản láy vận dụng kinh nghiệm của ngành khác, người khác, địa
phương khác, nước khác vào hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình nhưng
khơng tính tới những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể của địa phương
mình, ngành mình.
Để ngăn ngừa, khắc phục cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như:
từng bước hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
khắc phục chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình thức, quán triệt tốt trên thực tế
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng đắn
mối quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong nhận thức và hành

động cũng như hoạt động lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là phải tăng cưởng tổng
kết thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
đó là bệnh của sự yếu kém về tư duy lý luận, ngại học tập lý luận, không thực
hiện tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vi phạm sự thống


12

nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hai căn bệnh
này. Vì vậy, cần phải thực hiện tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Bởi
vì, lý luận mà rời xa thực tiễn sớm hay muộn gì cũng dẫn tới giáo điều, thực
tiễn mà rời xa lý luận, không được chỉ đạo bằng lý luận thì sẽ trở thành “mảnh
đất màu mỡ” cho bệnh kinh nghiệm nảy sinh, tồn tại và phát triển. Người cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải coi trọng việc thực hiện sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo. Đó là điều kiện rất cần thiết và quan
trọng nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.


13

IV. LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI XÃ PHẠM VĂN CỘI, HUYỆN CỦ CHI
Hiện nay Đảng ta đã vận dụng và thực hiện đúng nguyên tắc này, tạo ra
những chủ trương phù hợp, kịp thời kích thích xã hội – kinh tế phát triển. Đặc
biệt nhất phải nói đến chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh
nghiệp, người nơng dân khởi nghiệp với cả khuyến khích từ phía chính phủ
cũng như toàn cộng động, chia sẻ kiến thức, đơn giản hóa thủ tục …xét cho
cùng chúng ta vận dụng đúng và phù hợp nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn để dự đoán đúng tương lai, để trở thành “người dẫn đường” tin
cậy cho xã hội – kinh tế nước nhà.

Trong bối cảnh đất nước đang quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc
nghiên cứu và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào
thực tiễn xã hội nước ta là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn
nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học
là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh
tế xã hội nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt
động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường
triết học đúng đắn, chúng ta có thể có được những cách giải quyết phù hợp
với các vấn dề do cuộc sống đặt ra.
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch
sử - xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt
được tính chất biện chứng của q trình đó, là tiền đề quan trọng bậc
nhất giúp chúng ta ln có được một lập trường thực tiễn sáng suốt,
tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều
máy móc và bệnh lý luận suông.
Chúng ta phải hiểu, lý luận ra đời từ thực tiễn, nhưng đó khơng phải
là con đường duy nhất, lý luận cịn được hình thành, phát triển thông qua


14

việc kế thừa lý luận trong lịch sử của dân tộc, của nhân loại. Chính vì vậy,
để bổ sung, phát triển lý luận, một mặt chúng ta phải tăng cường tổng kết
thực tiễn, nhưng mặt khác cũng phải biết kế thừa tinh hoa lý luận của dân
tộc và nhân loại, cụ thể là lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.

Đối với Đảng bộ, chính quyền xã Phạm Văn Cội: trên cơ sở nhận thức
và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã có giải pháp
phải ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều trong chỉ đạo, điều
hành phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng – an ninh của địa
phương, đặc biệt là trong việc tổ chức thực hiện chủ trương xây dựng và nâng
chất nông thôn mới qua từng giai đoạn.
Để triển khai thực hiện Chương trình xây dựng Nơng thơn mới từ năm
2011, xã đã thành lập Ban Quản lý chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới xã Phạm Văn Cội do Chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, đồng
chí Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách Kinh tế làm Phó trưởng ban, và cơ cấu
thành viên ban gồm các đồng chí là cơng chức chun mơn, các đồng chí Hiệu
trưởng các trường học và các đồng chí Trưởng ấp trên địa bàn xã. Đồng thời,
xã thành lập Tổ giúp việc cho Ban Quản lý chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới xã Phạm Văn Cội để tham mưu, giúp việc cho Ban Quản
lý trong tổ chức, triển khai thực hiện các nội dung công tác theo chức năng,
nhiệm vụ của Ban Quản lý. Xã đã tổ chức tuyên truyền, quán triệt các văn bản
chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới đến từng hộ gia
đình, từng người dân trên địa bàn xã với nhiều hình thức đa dạng, phong phú:
Phát hành tờ bướm; thông qua Đài truyền thanh huyện; tổ chức các hội thi về
tìm hiểu chương trình xây dựng nơng thôn mới cấp xã, tham gia hội thi do
huyện, thành phố tổ chức. Cụ thể hóa các văn bản của Trung ương như Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X về vấn đề nơng nghiệp, nông dân, nông thôn. Quyết định số 491/QĐ-TTg
ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới, Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính


15

phủ phê duyệt chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới

2010-2020...và các văn bản của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh, Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi.
Với chủ trương đúng đắn, được nhân dân đồng thuận và sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Thành phố, huyện; kế thừa thành tựu phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, chăm lo nông dân của các nhiệm kỳ
trước. Việc xây dựng nông thôn mới được quan tâm thực hiện sâu rộng, làm
khơi dậy tính tích cực trong nhân dân, được nhân dân ủng hộ, đồng tình tham
gia hiến hơn 1.000 m2 đất thực hiện cơng trình, đầu tư phát triển sản xuất,
tham gia các công tác khác giúp thực hiện tốt mục tiêu của chương trình. Ban
Quản chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới xã Phạm Văn
Cội nhận thức đầy đủ về quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước trong xây dựng nông thôn mới, có sự tập trung trong chỉ đạo các ngành,
bộ phận thực hiện các nhiệm vụ được giao, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm,
thường xuyên kiểm tra, đánh giá tiến độ thực hiện, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc đã giúp các đơn vị thực hiện hoàn thành tốt cơng việc.
Trong tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới đã xuất
hiện nhiều cách làm hay, mơ hình tốt trong phát triển sản xuất nơng nghiệp gắn
với nhu cầu đa dạng, phong phú của thị trường thành phố, khu vực, xuất khẩu
được phổ biến, nhân rộng; những nhân tố về các giống cây trồng, giống vật
nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao như bò sữa, hoa lan - cây kiểng, cá cảnh, rau
an toàn….
Nhận thức rõ tầm quang trọng của hoạt động tổng kết thực tiễn trong
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; Đảng ủy xã thường xuyên chỉ đạo Ban Quản lý
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới xã Phạm Văn Cội
phải tổ chức sơ kết, tổng kết trong từng năm và từng giai đoạn xây dựng, nâng
chất Nông thôn mới tại xã. Đặc biệt, trong tổng kết phải làm rõ được những
mặt còn hạn chế, những mặt làm được và điều kiện thực tiễn tại địa phương
hiện tại và trong giai đoạn sắp tới như thế nào để đề ra các giải pháp, biện pháp
phù hợp. Từ đó, tránh trường hợp cán bộ lãnh đạo, quản lý sa vào bệnh giáo



16

điều, chỉ căn cứ vào hướng dẫn chung ở trên và cơ sở lý luận chung về xây
dựng nông thôn mới tại Việt Nam mà không quan tâm tới thực tiễn tại địa
phương, hoặc mang những mơ hình, cách làm của xã khác, huyện khác vào áp
dụng rập khuôn, máy móc tại xã nhà…Chính vì lẽ đó, trong từng năm, từng
giai đoạn xây dựng, nâng chất nông thôn mới, Ban Quản lý chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nơng thôn mới xã Phạm Văn Cội đều tổ chức sơ kết,
tổng kết và từ đó rút ra nhiều bài hóc quý giá cũng như đưa ra những định
hướng lãnh đạo, chỉ đạo sát với thực tế. Kết quả trong giai đoạn nâng chất
Nông thôn mới 2016-2020, xã Phạm Văn Cội với những cách làm hay, hiệu
quả, hợp lòng dân, đã hồn thành nâng chất 19 tiêu chí nơng thơn mới trước khi
kết thúc giai đoạn – được UBND Thành phố công nhận xã đạt chuẩn nâng chất
Nông thôn mới vào năm 2019.
Từ kết quả đạt được, cấp ủy, chính quyền và nhân dân xã Phạm Văn
Cội rút ra bài học kinh nghiệm trong xây dựng nông thôn mới như sau:
- Xây dựng nông thôn mới phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn tại địa
phương, cộng đồng dân cư đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện giám sát và
hưởng thụ; huy động nguồn lực nhân dân phải gắn liền với bồi dưỡng sức
dân, thông qua các đề án hợp lòng dân, được nhân dân đồng tâm hiệp lực
chung sức xây dựng nông thôn mới.
- Trong thực hiện các công trình “Nhà nước và nhân dân cùng làm”,
cơng tác tun truyền, vận động, giải thích, thuyết phục người dân có tính
quyết định vì khơng thể sử dụng các biện pháp hành chính, quyền lực Nhà
nước. Phải thực sự phát huy vai trị chủ thể của người dân. Cơng tác tun
truyền, vận động quần chúng phải là giải pháp quan trọng hàng đầu. Làm cho
dân hiểu, dân tin, dân hưởng ứng bằng sự tham gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp
cơng, của và chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình là yếu tố quyết định
sự thành cơng của Chương trình. Do vậy, cần phải xây dựng lực lượng nịng

cốt, kiên trì, đeo bám, phát huy vai trị cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, người
có uy tín trong khu vực để tuyên truyền vận động, phát huy tính gương mẫu


17

và đặc biệt có chính sách vận động thật cụ thể, cơng khai rõ ràng thì các cơng
trình, dự án được thực hiện tốt về số lượng, chất lượng và cả tiến độ thời gian.
- Trong quá trình thực hiện Chương trình xây dựng nơng thơn mới phải
gắn liền với quy chế dân chủ cơ sở, tổ chức họp dân, bàn bạc, lắng nghe ý
kiến và thống nhất chủ trương, đảm bảo công khai, công bằng, tạo được sự
ủng hộ trong nhân dân, đồng thời quan tâm đến hộ nghèo, hộ thuộc diện chính
sách khó khăn, khi đưa ra họp tổ nhân dân cần tìm biện pháp hỗ trợ, vận động
cá nhân đóng góp, giúp đỡ ổn định cuộc sống. Chú trọng ý kiến đánh giá, góp
ý của nhân dân, xem đây là yếu tố quan trọng, quyết định tính bền vững trong
xây dựng nơng thơn mới.
- Phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát, quyết liệt
của cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các
ngành, đoàn thể, các ấp. Trong đó, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền có
vai trị quan trọng.
- Phải lồng ghép sử dụng có hiệu quả sự hỗ trợ ngân sách của Nhà nước
và các nguồn lực đa dạng; việc huy động, đóng góp của người dân phải được
thực hiện trên cơ sở thực sự tự nguyện, bàn bạc dân chủ không gượng ép quá
sức dân.
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Phạm Văn Cội thấm nhuần lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Lý luận rất cần thiết nhưng nếu cách học tập
khơng đúng thì sẽ khơng có kết quả”. Do đó trong lúc học tập lý luận chúng ta
cần nhấn mạnh “Lý luận phải liên hệ với thực tế. Nói phải đi đơi với làm, học
đi đơi với hành, tránh tình trạng quan liêu, sách vở, lý thuyết sng xa rời thực
tiễn, nói mà khơng làm hoặc nói một đằng làm một nẻo…”.

Với những kết quả đã đạt được, những bài học kinh nghiệm được rút ra,
với sự nỗ lực, quyết tâm và đoàn kết sẽ là tiền đề quan trọng để Đảng bộ,
chính quyền và Nhân dân xã Phạm Văn Cội tiếp tục thực hiện thành công
nâng chất các tiêu chí nơng thơn mới tại xã giai đoạn 2021-2025 trong thời
gian tới.


18

PHẦN III: KẾT LUẬN
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với
nhau. Trong đó, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý. Còn lý luận sau khi ra đời sẽ tác động trở lại sự
phát triển của thực tiễn. Do lý luận và thực tiễn thống nhất với nhau nên trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần chú ý đúng mức tới cả hai nhân tố này;
coi trọng lý luận song không cường điệu, tuyệt đối hóa vai trị của lý luận,
xem thường thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn rằng : “Thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lê
nin. Thực tiễn khơng có lý luận dẫn đường thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.” Từ những cơ sở nêu trên và
những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng của thế giới
đương đại vừa địi hỏi, vừa tạo điều kiện cho sự phát triển mới của Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. Bản chất cách mạng và khoa học, giá trị và sức sống của Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin đòi hỏi và đặt ra yêu cầu rất cao đối với chúng ta hôm nay
là phải trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy, thúc đẩy sự nghiệp
cách mạng tiến lên.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ,
đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây
dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hồn cảnh đất nước. Mặc dù có những

khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong
cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta phát triển.
Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và trải qua hơn 30 năm
đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên.
Qua những nhận định trên, chúng ta thấy rằng để quán triệt tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải khơng ngừng học tập lý luận,
nâng cao trình độ lý luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải


19

biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn
mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới
không trở thành giáo điều.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của quá trình phát triển
xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và
đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh
của việc xây dựng, phát triển đời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc
nào hết lý luận Mác – Lênin trong sự thống nhất cao với thực tiễn phải thể
hiện vai trị hướng dẫn, chỉ đạo trong cơng việc, giải quyết những vấn đề cấp
bách và trọng đại do cuộc sống hiện thực đặt ra cho chúng ta trong công cuộc
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay. Những thành quả mà
chúng ta có được ngày hơm nay là kết quả của sự năng động, sáng tạo của
Đảng, Nhà nước ta trong qua trình vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn vào hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Học tập Chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí
Minh với những hoạt động trải nghiệm thực tiễn phong phú của Bác, đã trở

thành vốn kiến thức to lớn, góp phần hình thành nên hệ thống quan điểm của
Người đó là sự phản ánh chân thực về việc vận dụng sáng tạo nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, trở thành tài sản vô giá mà Người đã để
lại cho dân tộc Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung. Cùng với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, “kim
chỉ nam” cho hành động của Đảng, của nhân dân ta giành thắng lợi trong
công cuộc xây dựng đất nước trong thời đại ngày nay./.



×