Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tieu luan NGUỒN gốc bản CHẤT và VAI TRÒ của lợi NHUẬN TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.38 KB, 31 trang )

KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài:
NGUỒN GỐC - BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI
NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


MỞ ĐẦU
Trong mọi nền kinh tế thị trường, hàng hóa sản xuất ra không phải
để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất mà để bán trên thị
trường. Mục tiêu và động lực của mọi nền kinh tế thị trường là lợi nhuận,
lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả hoạt động kinh tế của mình. Do vậy
lợi nhuận luôn là mối quan tâm của các nhà doanh nghiệp. Việt Nam đang
trong thời kỳ quá độ từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng
hóa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì vấn đề
lợi nhuận là một vấn đề cần được quan tâm. Vậy lợi nhuận là gì? Nguồn
gốc, bản chất và vai trị của lợi nhuận là gì? Từ khi sản xuất hàng hóa ra
đời vấn đề lợi nhuận luôn là mối quan tâm của các nhà kinh tế chính trị.
Mở đầu là trường phái trọng thương, sau đó là trường phái trọng nơng,
trường phái tư sản cổ điển Anh, trường phái tiểu tư sản... và đến Marx thì
lợi nhuận được nhìn nhận một cách hoàn chỉnh nhất. Hiện nay vấn đề lợi
nhuận vẫn đang được tiếp tục tìm tịi và nghiên cứu.
Đối với tơi - một sinh viên của trường Đại học Kinh tế quốc dân - là
một cử nhân kinh tế tương lai thì đề tài này là một phần của hành trang
giúp tơi góp phần đưa đất nước bước vào thế kỷ XXI - Thế kỷ của nền kinh
tế quốc tế hóa. Trong bài viết này sẽ bàn tới vấn đề lợi nhuận với hai nội
dung chính. Một là, nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận. Hai là, vai trò của
lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên do thời gian và trình độ
có hạn, bài viết khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy cơ cùng
các bạn góp ý, để bài viết sau được tốt hơn.

2




NỘI DUNG
Chương I

NGUỒN GỐC - BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN

I. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRƯỚC, MARX VỀ LỢI
NHUẬN

1. Quan điểm của chủ nghĩa trọng thương về lợi nhuận
Phái trọng thương là những nhà kinh tế học đầu tiên đi tìm nguồn
gốc của lợi nhuận trong lưu thơng.
Theo chủ nghĩa trọng thương, bản chất của lợi nhuận là số dư do giá
trị thực tế vượt quá giá trị nguyên thủy nảy sinh trong trao đổi không ngang
giá, là sự lừa gạt như chiến tranh, là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua
rẻ bán đất. Họ cho rằng không một người nào thu được lợi nhuận mà không
làm thiệt kẻ khác. Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân
tộc khác. Trong trao đổi phải có một bên thua để bên kia được.
Như vậy, chủ nghĩa trọng thương chỉ xem xét lợi nhuận trong lĩnh
vực lưu thơng. Điều đó khơng có gì là lạ, bởi vì họ đã sống trong thời đại
tư bản thương nghiệp, và ngồi tư bản thương nghiệp ra, họ khơng biết một
hình thái tư bản nào khác, họ cũng khơng biết một hình thái lợi nhuận nào
khác ngồi lợi nhuận thương nghiệp. Và tư bản thương nghiệp chỉ hoạt
động trong lưu thông.
2. Quan điểm của trường phái cổ điển Ph áp - trường phái
trọng nông về lợi nhuận
Trường phái trọng nông ở Pháp mà đại biểu là F.Quesnay (1694 1772) và A.Turgot (1727 - 1781) phê phán gay gắt chủ nghĩa trọng thương,
họ cho rằng "trao đổi không sản xuất ra được gì cả" trao đổi khơng làm cho
tài sản tăng lên vì tài sản được tạo ra trong sản xuất. Theo Marx: "phái

trong nông đã chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ

3


lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp và do đó đã dặt cơ sở
cho việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng họ không đưa ra
được một lý luận đúng đắn về lợi nhuận. Họ đã đề xuất một tư tưởng cho
rằng sản phẩm thặng dư, do đó cả lợi nhuận nữa, đều chỉ được sang stạo ra
trong nơng nghiệp. Vì vậy họ chỉ coi lao động trong nông nghiệp mới là lao
động sản xuất, cịn mọi lao động khác khơng những trong thương nghiệp
mà cả trong công nghiệp đều bị coi là lao động không sinh lợi. Turgot cho
rằng, lợi nhuận là sản phẩm thuần túy mà nhà tư bản thu nhập được, hay
nói cách khác, lợi nhuận là thu nhập khơng lao động do công nhân tạo ra.
3. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh về lợi nhuận
a. Lý luận về lợi nhuận của A.Smith
A.Smith cho rằng lợi nhuận cùng tiền lương và địa tô là ba nguồn
gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là bất kỳ giá trị trao đổi nào. Nếu
địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên thì lợi nhuận (P) là khoản khấu trừ thứ hai
vào sản phẩm của người lao động. Chúng đều có chung nguồn gốc là lao
động khơng được trả cơng của cơng nhân. Ơng chỉ ra, lợi tức là một bộ
phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho
chủ của nó để được quyền Sở hữu tư bản. Ơng đã nhìn thấy xu hướng bình
qn hóa tỷ xuất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
A.Smith cho rằng lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào sự giàu có tăng
hay giảm của xã hội. Ơng thừa nhận sự đối lập giữa tiền cơng và lợi nhuận.
Ơng đã nhìn thấy: "Khuynh hướng thường xuyên đi đến chỗ ngang nhau"
của tỷ suất lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh giữa các ngành.
Tuy nhiên, A.Smith cịn có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như:
không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, và ông

cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực lưu thông
đều đẻ ra lợi nhuận như nhau, ông coi lợi nhuận trong phần lớn trường hợp
chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư
bản, lợi nhuận là một trong những nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập
cũng như của mọi giá trị trao đổi. Theo Smith lợi nhuận tham gia vào việc

4


hình thành giá trị với tư cách là một trong những nhân tố hình thành giá cả,
cịn nguồn gốc của bản thân lợi nhuận thì vẫn khơng rõ ràng.
Chúng ta còn thấy ở Smith mầm mống của những lý luận tư sản sau
này về lợi nhuận: những lý luận quan niệm lợi nhuận là số tiền trả cho chủ
xí nghiệp về sự "rủi ro". Những kẻ ủng hộ các thứ lý luận lợi nhuận những lý luận coi lợi nhuận là số tiền thưởng về sự tiết kiệm hoặc "tiết
dục" của nhà tư bản - đã tìm được chỗ dựa của Smith.
b. Lý luận về lợi nhuận của Ricardo
Đối với lý luận về lợi nhuận, Ricardo còn đi rất xa, hơn Smith.
Theo Ricardo, lợi nhuận và tiền công là hai bộ phần của giá trị do lao động
tạo nên. Từ đó, Ricardo rút ra một kết luận rất quan trọng và có tác dụng
quyết định trong tồn bộ hệ thống lý luận của ơng. Kết luận đó là: lợi
nhuận và tiền công đối lập nhau, sự tăng hay giảm của một trong hai yếu tố
sẽ gây ra sự giảm hay tăng của yếu tố kia. Từ đó, Ricardo cũng khẳng định
rằng việc tăng hay giảm của lợi nhuận hoặc của tiền cơng khơng ảnh hưởng
gì đến giá cả, mà chỉ ảnh hưởng đến sự phân phối giá trị giữa công nhân và
các nhà tư bản. Như vậy, Ricardo đã quy lợi nhuận thành giá trị thặng dư.
Vấn đề này Marx đã nói như sau: " Ricardo khơng bao giờ nêu ra vấn đề
nguồn gốc của giá trị thặng dư. Ông coi giá trị thặng dư là cái gì vốn có của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Và dưới con mắt của ơng thì
phương thức sản xuất này là hình thức tự nhiên của nền sản xuất xã hội.
Theo Ricardo, mức tăng của lợi nhuận phụ thuộc vào mức tăng của năng

suất lao động, nhưng Ricardo lại hoàn toàn khơng hiểu rõ thực chất của lợi
nhuận. Ơng chỉ thấy rằng, lợi nhuận là số cịn lại ngồi tiền lương mà nhà
tư bản trả công cho công nhân.
4. Các học thuyết kinh tế về lợi nhuận thời kỳ suy đồi phái cổ
điển Pháp
a. Lý luận về lợi nhuận của Thomas Malthus
Malthus phủ nhận vai trò của lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị và
coi lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác của giá trị. Từ đó, ơng giải thích lợi

5


nhuận như là khoản thặng dư ngoài số lao động đã hao phí để sản xuất
hàng hóa. Theo cách giải thích này, lợi nhuận chỉ là khoản cộng thêm danh
nghĩa vào giá cả, lưu thơng là lĩnh vực trong đó lợi nhuận xuất hiện nhờ
bán hàng hóa đắt hơn khi mua. Theo ông, lợi nhuận không thể xuất hiện
trong việc trao đổi giữa các nhà tư bản. Như vậy, Thomas Malthu coi lợi
nhuận là khoản dơi ra ngồi chi phí về lao động sống và lao động vật hóa
chứ khơng phải là khoản dôi ra từ lao động sống. Điều đó thể hiện ơng xa
rời lý thuyết giá trị - lao động.
b. Lý luận về lợi nhuận của J.Bsay
Trong lịch sử, cho đến thời kỳ J.Bsay có nhiều cách giải thích lợi
nhuận, "lợi nhuận do lưu thơng tạo ra, do mua rẻ bán đắt mang lại". "Lợi
nhuận do sự tiết dục, tiết kiệm nhịn ăn, nhịn tiêu của nhà tư bản". "Lợi
nhuận là hiệu suất đầu tư của nhà tư bản mang lại". Quan điểm cuối cùng
được Say ủng hộ. Theo ông, nếu đầu tư thêm sản phẩm phù hợp với phần
tăng thêm về giá trị. Từ đó, máy móc tham gia vào sản xuất sẽ tham gia vào
việc tăng giá trị. Như vậy, ơng giải thích lợi nhuận dựa vào quan điểm hiệu
suất đầu tư tư bản. Ơng cịn cho rằng, nhà kinh doanh cũng lao động như
công nhân, lợi nhuận do anh ta thu được cũng giống tiền lương cơng nhân.

Đó là tiền lương của người quản lý kinh doanh.
5. Các học thuyết về lợi nhuận của giai cấp tiểu tư sản
a. Lý luận về lợi nhuận của Sismondi
Cơng lao của Simondi là phân tích lợi nhuận, địa tơ và tiền lương.
Ơng hiểu vấn đề này rõ hơn A.Smith và D.Ricardo. A.Smith coi lợi nhuận
là bộ phận của sản phẩm lao động. Sismondi đã phát triển tư tưởng đó và
cho rằng lợi nhuận là khấu trừ từ sản phẩm lao động, đó là thu nhập khơng
lao động, là kết quả của sự cướp bóc cơng nhân, là tai họa kinh tế của giai
cấp vô sản.
Về địa tô, ông cũng cho đó là kết quả của sự cướp bóc cơng nhân.
Ơng phê phán quan điểm của D.Ricardo về ruộng đất xấu khơng đưa lại địa
tơ. Đó là một tiến bộ lớn.

6


Tuy nhiên, ở Sismondi cịn có những hạn chế như: lặp lại luận điểm
của A.Smith về lợinhuận doanh nghiệp, coi đó gần giống như tiền cơng;
nghi ngờ ý kiến đúng đắn của Ricardo về mức lợi nhuận trung bình, lặp lại
luận điểm sai lầm của Smith về tặng thưởng của tự nhiên cho hoạt động sản
xuất, thậm chí cịn tạo ra giá trị phụ thêm và đưa ra luận điểm vơ lý cho
rằng hình như địa tơ từ dưới đất mọc lên; ông không hiểu nguồn gốc của
địa tô tuyệt đối và bộ máy chiếm hữu địa tơ đó.
b. Lý luận về lợi nhuận của Proudhon
Proudhon không hiểu được bản chất của lợi nhuận cơng nghiệp.
Ơng coi nó là hình thái đặc biệt của tiền công. Proudhon coi sự tồn tại của
lợi tức là cơ sở của sự bóc lột. Do đó, nếu gạt bỏ lợi tức thì sẽ bỏ được sự
bóc lột. Muốn vậy thì phải cho vay khơng lấy lãi.
II. LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN CỦA MARX


1. Khái niệm lợi nhuận và thực chất của lợi nhuận
Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ln ln
có một khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa, nhà tư bản khơng
những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lợi
ngang bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận.
Vậy, lợi nhuận là số tăng lên ngồi chi phí sản xuất, là mức lớn lên
của toàn bộ tư bản ứng trước. Lợi nhuận khơng nằm trong chi phí sản xuất.
Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan
niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thứcchun hóa
là lợi nhuận. Nói cách khác, thực chất của lợi nhuận là hình thái đặc biệt
của giá trị thặng dư. Trong đó, "giá trị thặng dư là giá trị mới dơi ra ngồi
sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không".
2. Sự che dấu của quan hệ sản xuất về phạm trù lợi nhuận
a. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, giá trị sử dụng khơng phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất
chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi.

7


Nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hóa có giá trị lớn hơn tổng
giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản bỏ ra để
mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Bây giờ chúng ta nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong sự thống nhất của nó như là q trình lao động và q trình tăng thêm
gía trị qua q trình sản xuất sợi.
Giả định để sản xuất 10kg sợi cần 10kg bơng, giá 10kg bơng là 10$.
Để biến số bơng đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và
hao mịn máy móc là 2$, giá trị sức lao động trong một ngày của một công

nhân là 3$, trong một giờ lao động người công nhận tạo ra một giá trị là
0,5$, cuối cùng ta giải định rằng trong q trình sản xuất sợi đã hao phí
theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giá định như vậy, nếu như quá trình lao động chỉ kéo dài đến
cái điểm mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động (6 giờ) tức là bằng thời
gian lao động cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền
chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế q trình lao động khơng chỉ dừng lại ở điểm đó.
Chẳng hạn nhà tư bản bắt cơng nhân lạo 12 giờ trong một ngày thì: chi phí
sản xuất là 27$ và giá trị sản phẩm mới là 30$ lớn hơn giá trị ứng trước là
3$. Phần giá trị mới dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư.
Sản xuất giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài
quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại
bằng vật ngang giá mới.
Giá trị thặng dư có thể được sản xuất ra bằng hai cách là kéo dài
ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết khơng đổi, đó là
giá trị thặng dư tuyệt đối. Hoặc bằng cách rút ngắn thời gian lao động trong
điều kiện độ dài ngày lao động khơng đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời
gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
b. Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận

8


Giá trị của một hàng hóa sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa
biểu thị bằng công thức Gt = c + v + m. Nếu trong giá trị ấy, chúng ta đem
trừ giá trị thặng dư m đi thì sẽ chỉ cịn lại có cái ngang giá mà thơi, tức là
giá trị nằm trong hàng hóa, thay thế cho giá trị tư bản c + v đã chi ra trước
hình thái các yếu tố sản xuất.
Nếu việc tạo ra một hàng hóa nào đó địi hỏi phải bỏ ra một tư bản

là 500$, chẳng hạn trong đó 20$ để bù lại hao mòn của tư liệu sản xuất,
380$ vào vật liệu sản xuất, 100$ vào việc mua sức lao động và tỷ suất của
giá trị thặng dư là 100% thì giá trị của sản phẩm sẽ là: 100c + 100 v + 100m
= 600$.
Sau khi đã trừ đi 100$ giá trị thặng dư thì cịn lại một giá trị hàng
hóa là 500$. Giá trị này chỉ thay thế số tư bản 500$ đã bỏ ra. Phần giá trị
ấy của hàng hóa thay thế giá cả của những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và
giá cả của sức lao động đã được sử dụng. Chỉ thay thế số chi phí mà bản
thân nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa, đó chính là chi phí sản xuất
của hàng hóa.
Chi phí mà nhà tư bản phải bỏ ra để sản xuất ra một hàng hóa và
chi phí của bản thân việc sản xuất ra hàng hóa đó là hai lượng hồn tồn
khác nhau. Phần do giá trị của hàng hóa, phần do giá trị thặng dư cấu
thành, khơng tốn phí gì cho nhà tư bản cả, chính là vì phần giá trị đó làm
cho cơng nhân phải tốn phí lao động khơng được trả cơng. Nhưng trên cơ
sở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, một khi người cơng nhân đã đi vào q
trình sản xuất thì anh ta là một bộ phận cấu thành của tư bản sản xuất đang
được sử dụng, và thuộc về nhà tư bản, do đó nhà tư bản là người thật sự
sản xuất ra hàng hóa vì vậy chi phí sản xuất ra hàng hóa đối với nhà tư bản
là giá trị thực tế của bản thân hàng hóa. Nếu ký hiệu k là chi phí sản xuất
thì

cơng

thức:

Gt = c + v + m sẽ chuyển thành: Gt = k + m hay là: "giá trị hàng hóa = chi
phí sản xuất + giá trị thặng dư".

9



Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự
khác nhau cả về mặt lượng lẫn mặt chất.
Về mặt lượng: chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ln nhỏ hơn chi
phí thực tế hay giá trị hàng hóa.
(c + v) < (c + v + m).
Về mặt chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy
đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, cịn chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản
mà thơi. Nó khơng tạo ra giá trị hàng hóa. Các Mác viết: "Phạm trù chi phí
sản xuất khơng có quan hệ gì với sự hình thành giá trị hàng hóa cũng như
khơng có quan hệ gì với quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị...".
Chúng ta sẽ chứng minh điều đó.
Giá trị hàng hóa là Gt = c + v + m trong đó m là bộ phận thừa ra
ngồi chi phí sản xuất, tức là giá trị thặng dư. Như vậy giá trị thặng dư
trước hết là một phần của giá trị hàng hóa thừa ra ngồi số chi phí sản xuất
ra nó. Nhưng vì chi phí sản xuất là bằng giá trị của tư bản đã chi phí, chi
phí sản xuất này khơng ngừng chuyển hóa trở lại thành những yếu tố vật
chất của tư bản đó nên phần giá trị thừa ra ấy là phần lớn lên thêm của giá
trị tư bản đã được chi phí vào việc sản xuất hàng hóa, và khi kết thúc vịng
lưu thơng của hàng hóa thì tư bản đó lại quay về vịng xuất phát của nó.
Thực tế giá trị thặng dư m chỉ là kết quả của một sự tăng thêm của
tư bản khả biến, nhưng khi quá trình sản xuất kết thúc, giá trị thặng dư lại
hình thành khoản tăng thêm của giá trị (c + v) tức là của toàn bộ tư bản đã
chi phí. Cơng thức c + (v + m) chỉ ra rằng m là do sự chuyển hóa của một
giá trị tư bản nhất định v, được ứng ra cho sức lao động thành một lượng
lưu động, tức là do sự chuyển hóa của một lượng bất biến thành một lượng
khả biến mà ra, cơng thức ấy cũng có thể viết là (c + v) + m.
Tuy nhiên, giá trị thặng dư là phần tăng thêm không những của bộ

phận tư bản đã được ứng ra, đã ra nhập vào q trình tăng thêm giá trị mà
cịn là của cả bộ phận tư bản ứng ra không ra nhập vào q trình đó, như

10


vậy giá trị thặng dư là một phần giá trị tăng thêm không những của tư bản
đã chi ra và thay thế bởi chi phí sản xuất của hàng hóa, mà cịn là của tồn
bộ tư bản nói chung đã được dùng vào trong sản xuất. Giá trị thặng dư vừa
được đẻ ra từ bộ phận tư bản ứng trước ra nhập vào chi phí sản xuất của
hàng hóa lại vừa được đẻ ra từ bộ phận tư bản không ra nhập vào chi phí
đó. Tóm lại, nó phát sinh một cách giống nhau từ cả những yếu tố cố định
lẫn yếu tố lưu động của tư bản đã được sử dụng. Người ta cịn có thể rút
ngắn hẳn, lập luận này lại nếu ta theo Man - Tuýt mà nói một các thơ bạo
và giản đơn: "Nhà tư bản trông mong là tất cả các bộ phận của tư bản mà
hẳn ứng ra đều sẽ đem lại lợi nhuận nhau cả".
Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
ra như vậy, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận. Do đó, một số giá trị
nào đó sẽ là một tư bản vì nó được bỏ ra để sản sinh ra một lợi nhuận, hoặc
là lợi nhuận sinh ra là vì một số giá trị được dùng làm tư bản. Nếu gọi lợi
nhuận là P thì cơng thức: Gt = c + v + m = k + m sẽ chuyển hóa thành:
Gt = k + P hay: giá trị của hàng hóa = chi phí sản xuất + lợi nhuận.
Vậy, thoạt nhìn ta thấy lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng là một,
lợi nhuận chẳng qua là một hình thái thần bí hóa của các giá trị thặng dư,
hình thái mà hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên phải đẻ ra. Vì
trong sự hình thành chi phí sản xuất, như nó nổi lên ở bề mặt các hiện
tượng, không th4ẻ nào thấy được sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư
bản khả biến, cho nên nguồn gốc của sự thay đổi giá trị xảy ra trong quá
trình sản xuất phải chuyển từ bộ phận khả biến của tư bản sang tồn bộ tư
bản. Vì ở một cực giá cả sức lao động biểu hiện ra dưới hình thái biến

tướng là tiền cơng, nên ở cực đối lập giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình
thái biến tướng là lợi nhuận.
Chúng ta thấy rằng chi phí sản xuất của hàng hóa thấp hơn giá trị
của nó. Vì Gt = k + m nên k = Gt - m. Trong điều kiện này công thức Gt =
k + m chỉ có thể quy lại thành Gt = k tức giá trị của hàng hóa bằng chi phí
sản xuất hàng hóa nếu như m = 0, trường hợp này không bao giờ xảy ra

11


trên cơ sở sản xuất tư bản chủ nghĩa, mặc dầu trong những tình hình đặc
biệt nào đó của thị trường, giá bán hàng hóa có thể hạ xuống bằng chi phí
sản xuất của chúng và thậm chí cịn thấp hơn.
Vậy, nếu hàng hóa được bán ra theo giá cả của nó, thì người ta đã
thực hiện được một lợi nhuận, lợi nhuận đó bằng phần giá trị thừa ra ngồi
chi phí sản xuất của hàng hóa. Nhưng nhà tư bản có thể bán hàng hóa dưới
giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận. Chừng nào giá bán của hàng hóa cịn
cao hơn chi phí sản xuất của nó, dù giá bán ln thấp hơn giá trị của nó thì
bao giờ cũng vẫn thực hiện được một bộ phận giá trị thặng dư chứa đựng
trong nó, vậy là dù sao cũng có lợi nhuận.
Trong ví dụ ban đầu giá trị hàng hóa là 600$, chi phí sản xuất là
500$. Nếu hàng hóa được bán với giá là 510$, 520$, 530$... Như thế tức là
nó được bán ra dưới giá trị của nó 90, 80, 70$... tuy vậy nhà tư bản vẫn thu
được lợi nhuận là 10, 20, 30$... Dĩ nhiên là giữa giá trị của hàng hóa và chi
phí sản xuất của nó có thể có vơ số giá bán xê dịch nhau. bộ phận của giá
trị hàng hóa mang giá trị thặng dư càng lớn thì cái chuỗi những giá cả trung
gian ấy trên thực tế càng dài.
Điều đó khơng những giải thích được hiện tượng thơng thường của
sự cạnh tranh, quy luật cơ bản của sự cạnh tranh mà mãi cho đến bây giờ
khoa học kinh tế chính trị vẫn khơng hiểu được và là quy luật điều hòa tỷ

suất lợi nhuận chung và quyết định cái mà người ta gọi là những giá cả sản
xuất do tỷ suất lợi nhuận chung ấy quy định. Quy luật ấy dựat rên sự chênh
lệch giữa giá trị của hàng hóa và chi phí sản xuất của nó và dựa trên khả
năng bán hàng hóa dưới giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận, khả năng này là
do sự chênh lệch nói trên sinh ra.
Giới hạn thấp nhất của giá bán hàng hóa là do chi phí sản xuất thì
giá bán khơng thể bù lại hồn tồn các yếu tố của tư bản sản xuất đã chi ra.
Nếu quá trình này cứ tiếp tục thì giá trị tư bản ứng ra sẽ biến mất. Riêng
điểm ấy cũng đã làm cho nhà tư bản thiên về việc coi chi phí sản xuất là
giá trị nội tại thật sự của hàng hóa vì đó là giá cả cần thiết để duy trì tư bản

12


của nó. Ngồi ra, chi phí sản xuất chính là giá mua mà bản thân nhà tư bản
đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa, nghĩa là giá mua do chính q trình sản xuất
quyết định. Bởi vậy đối với nhà tư bản, phần giá trị thừa ra hay giá trị
thặng dư chứa đựng trong hàng hóa khơng phải là qua việc bán mà được
thực hiện, mà là do bản thân việc bán sinh ra.
Như vậy việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận là một
quá trình khách quan. Q trình này khơng phải chỉ diễn ra trong "ý thức
thông thường của những người đảm nhận sản xuất" mà còn do bản thân
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định một cách khách quan.
c. Tỷ suất lợi nhuận và vai trị của nó
Trên thực tế các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà
còn quanm tâm đến tỷ suất lợi nhuận:
"Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư
và toàn bộ tư bản ứng trước".
Nếu ta ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p' thì ta có:
p'=


m
.100%
c+ v

giữa m' và p' có sự khác nhau:
- Về mặt lượng: p' luôn nhỏ hơn m'
p'=

m
.100%
c+ v

m'=

m
.100%
v

- Về mặt chất: m' phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với
cơng nhân làm th cịn p' khơng thể phản ánh được điều đó mà chỉ nói lên
mức lãi của việc đầu tư tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào
đâu thì có lợi hơn. Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp là tùy thuộc vào nhiều
nhân tố khác quan như: tỷ suất giá trị thặng dư, sự tiết kiệm tư bản bất
biến, cấu tạo hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển tư bản. Do đó, việc thu

13



lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận, là động lực thúc đẩy các nàh tư
bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
d. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân
Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất
khác nhau, lúc đầu là khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ
suất lợi nhuận khác nhau đó sau bẵng đi thành một tỷ suất lợi nhuận chung,
hay tỷ suất lợi nhuận bình quân: ký hiệu là P'.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm mục đích
tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
- Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản
kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi
đầu tư có lợi hơn.
- Tỷ suất lợi nhuận bình qn là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng
giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất
cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nếu ký hiệu
P'là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì
P'=

∑m
.100%
∑ (c + v)

- Quá trình bình qn hóa tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy
luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy
luật tỷ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy
luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân
đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của CNTB.
* Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình qn, giá trị hàng

hóa chuyển thành giá cả sản xuất.
Giá cả sản xuất của hàng hóa bằng chi phí sản xuất của hàng hóa
cộng với lợi nhuận bình quân (GCSX = k + P ).

14


Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại cơng
nghiệp cơ khí TBCN phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang
ngành khác.
Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả
hàng hóa xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng ở mỗi ngành giá cả sản
xuất và giá trị có thể khơng bằng nhau nhưng trong tồn xã hội thị trường
giá cả sản xuất bằng tổng giá trị hàng hóa. Chính trong mối quan hệ này giá
trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường.
Thực chất của hoạt động quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện
hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa
tư bản.
e. Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận
Trong thực tế xã hội, lợi nhuận được biểu hiện dưới các hình thức
cụ thể của nó như là: lợi nhuận tư bản cơng nghiệp, lợi nhuận tư bản
thương nghiệp, lợi tức cho vay, địa tô TBCN.
Lợi nhuận công nghiệp là kết quả của tư bản đang vận động, đang hoạt
động ở trong quá trình sản xuất, và do đó là kết quả của vai trị tích cực mà
người sử dụng nó đã đóng trong q trình tái sản xuất. Lợi nhuận tư bản cơng
nghiệp là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất TBCN.
Lợi nhuận từ bản thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được
sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho
nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa

giá bán và giá mua hàng hóa. Điều đó khơng có nghĩa là nhà tư bản thương
nghiệp mua hàng hóa thấp hơn giá trị và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị
của nó.
Lợi nhuận công nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp gọi chung lại là
lợi nhuận doanh nghiệp, là phần còn lại của tổng lợi nhuận mà nhà tư bản
thu được từ quá trình sản xuất sau khi đã trả lợi tức cho người cho vay.

15


Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi
vay phải trả cho nhà tư bản bán cho vay căn cứ vào số tiền mà nhà tư bản
cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Nguồn gốc của lợi tức là
một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
Đứng về mặt chất mà xét thì lợi tức là giá trị thặng dư chỉ giản đơn do
quyền sở hữu tư bản sinh ra, là giá trị thặng dư mà nhà tư bản với tư cách
là tư bản đem lại, mặc dù người sở hữu tư bản đó vẫn đứng ngồi q trình
tái sản xuất, như vậy lợi tức là do tư bản tách khỏi q trình của nó sản
sinh ra.
Địa tơ tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi
đã khấu trừ đi, phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng
đất. Địa tô tư bản chủ nghĩa có hai hình thức là địa tô chênh lệch I và địa tô
chênh lệch II.
f. Ý nghĩa lý luận của Mác
Thông qua việc nghiên cứu lý luận của các nhà tư tưởng trước Mác
và Mác, ta có thể nhận ra ngay Mác là người đã đưa ra và phân tích một
cách đầy đủ, đúng đắn nhất về nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận. Ông đã
nghiên cứu nó trên từng góc độ của nền kinh tế tư bản để tìm ra nguồn gốc
và đưa ra các hình thức biểu hiện của nó. Do đó Mác đã khắc ph ục được
tất cả những hạn chế mà các nhà tư tưởng trước chưa phân tích được. Vậy,

chúng ta có thể hiểu lợi nhuận là một phạm trù khách quan do phương thức
sản xuất TBCN quy định được nghiên cứu dới hình thái chung nhất, đó là
hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nếu giá trị thặng dư là giá trị
được coi là kết quả hoạt động của toàn bộ tư bản ứng trước.

16


Chương 2
VAI TRỊ CỦA LỢI NHUẬN

Theo Mác, cịn lợi nhuận còn thúc đẩy các nhà tư bản thương
nghiệp tham gia tích cực vào q trình lưu thơng hàng hóa. Nó quyết định
thưởng hay phạt các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo ơng, các doanh
nghiệp muốn tồn tại được thì phải cạnh tranh và trong quá trình cạnh tranh
các doanh nghiệp luôn phải đảm bảo ba vấn đề lớn của kinh tế là: sản xuất
cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Động lực của sự cạnh
tranh đó là lợi nhuận. Vì lợi nhuận mà các nhà tư bản tiến hành cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất và hiệu quả lao động để thu lợi nhuận siêu ngạch. Nó
cũng chính là ngun nhân dẫn đến độc quyền. Vì vậy việc nghiên cứu vai
trị của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường là không thể thiếu được trong
bài viết này.
I. VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1. Nền kinh tế thị trường
Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường,
trước hết ta phải tìm hiểu thế nào là nền kinh tế thị trường.
Như chúng ta đã biết mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng
cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ

để thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Việc sản xuất ra hàng hóa gì, tiến hành
theo phương pháp nào là tốt nhất, phân phối hàng hóa sản xuất ra sao cho
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội, đó là những vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế xã hội. Lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó? Trong
một nền kinh tế mà người ta gọi là nền kinh tế chỉ huy nếu những vấn đề
cơ bản đó do cơ quan nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế trong đó
những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh
tế thị trường. Hay nói cách khác nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng

17


hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó mọi quan hệ hàng hóa được tiền tệ
hóa, được vận hành theo cơ chế thị trường.
"Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hóa do sự
tác động của các quy luật vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ
bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào, cho ai? cơ chế thị trường bao
gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường".
2. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
Sau khi nghiên cứu cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường ta
có thể khẳng định chắc chắn vai trò to lớn của lợi nhuận: "Lợi nhuận là
mục tiêu kinh tế cao nhất, theo đuổi lợi nhuận vừa là mục đích vừa là động
lực cơ bản của nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận là điều kiện tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp". Nó quyết định thưởng hay phạt các hoạt động sản
xuất kinh doanh, lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất
các hàng hóa mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực có ít người
tiêu dùng. Lợi nhuận cũng đưa các doanh nghiệp đến việc áp dụng khoa
học kỹ thuật rộng rãi và hiệu quả nhất.
Sở dĩ lợi nhuận được coi là mục tiêu và động lực cơ bản của nền
kinh tế thị trường là vì lợi nhuận gắn liền với lợi ích kinh tế. Mà chúng ta

đã biết trong tất cả các loại lợi ích thì lợi ích kinh tế là vấn đề đáng quan
tâm nhất, có ý nghĩa quyết định bởi con người bao giờ cũng ở vào vị trí
trung tâm của xã hội, là nhân tố hàng đầu và quyết định đối với sự phát
triển kinh tế xã hội. Đã là con người thì nhu cầu và hành động của họ trước
hết là nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Vì vậy động lực của sự phát triển
là nhu cầu của mỗi thành viên trong xã hội.
Xét về mặt kinh tế, động lực chính là nhu cầu vật chất, lợi ích vật
chất của con người, trong đó quyền sở hữu và quyền hưởng thụ là những
khía cạnh khác nhau của lợi ích. Khi đã thừa nhận việc đặt con người vào
vị trí trung tâm thì vấn đề cốt lõi là phải đảm bảo lợi ích cá nhân, thỏa mãn
các nhu cầu chính đáng và ngày càng tăng của mỗi cá nhân, coi đó là động
lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Như

18


vậy lợi ích kinh tế có vai trị là động lực thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế và
không cách nào khác để có nhiều lợi ích kinh tế là tìm kiếm lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường ngoại trừ những doanh nghiệp làm
nhiệm vụ cơng ích thì cịn lại tất cả các doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh đều có mối quan tâm hàng đầu là lợi nhuận và hiệu quả của
việc sản xuất kinh doanh được thể hiện chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít.
Lợi nhuận là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và phí tổn sản xuất.
Trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học quan niệm rằng lợi nhuận
chính là sự trả công cho những ai dám "mạo hiểm" vay vốn đầu tư vào sản
xuất kinh doanh và dám chấp nhận rủi ro, thậm chí phá sản. Để đạt được
lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau, tìm
mọi cách để giảm chi phí và thu lợi nhuận cao nhất. Trong phương thức sản
xuất TBCN, Mác nói: "Nếu đảm bảo lợi nhuận tư bản hăng máu lên, đảm
bảo 100% bất chấp mọi đạo luật và 300% treo cổ cũng sẵn sàng". Sản xuất

TBCN trong thời kỳ cạnh tranh tự do không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà
là lợi nhuận siêu ngạch vì vậy các nhà tư bản đã đua nhau cải tiến kỹ thuật,
áp dụng các thành tựu khoa học mới vào sản xuất, tuy nhiên không loại trừ
những biện pháp phi kinh tế. Mục đích chính của tư bản là lợi nhuận. Như
vậy lúc này đây việc chạy theo lợi nhuận đã biểu hiện mặt trái của nó. Đó
là cạnh tranh khơng lành mạnh, độc quyền, trì trệ, lạm phát, thất nghiệp,
phân hóa giàu nghèo, vi phạm đạo đức kinh doanh...
Để làm rõ những tác động cụ thể của lợi nhuận trong nền kinh tế thị
trường ta nghiên cứu cụ thể:
a. Những tác động tích cực
* Lợi nhuận tác độngt rực tiếp đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất, thúc đẩy sự vận động của phương thức sản xuất xã hội.
Như chúng ta đã biết lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất
và người lao động với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng kỹ xảo và thói quen
lao động của họ. Lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên

19


của con người. Nó biểu hiện bằng năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình tạo ra của cải vật chất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là do sự phát triển của các yếu
tố hợp thành nó trong đó hệ thống cơng cụ lao động và trình độ khoa học
kỹ thuật, kỹ năng lao động của con người đóng vai trị quyết định.
Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường kích thích hoạt động
của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do
của họ. Cũng chính vì thế hoạt động tìm kiếm lợi nhuận cũng khó khăn
hơn, các nhà tư bản phải cạnh tranh gay gắt hơn, điều đó buộc họ phải cố
gắng tăng năng suất lao động trong các xí nghiệp của mình để giảm chi phí
sản xuất mà cụ thể là giảm giá trị cá biệt của hàng hóa. Nhà tư bản sẽ

chiếm số chênh lệch giữa giá trị xã hội và giá trị cá biệt, chừng nào năng
suất lao động xã hội còn chưa phát triển lên để số chênh lệch đó khơng cịn
nữa. Muốn vậy nhà tư bản phải áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới vào sản xuất, cải tiến máy móc, nâng cấp nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, có
nghĩa là tư liệu sản xuất được đổi mới, phát triển ngày càng hiện đại.
Nhưng con người là nhân tố tiên quyết, quan trọng bậc nhất, để có thể sáng
tạo phát minh ra các thiết bị ngày càng tối tân thì con người ngày càng có
trình độ cao. Ngược lại đối với những cơng nhân thì tầm nhìn của họ cũng
càng ngày được mở rộng, vai trò của họ bây giờ là điều khiển máy móc,
làm chủ cơng cụ vì vậy các chủ doanh nghiệp phải đào tạo họ kỹ càng hơn,
việc sản xuất ngày càng được chun mơn hóa hơn, năng suất lao động
cũng vì thế mà tăng lên, nâng cao được cả chất lượng và số lượng hàng
hóa. Ngồi ra do nhận thức xã hội của người cơng nhân phát triển, họ lao
động trước hết là để giải quyết nhu cầu cá nhân và gia đình họ, cho nên bây
giờ các nhà tư bản, các chủ doanh nghiệp khơng thể bóc lột họ một cách
thậm tệ nữa mà họ đã biết đấu tranh để đòi hỏi quyền lợi mà cụ thể là địi
hỏi lợi ích kinh tế biểu hiện bằng thu nhập. Từ đó có sự phân phối lại thu
nhập, có nghĩa là quan hệ sản xuất cũng ngày càng phát triển, phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thông qua việc tổ chức quản lý

20


kinh tế, trình độ phân cơng lao động xã hội, chun mơn hóa và hiệp tác
sản xuất.
* Vai trị của lợi nhuận trong việc tái sản xuất mở rộng.
Sự lớn mạnh của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế
nói chung tùy thuộc vào q trình sản xuất với quy mô năm sau lớn hơn
quy mô năm trước. Để thực hiện được tái sản xuất mở rộng thì phải có tích
lũy tư bản để lượng tư bản năm sau nhiều hơn năm trước. Muốn vậy phải

biến một bộ phận của giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Trong nền
kinh tế thị trường giá trị thặng dư bị biến tướng thành lợi nhuận. Lợi nhuận
thu được càng nhiều thì phần trích ra tích lũy càng lớn, q trình tái sản
xuất diễn ra càng nhanh. C.Mác nói rằng: "Tư bản ứng trước chỉ là một giọt
nước trong dịng sơng của tích lũy mà thơi". Như vậy tích lũy khơng nhờ
cái gì khác ngồi lợi nhuận. Trong q trình sản xuất lãi cứ đập vào vốn,
vốn càng lớn thì lãi càng nhiều. Do đó chính lợi nhuận lại sinh ra lợi nhuận,
thúc đẩy q trình tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Từ đó ta thấy động cơ
đẩy mạnh việc tích lũy và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là quy luật kinh tế
cơ bản cuả CNTB. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên
không ngừng của giá trị.
b. Những tác động tiêu cực
Lợi nhuận là vấn đề quan trọng, cần thiết trong việc phát triển kinh
tế. Nhưng một khi quá coi trọng nó, chỉ hướng tới nó thì mặt trái của nó
được xuất hiện.
Do mục tiêu theo đuổi là lợi nhuận nên các nhà tư bản cạnh tranh
gay gắt quyết liệt, trong quá trình cạnh tranh các nhà tư bản có lực lượng
kinh tế và kỹ thuật cao sẽ giành phần thắng, cịn các nhà tư bản nhỏ và vừa
thì bị thua lỗ, phá sản, tài sản bị cuốn hút vào các xí nghiệp lớn làm cho
quy mơ sản xuất và quy mơ tư bản lớn mở rộng nhanh chóng. Trong cuộc
cách mạng kéo dài bất phân thắng bại buộc hai bên bắt tay nhau, liên hiệp
với nhau để sản xuất kinh doanh chung. Từ một vài tư bản cùng nhau ký
hợp đồng để hình thành xí nghiệp liên hợp - hình thức đầu tiên của cơng ty
cổ phần. Khi tập trung, tư bản tăng lên, phát triển đến một trình độ nhất

21


định thì tự nó dẫn đến độc quyền. Và khi khơng cịn đối thủ cạnh tranh nữa
thì lợi nhuận thu được là lợi nhuận độc quyền và người sản xuất kinh

doanh khơng cịn nghiên cứu, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
nâng cao năng suất lao động hay hạ thấp chi phí sản xuất nữa tức là không
thúc đẩy sản xuất phát triển nữa. Dẫn đến sự bảo thủ, trì trệ của nền kinh
tế.
Ngồi ra, vì lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất vì vậy bất chấp
tất cả miễn sao thu được nhiều lợi nhuận là nhà tư bản giám xả thân. Mác
nói: "Nếu đảm bảo lợi nhuận, tư bản hăng máu lên, đảm bảo 20% tư bản
đầu tư khắp mọi nơi, đảm bảo 100% bất chấp mọi luật pháp và 300% treo
cổ cũng sẵn sàng".
Như vậy vì mục đích cuối cùng là lợi nhuận mà người sản xuất kinh
doanh bất chấp tất cả, pháp luật, đạo đức... Họ vi phạm một cách nghiêm
trọng đạo đức kinh doanh, đạo đức xã hội. Cũng vì lợi nhuận mà họ tận
dụng mọi khả năng có thể để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa
bãi, gây ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Hậu quả lại tác động lên
chính con người, hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo.
Sự tranh giành lợi nhuận làm mất đi tính nhân văn thay vào đó là
việc áp đặt, bóc lột, cá lớn nuốt cá bé, làm cho xã hội phân hóa giàu nghèo,
kẻ giàu thì càng giàu, kẻ nghèo thì càng nghèo hơn. Nét đẹp văn hóa trí
thức, tình người bị chà đạp. Từ chỗ "khơng có thước đất cắm dùi" những
người vốn dĩ đã nghèo khổ nay lại mang thêm căn bệnh thất nghiệp gây ra
nhiều tệ nạn xã hội.
Sở dĩ như vậy là vì trong nền kinh tế thị trường thì việc chạy theo
lợi nhuận, tìm kiếm lợi nhuận khốc liệt hơn. Việc chạy đua diễn ra trong
nội bộ ngành làm cho khoa học kỹ thuật phát triển, công cụ lao động ngày
càng tự động hóa tách dần với lao động trực tiếp của người công nhân, hạn
chế việc dẫn đến thất nghiệp. Mặt khác chính cạnh tranh làm phá sản các
doanh nghiệp nhỏ gây ra nạn dư thừa lao động. Còn lạm phát, như ta đã

22



biết đó là sự tăng lên liên tục của giá cả. Nó chính là bạn đồng hành của
nạn thất nghiệp.
Trên đây là một số hậu quả do việc chạy theo lợi nhuận gây ra. Vấn
đề là phải hạn chế những nhược điểm đó như thế nào?
* Giải pháp:
Những mặt tiêu cực của lợi nhuận thực chất là do những khuyết tật
của nền kinh tế thị trường gây ra. Vì vậy thực tế ngày nay không tồn tại cơ
chế thị trường thuần túy mà phải có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước
phải đóng vai trị là một chủ thể kinh tế lớn nhất, điều tiết nền kinh tế ở
tầm vĩ mơ, khơng đi sâu vào từng q trình sản xuất của từng doanh
nghiệp. Nhà nước phải tạo ra một hệ thống pháp luật hồn chỉnh, đồng bộ,
tạo ra mơi trường hành lang pháp lý nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô bằng các công cụ vĩ mô như thuế,
lãi suất... Các chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đối, kích cầu... thơng qua đó
mà duy trì cạnh tranh lành mạnh có hiệu quả, ổn định tiền tệ, giá cả, hạn
chế lạm phát, bằng quyền lực của mình sửa chữa những khuyết tật của nền
kinh tế thị trường, bảo vệ môi trường sống tự nhiên, khắc phục thất nghiệp,
chống lại độc quyền, đảm bảo công bằng xã hội, phân phối lại thu nhập...
kết hợp sự điều tiết vĩ mô của nhà nước với cơ chế thị trường tạo thành cơ
chế kinh tế hỗn hợp trong đó thị trường có vai trị xây dựng giá cả, cịn nhà
nước duy trì sự phát triển và ổn định.
II. VẤN ĐỀ LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM

1. Thực trạng vấn đề lợi nhuận
a. Thời kỳ trước năm 1989
Đây là thời kỳ nhà nước chưa đạt các doanh nghiệp hoạt động trong
mối liên hệ trực tiếp với thị trường. Nhà nước là chỗ dựa chủ yếu của các
doanh nghiệp. Đó là một cơ chế tập trung, chỉ huy làm mất khả năng sáng

tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh, thủ tiêu khả năng cạnh tranh, thiếu
động lực cách mạng khoa học và thay đổi cơng nghệ... Tính quan liêu bao

23


cấp, gây lãng phí rất lớn. Điều đó dẫn đến nền kinh tế có tăng trưởng
nhưng rất chậm và hiệu quả thấp.
Xuất phát từ quan điểm chỏ ằng kinh tế quốc doanh đóng vai trị
chủ đạo. Nhà nước đã can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
các đơn vị cơ sở. Dẫn đến tình trạng ỷ lại, trì trệ của các doanh nghiệp. Bên
cạnh đó cơ chế hình thành và phân phối thu nhập nói chung, phân phối lợi
nhuận nói riêng khơng phù hợp đã tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các
doanh nghiệp.
Một thời gian dài chúng ta chưa có sự chú ý đúng mức đối với đòn
bẩy lợi nhuận. Lợi nhuận chưa được coi là động lực chi phối các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Chưa thực sự gắn lợi nhuận với kết quả hoạt động sản
xuất của các doanh nghiệp. Vì vậy trong nền kinh tế ln xảy ra tình trạng
"lãi giả, lỗ thật". Điều này phản ánh rằng một mặt nhà nước chưa nắm
được nguồn vốn của các doanh nghiệp, buông lỏng quản lý nó. Mặt khác
do việc chưa đánh giá và xác định lợi nhuận một cách có căn cứ nên các
đơn vị ln tìm mọi thủ đoạn để hưởng cao nhất còn nhà nước thiệt nhiều
hơn.
Cũng trong nhiều năm trước đây, do quá nhấn mạnh việc phát triển
kinh tế quốc doanh và phát triển nó một cách tràn lan và cách quản lý phân
phối theo kiểu "lỗ nhà nước bù, lãi nhà nước thu" đã dẫn đến tình hình bình
quân hóa trong phân phối, gây tác động xấu đối với người lao động. Động
lực kích thích người lao động ngày càng bị thui chột. Đội ngũ quản lý kinh
doanh thụ động hồn thành kế hoạch bằng mọi giá khơng cần tính đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh.

Như vậy có thể khẳng định là cả một thời kỳ dài, phạm trù lợi
nhuận đã xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Nhưng chúng ta
chưa thực sự coi lợi nhuận với tư cách là thu nhập đối với người sản xuất
kinh doanh. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đó, cơ chế hình thành
và phân phối lợi nhuận không được tiến hành trên cơ sở những căn cứ khoa
học khách quan. Điều đó đã gây ra sự bất bình đẳng lớn giữa các đơn vị
sản xuất kinh doanh làm mất đi động lực thúc đẩy của đòn bẩy, tạo ra một

24


tư tưởng ỷ lại ngày càng lớn của các doanh nghiệp vào nhà nước, làm mất
đi tính chủ động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
b. Thời kỳ từ năm 1989 đến nay
Từ năm 1989 đến nay nền kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển
quan trọng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước.
Nhà nước đã đưa nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước tạo lập
mơi trường kinh doanh và buộc mọi doanh nghiệp phải hoạt động trong mối
quan hệ trực tiếp với thị trường, phải chuyển sang hạch toán kinh doanh
thực sự. Để thực hiện được điều đó nhà nước đã xóa bỏ cơ chế "lỗ nhà
nước bù, lãi nhà nước thu" nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các doanh
nghiệp trong sản xuất kinh doanh, xóa bỏ bao cấp qua giá, từng bước tạo ra
thị trường thống nhất, hồn chỉnh trong cả nước. Khuyến khích mọi thành
phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh trong mơi trường cạnh tranh lành
mạnh và bình đẳng với nhau trước pháp luật.
Nhà nước đưa ra các phương hướng chính sách, biện pháp về cơ
bản là đúng đắn và có tác dụng tích cực.
Tuy nhiên do đa số các doanh nghiệp khơng chuyển kịp và thích
nghi kịp với cơ chế thị trường nên khi nhà nước thực hiện việc xóa bỏ bao

cấp thì phần lớn các doanh nghiệp bị đình đốn, thu hẹp sản xuất, tạm thời
ngừng sản xuất tồn bộ hay bộ phận.
Trước tình hình đó Nhà nước phải thực hiện hỗ trợ, tạo điều kiện
cùng doanh nghiệp khắc phục tình trạng đình đốn, suy thối ngừng trệ
trong sản xuất kinh doanh bằng các biện pháp như:
- Tập trung chỉ đạo thanh tốn tình trạng nợ dây chuyền và chiếm
dụng vốn lẫn nhau của các đơn vị kinh tế nhà nước.
- Cho các doanh nghiệp vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi và hoàn
thu hồi khoản vay trước.

25


×