Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

tieu luan ton giao bước đầu tìm hiểu tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết lương giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.76 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng
tình hình tơn giáo ngày càng phát triển, đặt ra nhiều vấn đề cần phải lý giải cả
trên phương diện lý luận và thực tiễn. Do đó việc tìm hiểu những luận điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo là
một việc làm không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với cơng tác nghiên cứu lý
luận mà cịn góp phần tăng cường cơng tác tôn giáo trong giai đoạn cách mạng
hiện nay.
Nghiên cứu tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh là tìm về những di sản tư
tưởng quý báu trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực về tín ngưỡng, tơn
giáo. Những lời di huấn, các bài viết, những cử chỉ, hành động cũng như
phong cách ứng xử của Người đối với tôn giáo nói chung và đối với tín đồ,
giáo sĩ, nhà tu hành của các tơn giáo nói riêng, trong đó có Phật giáo, Cơng
giáo, Cao đài… là những bài học q báu. Tư tưởng đồn kết, hịa hợp dân
tộc và tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do khơng tín ngưỡng là
nội dung cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Đồn kết lương - giáo là một nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến
lược đại đồn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc thực hiện mục tiêu chung của cách mạng là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính quan điểm đúng đắn đó, Hồ Chí Minh đã
thu hút được đơng đảo các chức sắc và các tín đồ tơn giáo đồn kết, nhất trí
đồng tâm, ra sức tranh đấu cho độc lập của Tổ quốc. Nhiều cha cố, linh mục
tham gia kháng chiến, tham gia cố vấn cho Chính phủ, thực hành thi đua yêu
nước, đấu tranh làm thất bại âm mưu thâm độc "chia để trị" của các thế lực thù
địch, góp phần tăng cường khối đại đồn kết tồn dân tộc trong đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp,
khi tơn giáo bị các thế lực phản động ráo riết lợi dụng để chống phá cách
1



mạng nước ta, thì việc nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về tơn giáo nói
chung và đồn kết lương - giáo nói riêng nhằm đưa ra chính sách tơn giáo phù
hợp góp phần tạo sự ổn định chính trị - xã hội, quy tụ sức mạnh toàn dân càng
cần thiết hơn bao giờ hết. Đây cũng chính là lý do tơi chọn "Bước đầu tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương - giáo" làm đề tài tiểu luận
của mình.

2


NỘI DUNG

1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN
GIÁO

Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh không phải là một nhà tôn giáo
học mà là một nhà chính trị chuyên nghiệp như Người đã nhận. Người khơng
xem xét vấn đề tơn giáo thuần túy dưới góc độ tôn giáo học. Người thường đề
cập đến vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng trong mối quan hệ với những nhiệm vụ
cụ thể. Tuy nhiên khi nghiên cứu kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà
khoa học đều khẳng định rằng có một hệ thống tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo được hình thành dựa
trên sự kết hợp giữa những hiểu biết sâu sắc về truyền thống gia đình, xã hội
Việt Nam, về tình hình, đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo nước ta và thế giới
(cơ sở thực tiễn); chủ nghĩa Mác - Lênin, việc kế thừa những tư tưởng tiến
bộ của nhân loại và sự tổng kết, khái quát lý luận thông qua hoạt động thực
tiễn (cơ sở lý luận). Từ những am hiểu về tình hình, đặc điểm của xã hội, tơn
giáo, tín ngưỡng Việt Nam và vấn đề tôn giáo trong cách mạng thế giới; từ
sự tiếp thu những giá trị của văn hóa nhân loại; cuối cùng là sự soi đường

của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tơn giáo.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng

3


và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi"1.
1.1. Cơ sở thực tiễn
1.1.1. Đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam
Sinh ra và lớn lên trên một đất nước đa dân tộc, đa tơn giáo: bên cạnh
hệ thống tín ngưỡng dân gian đa dạng ở Việt Nam, cịn có các tôn giáo trong
khu vực và thế giới như: Nho giáo, Đạo giáo; Phật giáo, Cơng giáo, do đó, Hồ
Chí Minh có được những tri thức quý báu về các tín ngưỡng, tơn giáo đó.
Với các tín ngưỡng dân gian của người Việt, Hồ Chí Minh cho rằng
"Việc cúng bái tổ tiên là một hiện tượng xã hội" 2. Người khẳng định đó là đạo
tổ tiên khơng theo nghĩa hẹp mà theo nghĩa rộng. Người viết: "Người già
trong gia đình và người già trong làng thực hiện những nghi lễ tưởng niệm".
Những nhận định chính xác và tinh tế trên của Hồ Chí Minh cho chúng ta
thấy, Người rất am hiểu về những tín ngưỡng cổ truyền của người Việt. Từ đó,
Người ln căn dặn cán bộ phải chú ý đến tục lệ của dân trong quá trình vận
động xây dựng cuộc sống mới, ví dụ Người nói: "Tránh phạm đến phong tục
tập quán, tín ngưỡng của dân" và "nên tìm hiểu phong tục tập quán nghiêm
túc chấp hành điều kiêng"3.

Với Nho giáo, có thể nói rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh chịu khá nhiều
ảnh hưởng của Nho giáo. Những ảnh hưởng của Nho giáo đối với Chủ tịch
Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ người Cha - cụ Nguyễn Sinh Sắc. Cụ chính
là người thầy chủ yếu dạy chữ Hán cho Người. Cụ Nguyễn Sinh Sắc theo
nghiệp Nho học nhưng khơng phải mục đích ra làm quan hưởng phú quý cao
sang. Khi đã đỗ Phó bảng, Cụ có ra làm quan cho triều đình Huế (sau khi đã
từ chối nhiều lần) nhưng cũng chính trong cuộc sống quan trường cụ đã chua
xót nhận xét: "Quan trường thị nơ lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ" (quan trường
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tr. 88.
2
. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.1, tr. 479, CD-ROM
3
. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.2, tr. 122.

4


là nô lệ trong đám người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Những tư tưởng tiến bộ,
nhân cách cao thượng của người cha đã để lại những ấn tượng rất đậm nét
trong tâm hồn Hồ Chí Minh.
Sau này, qua các bài viết, bài nói Người đã bộc lộ sự hiểu biết sâu sắc
về Nho giáo, về Khổng Tử và đặc biệt là sự vận dụng các kiến thức Nho học
vào cuộc đấu tranh cách mạng và trong cuộc sống đời thường.
Những khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
cần, kiệm, liêm, chính… đều được Hồ Chi Minh tiếp thu, vận dụng, nhưng
điều quan trọng là Hồ Chí Minh khơng hề tiếp thu một cách máy móc, giáo
điều mà Người đã đưa vào những nội dung mới, nâng cao, trên nền khái niệm

cũ để phù hợp với cuộc sống mới, thời đại mới. Người giải thích: "Ngày xưa
trung là trung với Vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thơi. Ngày nay nước ta
Dân chủ Cộng hòa… cũng như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với
nhân dân, ta thương cha mẹ ta, còn phải thương cha mẹ người, phải làm cho
mọi người phải biết thương cha mẹ"1.
Hồ Chí Minh am hiểu Nho giáo đến mức có thể chỉ ra những hạn chế
của Nho giáo, bằng sự nhận xét tinh tế, chính xác cho rằng, tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử "chỉ thích hợp với một xã hội bình n khơng thay đổi", "Đạo
đức của ơng hồn hỏa, nhưng nó khơng thể dung hợp với những trào lưu tư
tưởng hiện đại" và "ông khơng phải là người cách mạng mà cịn là vì ông tiến
hành một cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho họ" 2, (giai cấp phong kiến
thống trị)".
Từ những giá trị tốt đẹp cũng như hạn chế của Nho giáo, Hồ Chí Minh
rút ra bài học: "Những người An Nam chúng ta hãy tự hồn thiện mình, về
mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng tử, và về mặt cách mạng
thì cần đọc các tác phẩm của Lênin"3.

1

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.5, tr. 640. CD-ROM.
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr. 453. CD-ROM.
3
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr. 454. CD-ROM.
2

5


Với đạo giáo, Người cũng thể hiện những hiểu biết sâu sắc của mình
thơng qua lối sống và lối sử dụng ngôn ngữ của Đạo giáo một cách tự nhiên.

Mọi người có dịp tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhận thấy phảng
phất nét ung dung tự tại, nét thanh thản, nếp sống hiền hòa thanh đạm của Hồ
Chí Minh, những đặc điểm này rất gần với tư tưởng của Lão Tử - đại biểu
xuất sắc của Đạo giáo - là gạt bỏ cái quá mức, gạt bỏ cái xa hoa, gạt bỏ cái
hào nhoáng. Trong chuyến đi Pháp, đi thăm nơi kỷ niệm Napơlêơng, Hồ Chí
Minh cho rằng, trong đời có nhiều người vì khơng tri túc mà thất bại! Nếu
Napôlêông biết gạt bỏ tham muốn quá mức thì chắc nước Pháp khơng đến nỗi
vì chiến tranh mà chết người hại của. Tư tưởng tri túc ấy có trong Lão giáo1.
Như vậy, một cách gián tiếp chúng ta có thể nhận thấy Hồ Chí Minh
tiếp thu và vận dụng một số tư tưởng triết học của Đạo giáo như: tư tưởng
sống chan hịa với tự nhiên, khơng màng danh lợi, tri túc, gạt bỏ cái thái
quá… và điều quan trọng là vận dụng những tư tưởng này, tiếp thu cái đúng
đắn đã được thực tiễn kiểm nghiệm để góp phần xây dựng nhân cách, lối sống
của người dân yêu nước, người cách mạng.
Với Phật giáo, những ảnh hưởng của Phật giáo đến Hồ Chí Minh có từ
rất sớm và cũng bắt đầu từ tấm gương của người cha- cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc2. Lịng u nước thương dân và triết lý từ bi của đạo Phật thông qua
tình cảm, nhân cách của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc chắc chắn có ảnh
hưởng nhất định đến Hồ Chí Minh.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh cịn có những hiểu biết sâu sắc. Người
viết: "Tơn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí
thiện, bình đẳng, yên vui và ấm no", "Đức Phật là đại từ đại bi cứu khổ cứu
nạn. Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma"3.

1

. Xem Vũ Ngọc Khánh, Minh triết Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 1999, tr. 54.
. Xem Phùng Hữu Phú, Đại đức Thích Minh Trí, Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1997, tr.15.
3

. Hồ Chí Minh,: Sđd, t.4, tr. 197.
2

6


Về thực hành lối sống của nhà Phật, Hồ Chí Minh đã từng sống kham
khổ như nhà tu hành, đã nghiên cứu giáo lý đạo Phật và am hiểu cả những
kiến trúc chùa chiền. Trong những bài viết của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần
mượn khái niệm của nhà Phật. Trong bài Sẻ cơm nhường áo Hồ Chí Minh
viết: "Tơi chắc rằng đồng bào ta ai cũng sẵn lòng cứu khổ, cứu nạn, mà hăng
hái hưởng ứng lời đề nghị trên" 1; khi tuyên bố với quốc dân, Hồ Chí Minh
nói: "Khơng được báo thù báo ốn. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối,
đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng. Lấy lời khơn lẽ phải mà
bày cho họ"2.
Với Cơng giáo, Hồ Chí Minh am hiểu và đã nhìn nhận Cơng giáo như
một di sản văn hóa nhân loại. Người đã nhìn thấy được cái tinh túy nhất của
giáo lý Cơng giáo, nhấn mạnh múc đích cao cả của Cơng giáo, là giải phóng
con người, vì hạnh phúc của con người. Người ln có cách nhìn nhận khách
quan và thái độ kính trọng khi nói về Chúa Giêsu: "Gần 20 thế kỷ trước, một
vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời người chỉ lo cứu thế độ dân, hy sinh cho tự do,
bình đẳng"3 và "Đức Thiên Chúa đã giáng sinh để cứu vớt nhân loại. Đức
Thiên chúa là một tấm gương hy sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì
những dân tộc bị đè nén, vì hịa bình, vì cơng lý" 4, "Suốt đời Ngài chỉ hy sinh
phấn đấu cho tự do, dân chủ"5.
Tuy vậy, khi nói về Cơng giáo Việt Nam, Người cũng không quên
nhắc việc các thế lực đế quốc đã lợi dụng tơn giáo để phục vụ cho lợi ích
chính trị của chúng. Bằng những dẫn chứng cụ thể, Người đã chứng minh cho
thế giới biết: Pháp lợi dụng Công giáo trong việc xâm lược và trong quá trình
áp bức nhân dân Việt Nam như thế nào?.

Cuối cùng bằng những hiểu biết của mình, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
"Người An Nam… khơng có tơn giáo theo cách nghĩ của người châu Âu"6.
1

. Hồ Chí Minh,: Sđd, t.8, tr. 290.
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr. 420.
3
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr. 490.
4
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr. 490.
5
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr. 121.
6
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.1, tr. 479. CD-ROM
2

7


1.1.2. Thực tiễn và kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo trong
cách mạng của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là
Liên Xô và Trung Quốc
Từ năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã đến Liên Xô, nhà nước xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới. Chính sách đối với tôn giáo của Lênin, của Nhà
nước Xôviết chắc chắn là những thông tin, những bài học quan trọng đối với
nhà cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh của Việt Nam.
Sau cách mạng Tháng Mười, tháng 2 năm 1918, chính quyền Xơviết
thơng qua Sắc lệnh về việc tách giáo hội khỏi nhà nước, tách nhà thờ khỏi
trường học. Sắc lệnh này do chính Lênin ký. Sắc lệnh cịn quy định vị trí bình
đẳng giữa các tổ chức tôn giáo, đồng thời đảm bảo những điều kiện cần thiết

cho hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Khi ban bố tự do tín ngưỡng, Sắc
lệnh trên cũng nhấn mạnh tự do tiến hành các nghi lễ tôn giáo không được vi
phạm đến trật tự công cộng và quyền công dân. Như vậy, sắc lệnh đầu tiên đã
khẳng định tính cách nhà nước thế tục của chính quyền Xôviết.
Hiến pháp đầu tiên của nước Nga Xôviết được thông qua tháng 7
năm 1918, bao gồm tất cả các nguyên tắc có trong Sắc lệnh đồng thời đã đưa
những điểm mới vào trong nguyên tắc tự do tín ngưỡng. Trong khi tạo ra
tính cách thế tục của nhà nước, vẫn đảm bảo quyền tự do vô thần, quy định
quyền tự do cư trú cho người nước ngoài bị khủng bố vì quan điểm chính trị
và tơn giáo…
Năm 1919, Đảng Cộng sản Nga (Bơsêvích), tại Đại hội VIII đã đưa
vào Cương lĩnh (Điểm thứ 13) nội dung cụ thể là: "Đảng mong muốn xóa bỏ
mối dây liên hệ với giai cấp bóc lột và tổ chức tun truyền tơn giáo để tác
động đến sự giải phóng thực sự quần chúng lao động khỏi thành kiến tôn giáo
và tổ chức công tác tuyên truyền khoa học bài trừ mê tín và chống tôn giáo
rộng rãi nhất. Đồng thời, cần phải tránh bất cứ sự xúc phạm nào đến tình cảm
tơn giáo của người theo đạo"1.
1

. Xem GS. Đỗ Quang Hưng, Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 39.

8


Năm 1936, Hiến pháp của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Xôviết do Xtalin đứng đầu bàn soạn thảo được Xôviết tối cao thông qua.
Một quan niệm mới liên quan đến tôn giáo được ghi trong Điều 124, như
sau: "Để đảm bảo cho cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, nhà thờ ở Liên
Xơ tách ra khỏi nhà nước và nhà trường tách ra khỏi nhà thờ. Công nhận

quyền tự do theo các tôn giáo và quyền tự do tun truyền chống tơn giáo
cho mọi cơng dân"1.
Có thể nói quan điểm tơn giáo, chính sách tơn giáo của Liên Xô những
thập niên sau Cách mạng Tháng Mười là tiến bộ và đã đạt được thành tựu to lớn,
đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng thực sự ở Liên Xô. Tuy vậy, ngay
những năm đầu sau cách mạng ở một số địa phương của Liên Xô mắc sai lầm tả
khuynh, nơn nóng muốn xóa bỏ ngay tơn giáo, nếu Hiến pháp Liên Xô năm
1918 khẳng định quyền tự do tun truyền vơ thần, thì Hiến pháp năm 1936 còn
khẳng định một cách mạnh mẽ hơn là quyền tự do tun truyền chống tơn giáo.
Hồ Chí Minh cũng có nhiều năm sống và hoạt động cách mạng ở
Trung Quốc, đặc biệt Người rất am hiểu văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc tập thơ Nhật ký trong tù viết bằng chữ Hán là một minh chứng. Thời gian
Người sống ở Trung Quốc, là thời kỳ ở đó đang tiến hành cuộc cách mạng
dân chủ, những quan điểm tôn giáo của Đảng Cộng sản Trung Quốc về cơ bản
là theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngay từ năm 1927 (thời gian
1926-1927 Nguyễn Ái Quốc đang ở Trung Quốc), Mao Trạch Đông trong báo
cáo khảo sát phong trào nơng dân Hồ Nam có một đoạn văn thể hiện rõ quan
điểm về tôn giáo2 của người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc: "Bụt là do
nông dân dựng lên, đến một thời kỳ nào đó, nơng dân sẽ dùng cả hai tay của
họ mà vứt bỏ ông Bụt này, chẳng cần người khác làm thay một cách quá sớm
việc vứt bỏ ông Bụt".
Năm 1949, trước khi cách mạng thành công Giáo hội Công giáo và
Tin lành Trung Quốc có sự khác biệt: một số người hết lịng phục vụ chủ
1

. Xem GS Đỗ Quang Hưng, Sđd, tr.32.
. Đới Khang Sinh, Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo ở Trung Quốc, Nxb Nhân dân Giang Tây, 1996. Bản dịch
của Viện nghiên cứu Tôn giáo, tr. 51.

2


9


nghĩa đế quốc và giai cấp cầm quyền phản động, trong khi đó một số người
khác ủng hộ sự độc lập của Giáo hội Trung Quốc, phản đối sự nô dịch về
chính trị và văn hóa của thế lực đế quốc. Sau khi cách mạng thành cơng, nước
Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, phong trào Tam tự
của Công giáo và Tin lành ở Trung Quốc thực sự ra đời. Phong trào này phản
ánh chính sách độc lập và tự quản của hoạt động tôn giáo (Tam tự là tự quản,
tự dưỡng và tự truyền). Có thể nói chính sách độc lập và tự quản của hoạt
động tôn giáo là một kinh nghiệm đặc sắc của Trung Quốc. Sau này trong
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến sự độc lập của tơn
giáo nói chung và của Giáo hội Cơng giáo Việt Nam nói riêng.
Chính sách về tơn giáo của các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là
Liên Xô mặc dù vẫn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và trên thực tế
đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, đó là vẫn đảm bảo được
quyền tự do tín ngưỡng trong chế độ xã hội chủ nghĩa, khơng có xung đột tôn
giáo…. Nhưng cũng phải nhận thấy một thực tế là các đảng cộng sản cầm
quyền còn bị ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh về tôn giáo ở những mức độ
khác nhau. Điển hình là quan điểm tự do tôn giáo đi liền với tự do tuyên
truyền vô thần chống tôn giáo. Quan điểm này dễ dàng dẫn đến thái độ tả
khuynh trong bộ máy chính quyền khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
1.1.3. Thái độ của Vatican đối với chủ nghĩa xã hội
Về bối cảnh quốc tế những thập niên đầu thế kỷ XX cần phải nói đến
quan điểm của Giáo hội Công giáo. Thông qua các thông điệp xã hội đều trực
tiếp biện hộ và bênh vực chế độ tư hữu, coi quyền tư hữu chính đáng là quyền
của tạo hóa… quyền tư hữu là quyền tự nhiên chứ không phải là quyền nhân
tạo… quyền ấy khơng một chính phủ nào bãi bỏ được. Đặc biệt là Thông điệp
Divini Redemptoris (1937) bác bỏ chủ nghĩa cộng sản vơ thần, do Giáo hồng
Piơ XI đưa ra với lời lẽ vu khống chủ nghĩa xã hội: "Gây sự giai cấp tương

tranh kịch liệt, bài trừ mọi quyền sở hữu. Nó quyết đấu tranh cho đến khi đạt
được chiến thắng. Khơng có việc gì nó khơng dám làm. Khơng có sự gì nó

10


kính trọng. Chỗ nào nó đã chiếm lấy chính quyền, nó tỏ mình là dã man và vơ
nhân đạo đến cực độ"1.
Trước thái độ của Vatican như vậy, cũng một phần cắt nghĩa cho thái
độ thiên về tả khuynh của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng như các đảng cộng
sản cầm quyền sau năm 1945.
1.2. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận đặt nền tảng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
tơn giáo, được thể hiện trên các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, là sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp từ gia
đình, từ lịch sử dân tộc và của những nhà cách mạng tiền bối.
Trước hết, là ảnh hưởng từ những người thân trong gia đình. Tấm
gương về đạo đức, khí tiết của người cha - cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng
trực tiếp đến người con Nguyễn Sinh Cung - Hồ Chí Minh sau này. Là người
theo nghiệp Nho học, nhưng cụ không lấy đó làm con đường để ra làm quan,
hưởng cuộc sống giàu sang phú quý. Sau khi đỗ Phó bảng, Cụ đã có thời gian
làm quan cho triều đình Huế. Từ cuộc sống quan trường, với tính cách, khí
khái và những tư tưởng tiến bộ đã đưa Cụ đi đến đối kháng với chế độ đương
thời. Cụ đã nhận xét: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ" (quan
trường là nô lệ trong đám người nô lệ).
Tư tưởng tiến bộ nhân cách cao thượng của người cha, kết hợp với
tình mẫu tử, tấm gương sáng ngời về nhân cách đạo đức, về lòng hy sinh tận
tụy quên mình vì chồng, vì con của người mẹ - Bà Hồng Thị Loan đã giúp
định hình trong Hồ Chí Minh từ rất sớm những tư tưởng về bình đẳng, tự do
và khoan dung.

Trên cấp độ gia đình, Bác Hồ đã biết kế thừa những giá trị tốt đẹp từ
truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là truyền thống
đồn kết, tương thân, tương ái của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ truyền
thống tốt đẹp đó Người đã rút ra bài học: "Sử ta đã dạy cho ta bài học này:
1

. Đức Clêô XIII, Đức Gioan Phaolô II, Các thông điệp xã hội, tài liệu tham khảo của Viện nghiên cứu Tôn
giáo, Hà Nội, tr. 146.

11


Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự
do. Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước người xâm lấn"1.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh các phong trào cách mạng nhằm xây
dựng một xã hội mới đang sơi nổi, như các phong trào cách mạng của Hồng
Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phân Chu Trinh…, Hồ Chí Minh đã biết kế thừa
và phát triển những tư tưởng về tơn giáo của các nhà cách mạng tiền bối đó.
Hồ Chí Minh đã phên phán con đường cứu nước của Phan Bội Châu, nhưng
khơng có nghĩa là Người khơng nhận thấy những yếu tố tiến bộ trong một số
quan điểm của cụ, trong đó có những quan điểm về tơn giáo, tín ngưỡng, cũng
như các sĩ phu Duy Tân yêu nước đầu thế kỷ XX như Phan Chu Trinh và các
sĩ phu Đông Kinh Nghĩa Thục thời bấy giờ.
Phan Bội Châu nhận xét về tình hình tơn giáo, tín ngưỡng ở nước ta
đầu thế kỷ XX: "Người Việt Nam mọi việc đều cần ở thần, phần lễ thờ thần
thật là trọng hậu, thật là cẩn thận. Nhưng trọng lắm thì đắm đuối nhiều, cẩn
thận quá thì mê hoặc sâu… Thậm chí có khi đến cả những khối đá qi gở,
gốc cây cổ thụ, rừng hoang, mả vắng cũng liệt vào hạng thần cứu thế, được
dân tôn sùng lạy lục, ngày ngày cầu ở thần, bước bước trông vào thần"2.
Đặc biệt, Phan Bội Châu và các sĩ phu tân học đầu thế kỷ XX không

chỉ nhấn, mạnh vào ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo, tín ngưỡng đối với sự
thức tỉnh của dân tộc trong phong trào chống Pháp mà còn vạch trần âm mưu
của thực dân Pháp hòng lợi dụng tôn giáo để thống trị dân ta. Trong tác phẩm
Thiên hồ! Đế hồ! Phan Bội Châu vạch rõ: "Chính phủ Pháp nhìn thấy nhận
thấy dùng vũ lực chinh phục khơng phải là thượng sách nên mới mượn tôn
giáo, thờ di tượng Giêxucrit và cây thánh giá làm trò rồi, để ngầm thi hành
chính sách tiêu diệt nịi giống người ta. Đó là phép mầu nhiệm nhất của người
Pháp chinh phục Việt Nam lại được nhà tôn giáo giúp cho thành cơng"3.

1

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.3, tr. 217. CD-ROM.
. Phan Bội Châu, Tồn tập, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, t.1, tr. 156.
3
. Phan Bội Châu, Thiên hồ! Đế hồ!, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 57.
2

12


Đặc biệt là Phan Bội Châu và các sĩ phu tân học đầu thế kỷ XX có tiếp
thu tư tưởng "tự do tín ngưỡng" của các nhà tư tưởng phương Tây và đã có sự
giải thích nhưng cịn sơ lược. Trong sách Quốc văn độc bản của Đông Kinh
Nghĩa Thục có viết: "Các nước văn minh khơng cấm dân theo các tơn giáo
khác, gọi là tự do tín ngưỡng. Ngày nay chúng ta được theo tơn giáo nào mình
thích mà thôi. Nhưng phàm theo tôn giáo nào cũng cần biết rõ tơn chỉ tơn giáo
đó, rồi hết sức thực hành. Cịn như chỉ thắp hương lễ bái thì khơng thể là theo
được"1. Họ không những tán thành quan điểm "tự do tín ngưỡng" của các nhà
tư tưởng phương Tây mà cịn đi xa hơn trong quan niệm tự do tín ngưỡng,
theo đó tự do khơng chỉ là việc tơn trọng quyền của người dân được theo bất

kỳ tôn giáo nào họ thích, mà cịn cho rằng, tự do tín ngưỡng là yếu tố đóng
góp cho u cầu đồn kết tín đồ các tôn giáo khác nhau trong sự nghiệp cứu
nước giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu viết: "Ta trơng mong các nhà tôn
giáo, không nên bàn tôn giáo nào phải trái mà chỉ nên bàn nước mình mạnh
hay yếu, không nên bàn tôn giáo nào giống nhau, khác nhau, mà nên bàn
nước còn hay mất.
Hãy một lòng yêu nước, u nịi, liều chết chống giặc. Hãy một lịng
vì nghĩa. Nếu được như thế thì khơng cần phải bàn theo đạo Khổng, đạo Phật
hay đạo Datô. Về sau nếu muốn theo đạo nào thì nịi mất rồi, giống mất rồi
lấy đâu mà tơn sùng tơn giáo nào nữa"2.
Hồ Chí Minh chắc chắn đã biết đến những quan điểm tiến bộ về tín
ngưỡng, tơn giáo của các sĩ phu u nước nổi tiếng: Phân Bội Châu, Phân
Chu Trinh, vì các sĩ phu này có quan hệ gần gũi với gia đình của Người.
Như vậy, một cách gián tiếp chúng ta có thể suy luận Hồ Chí Minh đã
kế thừa ở một mức độ nhất định những quan điểm tiến bộ về tín ngưỡng, tơn
giáo của Phan Bội Châu, Phân Chu Trinh và các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX.

1

. Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội,
1997, tr. 54.
2
. Phan Bội Châu, Toàn tập, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, t.1, tr. 164.

13


Thứ hai, là việc tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên, xã
hội và những giá trị của cách mạng tư sản châu Âu thế kỷ XIX.
Nguyễn Ái Quốc có một thời kỳ làm việc ở Anh và Pháp. Đây là thời

kỳ mà các chính phủ tư sản các nước này đã thực hiện những mức độ nhất
định quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân và đã tiến hành một
cuộc đấu tranh có tính chất tự do chủ nghĩa để chống chế độ tăng lữ. Đến năm
1945, tại phần mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn
những câu nổi tiếng về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản
Pháp (1789-1794). Có thể khẳng định rằng với 30 năm hoạt động, tiếp cận với
văn minh châu Âu, Hồ Chí Minh đã có đủ thời gian và điều kiện trang bị cho
mình những tri thức cần thiết cho lý tưởng giải phóng dân tộc, trong đó có
vấn đề tơn giáo.
Thứ ba, là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là những lý luận
về vấn đề tơn giáo.
Với Hồ Chí Minh, học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin chủ
yếu bằng con đường tự học và qua hệ thống đào tạo của trường Quốc tế
Lênin. Chính Người đã nêu những nhận xét hết sức chính xác, thể hiện sự
hiểu biết, nắm vững cái hồn tinh túy nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người
viết: "Và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin" 1, và "chủ
nghĩa Mác có ưu điểm nó là biện pháp làm việc biện chứng"2.
Trên đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về tơn giáo. Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, những tư tưởng về tơn
giáo, tín là ngưỡng của Người là sự kết hợp giữa truyền thống văn hóa các
dân tộc, tinh hoa trí tuệ của nhân loại và náh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Như một nhà báo phương Tây đã có nhìn nhận về Người: "Hình ảnh của Hồ
Chí Minh đã hồn chỉnh với sự kết hợp đức khơn ngoan của Phật, lịng bác ái

1

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr. 454.
. Trần Dân Tiên, Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 36.


2

14


của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của
mộ người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp tự nhiên"1.
2. CƠ SỞ KHOA HỌC QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN
KẾT LƯƠNG - GIÁO

Với tư chất của một thiên tài, Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được
những truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Với tình cảm tự nhiên của
một người yêu nước và cũng bằng động lực của một người yêu nước, Hồ Chí
Minh đã đến với chủ nghĩa nhân đạo mácxít. Người đã tiếp nhận chủ nghĩa
nhân đạo ấy và đã trở thành đại diện tiêu biểu nhất cho chủ nghĩa nhân đạo
Việt Nam. Quan điểm Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo được hình thành trên
những cơ sở:
2.1. Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của
dân tộc Việt Nam
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc
ta luôn phải đối mặt với thiên tai, địch họa để sinh tồn và phát triển. Ngay từ
buổi đầu của lịch sử dân tộc, ông cha ta đã phải đấu tranh chinh phục thiên
nhiên và chiến đấu chống lại các thế lực ngoại xâm để dựng nước và giữ
nước. Chính từ trong hồn cảnh lịch sử đó đã sớm nảy sinh ý thức cố kết cộng
đồng các cư dân người Việt lại với nhau, hun đúc nên truyền thống quý báu
của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được Hồ Chí Minh tổng kết và khái
quát: "Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết mn người như
một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị
nước ngồi xâm lấn"2. Trong điều kiện một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo
lại là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, muốn Việt Nam trở thành quốc gia tự

do, độc lập, con người hạnh phúc tất yếu phải thực hành chiến lược đại đoàn
kết toàn dân. Truyền thống đó đã thấm sâu và kết tinh trong mỗi con người
Việt Nam.
1

. Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1995, tr. 27.
2
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.3, tr. 217. CD-ROM.

15


2.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng
Nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quần chúng nhân
dân trong lịch sử, "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", "quần chúng
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử", từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: lực lượng tồn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai
chiến thắng được lực lượng đó"2. Với Hồ Chí Minh, "có dân là có tất cả", thực
hiện đại đồn kết tồn dân là tất yếu cơ bản, quan trọng, hàng đầu để đưa cách
mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ở nước ta, tín đồ các tơn giáo hầu
hết là nhân dân lao động, một bộ phận không thể tách rời, của cộng đồng dân
tộc Việt Nam, họ là lực lượng rất quan trọng, không thể thiếu của sự nghiệp
cách mạng. Do đó, tư tưởng nhất qn của Hồ Chí Minh là khơng phân biệt
tín ngưỡng, tơn giáo, hễ là người Việt Nam yêu nước đều phải đứng lên đánh
đổ đế quốc thực dân giành độc lập dân tộc. Cho nên thực hiện đoàn kết lương giáo là một yêu cầu khách quan sự nghiệp cách mạng trong đấu tranh giành
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.3. Đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh

lựa chọn là "làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Đó cũng là địi
hỏi khách quan của lịch sử, của yêu cầu bức thiết toàn thể dân tộc. Nhưng đây
cũng là sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn gian khổ và ác liệt, phải coi
đó là trách nhiệm chung của tồn dân tộc, trong đó có đồng bào các tơn giáo.
Mặt khác, từ âm mưu, bản chất xâm lược và thống trị của dân tộc ta
của chủ nghĩa đế quốc, thực dân chúng áp dụng chính sách "chia để trị", "ngu
dân dễ trị" để chống phá cách mạng nước ta, chia rẽ đồng bào giữa các dân
tộc, giữa lương và giáo… Đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng và tìm mọi cách để
chia rẽ, gây hiềm khích giữa đồng bào theo tơn giáo và khơng theo tơn giáo,
2

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr. 20. CD-ROM.

16


giữa đồng bào có các tơn giáo khác nhau. Vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương
đồn kết lương - giáo nhằm làm thất bại âm mưu thâm độc đó của kẻ thù.
Như vậy, những vấn đề lý luận và thực tiễn trên là cơ sở khoa học
hình thành nên quan điểm của Hồ Chí Minh về đồn kết lương - giáo.
3. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐOÀN KẾT LƯƠNG - GIÁO

Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân là tư tưởng lớn của
Hồ Chí Minh, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành cơng của cách
mạng Việt Nam. Đồn kết lương - giáo theo quan điểm Hồ Chí Minh được thể
hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
3.1. Đoàn kết lương - giáo là một bộ phận quan trọng trong chiến
lược đại đoàn kết dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải là việc của một, hai người. Đoàn kết lương - giáo là một trong
những cơ sở nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, là bộ phận hữu cơ
bảo đảm cho cách mạng giành được thắng lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Tuy nhiên, để bảo đảm sự đoàn kết giữa các lực lượng được bền
chặt, thống nhất phải dựa trên cơ sở lợi ích: kết hợp giữa lợi ích dân tộc với
lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, trong đó có bộ phận quan trọng là
đồng bào có tơn giáo.
Để thực hiện chiến lược đại đồn kết tồn dân, đồn kết lương - giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương phát huy những yếu tố tương đồng,
dùng cái tương đồng để khắc phục những dị biệt, kiên quyết tránh xúc phạm
đến đức tin của đồng bào có tơn giáo. Người đã tìm thấy mẫu số chung có ý
nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho đại đoàn kết tồn dân, đồn kết lương - giáo
là khơng có gì quý hơn độc lập tự do; là xây dựng đất nước Việt Nam độc lập,
hịa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, mang lại cuộc sống ấm no hạnh
phúc cho nhân dân, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới.
17


Do đó, đại đồn kết tồn dân tộc, vấn đề đặt ra là phải thực hiện đoàn kết, tập
hợp tất cả các lực lượng, mọi cá nhân, tổ chức, các tầng lớp nhân dân… trong
đó thực hiện đồn kết giữa những người có tơn giáo và những người khơng có
tơn giáo, đồn kết đồng bào có các tơn giáo khác nhau cũng là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Dưới chế độ thực dân phong kiến, Hồ Chí Minh cho rằng: đồng bào
có tơn giáo hay khơng có tơn giáo đều bị áp bức, bóc lột nặng nề, khi Tổ quốc
bị mất độc lập, thì các tơn giáo cũng khơng được tự do. Vì vậy, đồng bào các
tơn giáo cần đoàn kết lại và đoàn kết với toàn dân đấu tranh mưu giành độc
lập cho Tổ quốc và tự do cho dân mình. Quan điểm đó đã được Hồ Chí Minh

đề cập từ rất sớm. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: "Cơng hội chú trọng mặt kinh tế hơn. Đảng chú trọng mặt chính trị
hơn. Ai là thợ thuyền thì được vào hội, dù tin Phật, tin đạo, tin cộng sản, tin
vơ Chính phủ, tin gì cũng mặt, miễn là theo đúng quy tắc hội là được" 1. Ngay
sau khi cách mạng Tháng Tám thành cơng, Người khẳng định: Dân tộc giải
phóng thì tơn giáo mới được giải phóng. Lúc này chỉ có quốc gia chứ không
phân biệt tôn giáo nữa, mỗi người đều là cơng dân của nước Việt Nam và có
nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc. Người kêu gọi
các tơn giáo hãy dẹp bỏ hiềm khích, đoàn kết cùng toàn dân, cho nền độc lập
của nước nhà.
Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (1954), Người đã ra lời kêu gọi
toàn thể đồng bào cả nước đoàn kết, khơng phân biệt tín ngưỡng, tơn giáo,
phấn đấu thực hiện vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Khi đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp xâm lược nước ta, Hồ Chí
Minh kêu gọi: "Đồng bào các dân tộc, các tơn giáo hãy đồn kết chặt chẽ như
anh em một nhà, cùng nhau ra sức chống Mỹ cứu nước" 2. Người cịn chỉ rõ:
"Cơng giáo hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo đều phải nỗ
1

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr. 303. CD-ROM.
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr. 323. CD-ROM.

2

18


lực đấu tranh cho nền độc lập của nước nhà. Nhiệm vụ của toàn thể chúng ta
là phải giữ vững nền độc lập. Trong Cơng giáo có câu "Tam vị nhất thể", nhà

Phật có câu "Vạn chúng nhất linh", nên "chúng ta phải hy sinh cho nhân loại
và chúng sinh".
3.2. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của
nhân dân là chính sách của Đảng và Nhà nước ta
Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng là quan điểm
nhất quán trong chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đồn kết lương - giáo, khơng ngừng củng
cố mở rộng khối đại đồn kết dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, tự do tín ngưỡng,
tơn giáo là một quyền cơ bản thuộc về quyền tự do, dân chủ của cơng dân. Do
đó, mọi cơng dân có quyền theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, những
người có tín ngưỡng, tơn giáo được quyền ứng cử và bầu cử mà khơng hề có
một sự phân biệt. Quyền tự do tín ngưỡng cịn thể thiện ở thái độ tích cực đấu
tranh với những biểu hiện vi phạm quyền đó của mọi cơng dân. Bởi tín
ngưỡng tơn giáo là một niềm tin thiêng liêng, giữ một vị trí rất quan trọng
trong đời sống tinh thần và chi phối tâm tư, tình cảm, hành vi của đồng bào
giáo dân. Do đó, vi phạm niềm tin tơn giáo là vi phạm tín đồ, làm tổn hại, gây
chia rẽ khối đồn kết, là mắc vào âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln tơn trọng
quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào. Dù bận trăm cơng nghìn việc, nhưng
mỗi khi có điều kiện tiếp xúc với đồng bào có đạo, trong mỗi cử chỉ, lời nói,
việc làm, Người đều thể hiện thái độ tơn trọng, với một tình cảm chân thành,
sự cảm thông sâu sắc đối với đồng bào các tôn giáo… Người luôn nhắc nhở
cán bộ và nhân dân ta triệt đối khơng được xúc phạm đến tín ngưỡng, tơn giáo
của đồng bào. Vì "mọi người có quyền tự do tin đạo hay không tin, không ai
được cưỡng bách và khinh rẻ họ"… Hơn ai hết, Người luôn hiểu rằng: chức
sắc các tôn giáo là những người thay mặt đức Chúa, đức Phật... "chăn dắt"
phần hồn tín đồ các tơn giáo, giáo dân tin họ, nghe theo họ tức là tin và nghe
theo đức Chúa, đức Phật; uy tín và tiếng nói của họ đối với tín đồ tơn giáo là
19



rất lớn. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln bày tỏ thái độ thân thiện, đoàn kết
thân ái và cộng tác khá chặt chẽ với nhiều vị Giám mục, Linh mục, Hòa
thượng, Thượng tọa, Chưởng quản... chẳng hạn như Giám mục Lê Hữu Từ,
Hoàng Quỳnh, Linh mục Phạm Bá Trực, Thượng tọa Thích Mật Thế, Chưởng
quản Cao Triều Phát... Trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ nhân dịp lễ Nơen,
Người viết: "Nhân dịp Lễ Nơen, tơi kính chúc cụ mọi sự lành để phụng sự
Đức Chúa và để lãnh đạo đồng bào Công giáo tham gia kháng chiến, đặng
tranh lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc"1.
Đối với Phật giáo, nhân những ngày lễ lớn như ngày Đức Phật Thích
Ca thành đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư chúc mừng, điều đó làm
cho các tín đồ Phật giáo rất phấn khởi vì Cụ Chủ tịch mặc dù rất bận song vẫn
quan tâm đến ngày vui của họ. Lời lẽ, ngôn từ trong thư rất giản dị, mộc mạc
nhưng lại hết sức gần gũi với kinh sách nhà Phật. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
"Các vị tăng ni và các tín đồ thân mến. Nhân dịp lễ Đức Phật Thích Ca thành
đạo, tơi thân ái gửi đến các vị tăng ni và đồng bào tín đồ lời chào đại hịa hợp"1.
Đối với tín đồ các tơn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ quan
tâm đến đời sống tâm linh của họ mà trên cương vị Chủ tịch nước, Người đặc
biệt quan tâm đến đời sống hằng ngày của người dân có tơn giáo. Người
thường xun nhắc nhở cán bộ cấp cơ sở phải thường xuyên chăm lo đời sống
mọi mặt của đồng bào, từ ăn, mặc, ở, đi lại, học hành đến khi ốm đau phải
được chữa bệnh. Người đã nói: giáo dân khơng thể chịu đói, chịu rét đi lễ nhà
thờ, do vậy phải chăm lo cho họ "phần xác" no ấm, "phần hồn" vui vẻ; các cơ
sở thờ tự của các tôn giáo như đình chùa, miếu mạo, thánh thất, nhà thờ phải
được tu sửa, bảo vệ.
Là một lãnh tụ cộng sản, trên cương vị Chủ tịch nước nhưng Hồ Chí
Minh hồn tồn không xa lạ với đồng bào và chức sắc các tôn giáo. Ngược
lại, với thái độ chân thành, bằng phương pháp cách mạng mềm dẻo song rất
kiên quyết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở nên gần gũi, thân thuộc với đồng
1


. Hồ Chí Minh, Sđd, t.5, tr. 312. CD-ROM.
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.8, tr. 290. CD-ROM.

1

20


bào và chức sắc các tơn giáo... Hịa thượng Thích Đôn Hậu đã may mắn
được gặp Hồ Chủ tịch ba lần, tâm sự chân thành: Tơi đã hiểu vì sao Người là
một lãnh tụ sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam mà Người vẫn thu hút
được tất cả các thành phần khác trong xã hội về đứng chung quanh mình làm
việc lớn cho dân cho nước... Tơi là một tu sĩ có tham gia hoạt động cách
mạng, tơi nguyện suốt đời đi theo con đường yêu nước, yêu dân mà Hồ Chủ
tịch đã vạch ra... Nhớ ơn Người, không có gì q hơn thực hiện lời dạy bảo
của Người".
Ngày nay, chính sách tơn giáo của Đảng Cộng sản là bảo hộ tôn giáo,
và ngày sau cũng như vậy. Đảng Cộng sản chẳng những khơng tiêu diệt tơn
giáo, mà cịn bảo hộ tôn giáo. Đảng Cộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc lột
người. Hồ Chí Minh khơng chỉ là người ln tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo mà bản thân Người còn nêu một tấm gương sáng, mẫu mực
về tinh thần, thái độ trong xử sự, giải quyết những vấn đề về chính sách tơn
giáo. Ngay cả những chức sắc tôn giáo cũng phải thừa nhận rằng: "Các lời lẽ
của Cụ phê phán Giáo hội không bao giờ chạm đến khía cạnh đức tin, mà chỉ
nằm ở phạm vi các vấn đề cơ chế và chính trị", "chưa bao giờ nhận thấy trong
các chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ của sự
cơng kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với một tơn giáo bất kỳ nào". Điều đó
chứng tỏ, chỉ trên cơ sở tơn trọng tín ngưỡng, tơn giáo mới có thể xây dựng
được khối đồn kết lương - giáo.

3.3. Thực hiện đoàn kết lương - giáo phải trên cơ sở thực sự quan
tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào các tôn giáo
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản
chất của tôn giáo để thực hiện chủ trương đồn kết lương - giáo, cảm hóa
đồng bào giáo dân đi theo cách mạng, Hồ Chí Minh khơng chỉ quan tâm, tơn
trọng phần "đạo" mà cịn quan tâm đến phần "đời" của đồng bào tín đồ các
tơn giáo. Đây là quan điểm đặc sắc của Hồ Chí Minh về đoàn kết lương -

21


giáo, Người luôn trăn trở một điều làm thế nào để "sản xuất ngày càng phát
triển, phần xác được ấm no, thì phần hồn cũng được yên vui", để cho: "Sáng
danh Thiên Chúa trên các tầng giới, hịa bình cho mọi người lành dưới thế
gian"1. Vì vậy, nếu giáo dục tốt, biết quan tâm chăm lo đến đời sống mọi mặt
của họ thì giáo dân có thể đấu tranh đến cùng "sống theo Đảng, chết theo
Chúa". Người nhắc nhở cán bộ chú ý chăm lo đến việc phát triển sản xuất,
nâng cao đời sống vật chất tinh thần của giáo dân. Qn triệt tư tưởng đó của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước
ta đã quan tâm và từng bước đem lại lợi ích thiết thân cho đồng bào các tơn
giáo. Đó là việc làm có giá trị thiết thực nhất giúp cho đồng bào các tơn giáo
giác ngộ, đồn kết, tự nguyện tham gia kháng chiến và kiến quốc.
3.4. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân gắn
liền với đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo để chống phá cách mạng
Từ âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù ln tìm mọi cách chia rẽ
nhân dân ta bằng việc kích động gây mâu thuẫn giữa đồng bào theo đạo và
đồng bào không theo đạo. Chúng tuyên truyền: "Cộng sản là vô thần sẽ tiêu
diệt tôn giáo", "thà mất nước còn hơn mất Chúa"… Trên thực tế, một bộ phận

giáo dân đã mắc mưu, ngộ nhận tin theo luận điệu xuyên tạc đó của kẻ thù.
Trước âm mưu thâm độc ấy, Người yêu cầu phải thường xuyên nêu cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh vạch rõ những âm mưu, thủ đoạn bịp
bợm, xuyên tạc của địch, kiên trì giải thích các quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta, nhằm giúp cho chức sắc, tín đồ các tôn giáo
không bị ngộ nhận và mắc mưu của kẻ thù. Ngay trong tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp, Người đã lên án mạnh mẽ bọn thực dân Pháp cấu kết với
các giáo sĩ, chức sắc Công giáo để xâm lược nước ta. Người kịch liệt tố cáo
các giáo sĩ Pháp làm gián điệp, trực tiếp bắn giết đồng bào ta cả giáo và
lương: "Chính những tên giáo sĩ đã vẽ bản đồ An Nam cho quân xâm lược.
1

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.8, tr. 285. CD-ROM.

22


Chính bọn họ đã đưa tin cho gián điệp dẫn đường cho đội viễn chinh và tố
giác những người yêu nước". Từ đó, Người đi đến một kết luận: "Nếu có dân
tộc nào phải nhớ ơn Chúa và các giáo sĩ thì chính đó là dân tộc An Nam! Vì
Chúa và các giáo sĩ mà dân tộc này đã sa vào cảnh nô lệ như ngày nay" 1. Phát
biểu tại Hội nghị quốc tế Nông dân ở Matxcơva (10/1923), Hồ Chí Minh vạch
rõ những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân lợi dụng tôn giáo để xâm
lược và nô dịch, thống trị dân tộc ta: "Nhà thờ (tôn giáo) là thuốc phiện của
thế giới, nhưng chúng tôi nhờ nền văn minh phương Tây mà chúng tơi có cả
nhà thờ lẫn thuốc phiện". "Như vậy là người dân An Nam khơng phải chỉ bị
trói vào một chiếc cột như tơi đã trình bày với các đồng chí mà họ cịn bị
đóng đinh câu rút gọn bởi bốn thế lực liên hiệp: Nhà nước, tên thực dân, Nhà
thờ và tên lái bn"2. Hồ Chí Minh coi bọn đội lốt tơn giáo để chống phá cách
mạng là bọn "Việt gian đồng thời cũng là giáo gian", chúng là bọn bất chính,

giả danh tín đồ để làm điều xấu độc mà thơi. Việc vạch trần mọi luận điệu
xuyên tạc của bọn đế quốc, không chỉ nhằm giải tỏa băn khoăn, thắc mắc,
mặc cảm của một số tín đồ, chức sắc tơn giáo, mà cịn làm cho đồng bào hiểu
rõ chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta, quyết tâm đi theo Đảng làm
cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đánh giá đúng giá trị nhân bản trong các
tôn giáo, phân biệt các tổ chức và giáo dân chân chính với tổ chức, cá nhân
giả danh tơn giáo để đồn kết tập hợp lực lượng cách mạng. Thật vậy, Hồ Chí
Minh đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu tất cả các tơn giáo đang có mặt ở Việt
Nam và Người rút ra nhận xét khái quát: các tôn giáo ở Việt Nam dù là nội
sinh hay ngoại sinh, đều chứa đựng trong giáo lý của mình những lời khuyên
làm điều thiện, tránh điều ác. Với những lời văn mộc mạc, chân thành có sức
thuyết phục lịng người, khi nói về các vị sáng lập ra các tơn giáo, Hồ Chí
Minh viết:
"Chúa Giê-su dạy: đạo đức là bác ái
1

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.1, tr. 417. CD-ROM.
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.1, tr. 211. CD-ROM.

2

23


Phật Thích Ca dạy: đạo đức là từ bi
Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa".
"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức
cá nhân. Tơn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả...".
Hồ Chí Minh đã chỉ ra chuẩn mực để phân biệt rõ ngay - gian, chính tà. Người ca ngợi những tín đồ chức sắc tơn giáo nêu cao chính nghĩa tận tâm,

tận lực đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng nhân dân khỏi ách nơ lệ, áp bức, đói
nghèo... Khi nói về vai trị bổn phận của người Cơng giáo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã "chỉ tay, day trán" vạch mặt Ngơ Đình Diệm: "Tự xưng là Cơng giáo
nhưng nó đang ra tay khủng bố đàn áp, giết hại đồng bào miền Nam. Vì vậy,
Diệm là tay sai của Sa Tăng chứ nào phải tín đồ của đức Chúa".
Để đồn kết lương - giáo, Hồ Chí Minh ln quan tâm đến việc giáo
dục quần chúng giáo dân và các chức sắc tôn giáo biết phân biệt rõ quyền tự
do tín ngưỡng, tơn giáo với việc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo chống phá cách
mạng của các thế lực thù địch. Có như vậy, chiến lược đại đồn kết dân tộc
nói chung, đồn kết lương - giáo nói riêng mới có cơ sở thực hiện, mới phát
huy được sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
4. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỒN KẾT LƯƠNG - GIÁO
THEO QUAN NIỆM HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh đưa ra những giải pháp có ý nghĩa lý luận thực và thực
tiễn to lớn.
Một là, xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đồng bào tơn giáo,
làm tốt công tác vận động với các chức sắc và tín đồ tơn giáo, tích cực đấu
tranh chống bọn đế quốc, phản động lợi dụng tơn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo việc xây
dựng và phát huy vai trò của tổ chức Đảng các cấp, các hệ thống chính quyền,
của mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể quần chúng khác ở các địa
phương, nhất là vùng có đơng đồng bào theo đạo. Người đặc biệt chú ý tới

24


cơng tác phát triển Đảng ở chính các tín đồ công giáo. Điều này rất quan trọng
trong việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với đồng bào tôn giáo. Khi trả
lời câu hỏi "người cơng giáo có thể vào Đảng được khơng?" Chủ tịch Hồ Chí

Minh nói: "Có. Người công giáo nào cũng vào được, miễn là trung thành,
hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu,
kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện
hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được"1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng đội
ngũ cán bộ ở các vùng đồng bào công giáo. Người khẳng định: "Cán bộ là gốc
của mọi công việc"2 và "công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém". Người chủ trương phát triển cán bộ tại chỗ là chính, để họ trở thành cán
bộ "bán chuyên nghiệp" đi vận động tôn giáo. Người thường căn dặn cán bộ
phải thật bền bỉ thì mới có thể giúp đồng bào tơn giáo phân biệt rõ bạn, thù.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác vận động đối
với các chức sắc tôn giáo và đồng bào tôn giáo
Người luôn biểu lộ sự tôn trọng, quan tâm đối với các chức sắc tơn
giáo và tìm cách tốt nhất để tranh thủ họ; song cũng có thái độ xử sự dứt
khốt, kiên quyết trừng trị những kẻ mượn tiếng đạo, làm nhục Chúa, làm hại
dân. Đối với kẻ lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào
chống lại Tổ quốc, Người chỉ rõ: "Chính phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp,
cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ quê hương, sa vào một đời sống tối tăm cực
khổ về phần xác cũng như phần hồn".
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chăm lo đến đời sống của đồng bào
tơn giáo, chăm sóc cả "phần xác" và "phần hồn".
Theo Người, "phần xác có no ấm thì phần hồn mới thong dong", từ đó
Người chỉ đạo Chính phủ cần có chính sách cụ thể để cải thiện cuộc sống cho
đồng bào, tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống. Người nói: "Phải ra
1

. Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr. 115. CD-ROM
. Hồ Chí Minh, Sđd, t.5, tr. 269. CD-ROM

2


25


×