Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Tìm hiểu hoạt động ngân hàng tại Mỹ và châu Âu Thước đo hiệu quả kinh pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.58 KB, 5 trang )

Tìm hiểu hoạt động ngân hàng tại Mỹ và châu Âu
Thước đo hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng thương mại là lợi nhuận, một
ngân hàng mà số lợi nhuận hàng năm thu được không đủ bù cho chi phí thì không
thể coi là kinh doanh có hiệu quả được.
Muốn kinh doanh có hiệu quả phải biết tổ chức bộ máy kinh doanh hợp lý, và
quan trọng hơn là phải có đủ nhân viên đáp ứng được yêu cầu của công việc,
người lãnh đạo và quản lý ngân hàng phải có khả năng lãnh đạo và quản lý tốt.
Tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi nước, đặc điểm kinh tế của từng địa phương,
quy mô hoạt động của từng ngân hàng, việc bố trí bộ máy kinh doanh của các
ngân hàng thương mại có thể có những đặc điểm khác nhau. Tại Mỹ và châu Âu
về cơ bản thì ngân hàng thương mại được tổ chức thành ba bộ phận lớn: Trực tiếp
kinh doanh, Kế toán kho quỹ và Kế hoạch kiểm tra.
Trực tiếp kinh doanh:
Đây là bộ phận lớn nhất và quan trọng nhất của ngân hàng. Ngân hàng có thể đứng
vững và tồn tại trong cạnh tranh hay không, kinh doanh có hiệu quả hay không, lợi
nhuận thu được có lớn hơn chi phí hay không, tất cả tuỳ thuộc vào kết quả làm
việc của bộ phận này.
Chẳng hạn như New York
Bank, một ngân hàng lớn tại Mỹ, thường bố trí những
nhân viên tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ, am hiểu rộng các quan hệ kinh tế, nhạy
bén với sự biến đổi của tình hình, năng nổ, tháo vát, dám nghĩ, dám làm nhưng
chín chắn, thận trọng và quyết đoán gánh vác sự nghiệp này. New York Bank
tuyển vào vị trí này không chỉ các nhân viên có trình độ ngân hàng mà còn có cả
những nhân viên thuộc các lĩnh vực kinh tế, marketing
Một ngân hàng lớn, kinh doanh đa dạng trong nước và quôc tế thì bộ phận trực
tiếp kinh doanh có thể làm những việc như: kinh doanh vốn ngắn hạn (cho vay
ngắn hạn), kinh doanh vốn dài hạn (cho vay dài hạn), kinh doanh chứng khoán
(mua bán cổ phiếu, trái phiếu các loại), kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý, kinh
doanh đối ngoại (vay hoặc cho vay vốn nước ngoài, các tổ chức tiền tệ tín dụng
quốc tế. Đối với các ngân hàng nhỏ thì số nghiệp vụ mà bộ phận này phụ trách sẽ
ít hơn và quy mô từng nghiệp vụ cũng nhỏ hơn.


Kế toán và kho quỹ:
Đây là bộ phận lớn thứ hai của ngân hàng thương mại. Tại Mỹ và châu Âu, bộ
phận này có nhiệm vụ ghi chép, phản ánh và lưu trữ toàn bộ các nghiệp vụ kinh
doanh và dịch vụ của ngân hàng từ khi phát sinh, quá trình phát triển, kết thúc và
tồn tại .
Hàng ngày các nhân viên kế toán và thủ quỹ của các Ngân hàng Mỹ và châu Âu
trực tiếp giao dịch với khách hàng về tất cả các nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ,
đồng thời cũng phục vụ cho các nhân viên ở bộ phận kinh doanh về số liệu, chứng
từ, hồ sơ của những nghiệp vụ có liên quan. Ngân hàng có bao nhiêu nghiệp vụ
kinh doanh và dịch vụ thì cả bấy nhiêu hồ sơ kế toán theo dõi, nhờ có số liệu kế
toán các nhân viên nghiệp vụ mới am hiểu rõ khách hàng và có quyết định đúng.
Số liệu của kế toán còn giúp cho cán bộ kế hoạch kiểm tra và giám đốc ngân hàng
theo dõi kết quả kinh doanh, nhận định tình hình và đề ra những chủ trương thích
hợp về phương hướng hoạt động của ngân hàng, phát triển nghiệp vụ này, thu hẹp
nghiệp vụ khác, quan hệ với các ngân hàng bạn, quan hệ với ngân hàng trung
ương.
Để làm được những việc trên đòi hỏi phải có những nhân viên kế toán của các
ngân hàng phải thành thạo về nghiệp vụ kế toán, am hiểu nghiệp vụ kinh doanh,
cẩn thận, cần mẫn, mọi con số đều chính xác, kịp thời, đảm bảo tin cậy, phản ánh
đúng thực trạng của tình hình.
Kế hoạch kiểm tra:
Bộ phận thứ ba này tuy số nhân viên ít hơn nhiều lần so với số nhân viên của hai
bộ phận trên, nhưng lại đòi hỏi phải có trình độ cao hơn họ về nhiều mặt. Trong
các ngân hàng lớn của Mỹ và châu Âu, đó là những nhân viên phụ trách các việc
như: thu thập các nguồn thông tin kinh doanh, tài chính, ngân hàng trong khu vực,
trong nước và trên thế giới để cung cấp cho ban lãnh đạo; lập kế hoạch, dự báo về
các nguồn vốn, các phương hướng kinh doanh; lên cân đối về nhu cầu và khả
năng; cân đối thu chi tài chính của ngân hàng; theo dõi sự biến đổi của dự trữ thực
tế với mức dự trữ theo luật; dự kiến kế hoạch kinh doanh.
Ngày nay hầu hết ngân hàng Mỹ và châu Âu đều sử dụng công nghệ thông tin, lập

chương trình tuyến tính để phân bổ các nguồn vốn và tìm ra các nguồn đầu tư có
lợi trong tương lai. Những kết quả tính toán này phải được các chuyên gia kinh tế,
tài chính, ngân hàng xem xét, phân tích đánh giá, vì việc lập chương trình tuyến
tính chỉ là cái bổ trợ, tham khảo cho kết quả nghiên cứu của các chuyên gia.Trong
quản trị kinh doanh ngân hàng, máy móc không thể thay thế con người được.
Trong bộ phận kế hoạch và kiểm tra còn phải có một số nhân viên chuyên kiểm tra
theo dõi việc chấp hành các chủ trương, chính sách, luật lệ, chế độ của nhà nước
và của ngân hàng trung ương châu Âu hay Cụ dự trữ liên bang Mỹ. Ngoài ra tại
các ngân hàng này còn phải có người phụ trách nhân sự, lo việc nâng cao tay nghề,
học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của cả ngân hàng thương mại
và thực hiện các chính sách khen thưởng, kỷ luật, tuyển dụng, sa thải.
Vấn đề quan trọng đối với tất cả nhân viên ngân hàng Mỹ và châu Âu là ai giỏi
việc nào phải được giao làm việc ấy, trước khi nhận việc ở bộ phận nào cũng phải
được huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng chu đáo đến nơi đến chốn. Nhân viên ngân
hàng dù làm việc gì cũng phải thành thạo tay nghề, cần mẫn, chịu khó, năng nổ,
sáng tạo. Mọi người phải quan tâm đến lợi ích của ngân hàng như lợi ích của bản
thân mình, do đó mà có thái độ tốt đối với khách hàng, không làm mất khách
hàng, tìm mọi cách thu hút được nhiều người đến với ngân hàng, tạo điều kiện cho
ngân hàng mở rộng được địa bàn hoạt động, kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận
năm sau cao hơn năm trước.
Như vậy, trong một ngân hàng thương mại của Mỹ và châu Âu, tổng số nhân viên
được chia thành ba bộ phận khác nhau. Bộ phận trực tiếp kinh doanh bao giờ cũng
chiếm số đông nhất trên dưới 50% tổng số nhân viên, hầu hết là nhân viên có trình
độ cao, có nghiệp vụ khinh doanh giỏi. Bộ phận kế toán kho quỹ thường chiếm từ
35% đến 40% tổng số nhân viên, làm các việc kế toán, thống kê, điện toán, thu
phát tiền mặt, ngoại tệ, vàng bạc, chứng khoán,chứng từ có giá, kho quỹ Bộ
phận kế hoạch kiểm tra chiếm khoảng từ 10% đến 15% tổng số nhân viên, ở đây
gồm những nhân viên có trình độ cao về nghiệp vụ, kỹ thuật nghiên cứu, quản lý,
kiểm tra


×