Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào sự nghiệp đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.75 KB, 25 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn
đạt được trong 20 năm đổi mới. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng
sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong
những nguyên tắc lý luận cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mac-Lênin.
Ngay từ buổi đầu của lịch sử, con người phải lao động sản xuất tạo ra
của cải vật chất để tồn tại. Qua lao động mà kinh nghiệm được tích lũy phong
phó, đó là cơ sở cho việc khái quát lí luận. Phân công lao động phát triển, xã
hội phân chia thành giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị có điều kiện vật chất
để tách khái lao động chân tay để chuyên nghiên cứu lí luận. Đó là cơ sở xã
hội cho việc tách rời giữa thực tiễn với lí luận đi đến đối lập chúng với nhau.
Triết học Mác- Lênin đã thực hiện sự thống nhất trở lại lí luận với thực tiễn.
Sự thống nhất này thực hiện trên cơ sở mét sù phát triển cao của cả thực tiễn
và lí luận.
Quan điểm của triết học Mác về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn
không chỉ ở chỗ vạch rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với lí luận, coi
thực tiễn là cơ sở, là tiêu chuẩn, là mục đích quan trọng của lí luận với thực
tiễn.
Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bậc của xã
hội loài người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Lý luận có nguồn gốc cơ
sở động lực từ thực tiễn, chính thực tiễn đặt ra vô vàn những vấn đề mà lý

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT



2

luận phải giải đáp và chỉ trên cơ sở đó lý luận mới thực sự giữ vai trò dẫn
đường, lý luận phải đi trước một bước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, thực tiễn không có lý luận soi đường là thực tiễn mù quáng, lý luận
không liên hệ thực tiễn là lý luận suông”. Việc phân tích tìm hiểu mối liên hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiền từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận
dụng đúng đắn quan điểm đó trong hoạt động thực tiễn là rất cần thiết đối với
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề này là việc hết sức thiết thực và quan trọng đối với
việc nghiên cứu lý luận Mác- Lênin nói chung và đối với công cuộc xây dựng
đất nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Với những kiến thức được
trang bị, cùng với sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè tác giả chọn đề tài: “Vận
dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam ” làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu.
Nêu rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn
Vận dụng vào sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu.
Với đề tài: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam ”. Đây là một đề tài khá rộng đã có
nhiều sách, báo, tạp chí…viết về vấn đề này.
Do thời gian có hạn cùng với việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở hình thức
tiểu luận nên em sẽ lấy khách thể nghiên cứu là hoạt động sáng tạo, là lý luận
của nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung.

Tiểu luận triết học


Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


3

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo.
Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu
Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đặc biệt coi trọng và sử dụng chủ yếu
phương pháp logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh.
Nguồn tư liệu tham khảo: Một số giáo trình triết học và các tài liệu có
liên quan.
5. Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liêu tham khảo, tiêu luận
gồm 3 chương.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


4

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
PHẠM TRÙ LÝ LUẬN VÀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN
1.1. Phạm trù lý luận.
Trước hết cần khẳng định rằng phạm trù lý luận là phạm trù mang tính
trừu tượng, vì vậy từ trước đến nay, đã có rất nhiều quan niệm, quan điểm
khác nhau về lý luận. Lý luận ra đời ngay từ thời cổ đại, khi triết học mới ra

đời, lúc đầu chỉ là những tri thức thuần túy trải qua quá trình nhận thức lâu dài
cùng với sự xuất hiện của ngành khoa học thì tri thức lý luận hình thành và
ngày càng mang tính khái quát trừu tượng hóa cao.
Kế thừa những yếu tố hợp lý đó và phát triển một cách sáng tạo. MácĂngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về lý luận: “Lý luận
là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ tri
thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có
tác dụng tái hiện trong lôgíc của khái niệm cái lôgíc khách quan của sự vật”.
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được hệ thống hóa, khái
quát hóa từ những tài liệu của thực tiễn, kinh nghiệm lịch sử phản ánh mối
liên hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan cũng như sự phát
triển của tư duy con người.
Lý luận là sản phẩm cao nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ não con người. Để hiểu rõ về bản chất của lý luận
chúng ta cần tìm hiểu khái niệm nhận thức và các cấp độ của quá trình nhận
thức.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


5

Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế
giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra
những tri thức về thế giới khách quan.
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp bao gồm
nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn

đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện ở ba hình thức cơ bản là
cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của nhận thức cảm tính,
phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Bản chất của
cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tri giác là tổng hợp những thuôc tính riêng lẻ của sự vật trong mối
quan hệ hữu cơ với nhay. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp.
Biểu tượng là hính thức đi sâu vào bản chất của sự vật, biết được bản
chất của chúng thông qua một tập hợp những thuộc tính. Đã bắ đầu mang tính
khái quát và gián tiếp. Biểu tượng có vai trò là khâu trung gian giữa trực quan
sinh động và tư duy trừu tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ
sở những tài liệu trực quan sinh động đem lại. Tư duy trừu tượng cũng phản
ánh hiện thực, nhưng sự phản ánh gián tiếp và khái quát, và do vậy sâu sắc
hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn với các hình thức cơ bản nha: Khái niệm,
phán đoán và suy lý.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận – Những trình độ
khác nhau của nhận thức khoa học:

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


6

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý
luận đều là sự tổng hợp của hai yếu tố cảm tính và lý tính.
Kinh nghiệm là những tri thực được chủ thể thu nhận trực tiếp trong

quá trình hoạt động thực tiễn, là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận, là
căn cứ để sửa đổi, phát triển hệ thống lý luận cũ.
Nhận thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất của sự vật hiện
tượng, trong những môi liên hệ mang tính quy luật. Nhiệm vụ của nhận thức
lý luận là nhận thức ở trình độ cao hơn, chỉ ra những phương hướng mới cho
sự phát triển của hoạt động thực tiễn. Chỉ có những tri thức lý luận mới làm
cho hoạt động của con người trở nên chủ động hơn, tránh được tính trạng mò
mâm, tự phát.
Như vậy, về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát
từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế
giới khách quan, lý luận được hình thành không phải nằm ngoài thực tiễn mà
trong mối liên hệ với thực tiễn.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chúc năng phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng
những quy luật chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận
đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực và trình
độ khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp
luận nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, lý luận là một công cụ tư tưởng sắc bén có vai trò rất to lớn
đối với hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức. Lý
luận giúp cho con người thấy được những ưu điểm và hạn chế trong việc biến
đổi những quá trình đối tượng hoá khách thể. Tự nhiên luôn cần đến những

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


7


bàn tay con người, và cũng chính tự nhiên quyết định cho con người những
trình tự tất yếu để trong quá trình tồn tại, con người tự bổ sung, hoàn thiện
cách thức cải tạo tự nhiên. Lý luận luôn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
ra sự liên kết gắn bó giữa chủ thể tự nhiên và chủ thể nhận thức. Lý luận cũng
có quá trình hình thành và phát triển của nó, không phải lý luận có khi con
người xuất hiện, mà con người phải phát triển đến một giai đoạn nhất định
nào đó lý luận mới được xuất hiện. Lý luận không phải sinh ra vốn đã hoàn
thiện mà nó được bổ sung và hoàn thiện dần dần theo tiến trình phát triển của
lịch sử xã hội. Hay nói cách khác, lý luận mang tính lịch sử xã hội, có những
lý luận đúng ở quá khứ nhưng ở hiện tại và tương lai nó không còn phù hợp
nữa.
1.2. Phạm trù thực tiễn.
1.2.1. Khái niệm thực tiễn.
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của
triết học Mác– Lênin nói chung và của lý luận nhận thức Macxit nói riêng.
Trong lịch sử triết học không phải mọi trào lưu đều đưa ra quan niệm đúng
đắn về phạm trù này. Các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được
vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của
họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu
tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt
động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con
người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Mác- Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục
những hạn chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và
đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mác- Ăngghen đã thực hiện

Tiểu luận triết học


Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


8

bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận
thức nói riêng.
Khái niệm thực tiễn trong triết học Mác- Lênin: “Thực tiễn là toàn bộ
những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội”.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động
mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất
định nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người sử dụng các
phương tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và mức độ khác
nhau tuỳ thuộc mục đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt động thực
tiễn là những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của cá
nhân và cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động sáng tạo, là hoạt
động được đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật
chất. Bởi hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể
trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận thức
khách thể. Vì vậy thực tiễn là khâu trung gian nối liền ý thức con người với
thế giới bên ngoài. Như vậy, hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của
con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một
cách thụ động với thế giới bên ngoài thì con người nhờ vào thực tiễn như là
hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình để cải tạo thế giới nhằm thoả
mãn nhu cầu mình thích nghi một cách chủ động tích cực với thế giới và làm
chủ thế giới. Để thoả mãn nhu cầu của mình con người phải tiến hành sản

xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình và nhờ đó con người tạo nên những
vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Như vậy, không có hoạt động thưc
tiễn con người và xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy có thể

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


9

nói: Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là
phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Mỗi hoạt động của con người đều mang tính lịch sử cụ thể. Nó chỉ diễn ra
trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có quá trình hình thành phát triển và
kết thúc hoặc chuyển hoá sang giai đoạn khác, không có hoạt động thực tiễn
nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi phối của mỗi
giai đoạn lịch sử cả về đối tuợng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động.
Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm
người nhưng hoạt động thực tiễn của từng cá nhân, từng nhóm người lại
không thể tách rời quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối tượng
phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó hoạt động thực
tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng,
vì cộng đồng và do cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu đã có nhận thức, đã
có ý thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức về đối
tượng…, đặc biệt là ý thức về mục đích của quá trình hoạt động. Mục đích của
hoạt động thực tiễn là nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân
và xã hội, nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Mỗi hoạt động đều có mục đích
khác nhau để giải quyết nhu cầu cụ thể, không có hoạt động nào không có mục

đích, mặc dù kết quả của hoạt động thực tiễn không phải lúc nào cũng diễn ra
phù hợp với mục đích của con người.
1.2.2. Các hình thức thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia làm ba
hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị-xã hội và
hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất: là hoạt động trực tiếp của con người tác
động vào giới tự nhiên, cải tạo tự nhiên bằng các công cụ vật chất nhằm tạo ra

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


10

của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phái triển của con người và của xã
hội. Vì vậy hoạt động sản xuất vật chất được xem là động lực phát triển của
xã hội biến đổi con người theo trạng thái phát triển tích cực về mặt thể chất
lẫn tinh thần. Bởi thông qua lao động con người mới phát huy hết tiềm năng
của mình.Sự phát triển của xã hội càng cao thì cách thức con người sáng tạo
ra công cụ lao đông ngày càng tinh vi, hiệu quả hơn, góp phần vào việc tạo ra
của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng, mẫu mã
được nâng lên. Đồng thời sản xuất vật chất là cơ sở hình thành xã hội và các
thiết chế xã hội khác nhau. Tất cả quan điểm về nhà nước, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật tôn giáo… các quan hệ xã hội như gia đình, chủng tộc, dân
tộc, quốc tế và các thiết chế xã hội như tòa án, nhà thờ… Đều được hình
thành và phát triển trên cơ sở sản xuất vật chất. Bên cạnh đó sản xuất vật chất
còn là cơ sở cho tiến bộ xã hội.
Hoạt động chính trị-xã hội: là hoạt động của con người nhằm cải tạo,

biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội, như đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới vì
sự tiến bộ xã hội loài người, đấu tranh chống ô nhiễm môi trường bảo vệ cân
bằng sinh thái, đấu tranh chống các thảm họa do các dịch bệnh gây ra.
Hoat động chính trị-xã hội là hoạt động giúp cho con người có điều
kiện để phát huy hết khả năng sáng tạo của mình góp phần vào sự phát triển
chung của nhân loại và nếu không có các dạng hoạt động này thì sẽ không
làm thay đổi các quan hệ xã hội và như vậy sẽ không thúc đẩy xã hội phát
triển được.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động của các ngành khoa học
tác động làm cải biến những đối tượng nhất định trong một điều kiện nhất
định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định, đây là dạng đặc biệt của hoạt
động thực tiễn bởi vì nó được tiến hành trong những điều kiện nhân tạo nhằm

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


11

tạo những luận cứ khoa học và để phục vụ cho hoạt động nhận thức và hoạt
động làm biến đổi giới tự nhiên, xã hội của con người.
Ngoài các hoạt động thực tiễn cơ bản nêu trên, còn có các hoạt động
phát sinh trong các lĩnh vực đạo đức, nghệ thuật, y tế, giáo dục,…các loại
hoạt động này nảy sinh trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người, có tác dụng bổ sung làm phong phú thêm những dạng hoạt động thực
tiễn của con người.
Như vậy mỗi hình thức hoạt động cơ bản có một chức năng quan trọng
khác nhau, không thể thay thế được cho nhau. Song giữa chúng có mối quan

hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó hoạt động sản xuất vật chất là
hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác.
Bởi vì nó là hoạt động nguyên thuỷ nhất, tồn tại một cách khách quan, thường
xuyên nhất trong cuộc sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của
cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người
và xã hội. Nếu không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình
thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất
phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất vật chất của
con người. Nhưng như vậy không có nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã
hội và thực nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động lệ thuộc một chiều vào hoạt
động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có thể tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy
hoạt động sản xuất vật chất phát triển. Chẳng hạn nếu hoạt động chính trị - xã hội
mang tính chất tiến bộ cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà
đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất vật chất phát triển. Còn nếu hoạt động
chính trị - xã hội mà lạc hậu phản cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm mà
sai lầm không khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất vật chất.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


12

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Giữa lý luận và thực tiễn giường như hai mặt tương đối độc lập với nhau
nhưng lại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó

thực tiễn luôn luôn giữ vai trò quyết định .Sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan. Con
người luôn tác động tích cực vào thế giới khách quan, tự nhiên và xã hội, cải
biến thế giới khách quan bằng thực tiễn. Trong quá trình đó sự phát triển nhận
thức của con người và sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất.
Điều đó quy định sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận; lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như
thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các
yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Qúa
trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận
đã đựơc khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông
qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


13

Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ là
nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm

phương pháp cho hoạt động. Thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng
kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình
đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày
càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động con người không
bị hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy
một ngành khoa học mới ra đời – khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con người,
nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con
người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thoả mãn nhu
cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên
những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi trong tự nhiên
và xã hội theo mục đích của con người, đó thực chất là mục đích của lý luận.
Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là yêu cầu, là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận
đối với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua
thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C.Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu tư
duy của con người có thể đạt đến chân lý khách quan không hoàn toàn không
phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà
con người phải chứng minh chân lý”. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt
đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT



14

chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh bổ sung hoặc nhận thức lại giá
trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chẩn chân lý của lý luận nhưng không phải mọi
thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý
luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là
thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hoá. Đó
là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác
nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của
thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản
ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý.
Tuy xét đến cùng thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý luận,
nhưng vì thực tiễn luôn vận động và phát triển, đồng thời thực tiễn cũng rất
phong phú và đa dạng, do đó ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những
tiêu chuẩn khác như tiêu chuẩn lôgíc, tiêu chuẩn giá trị…Song các tiêu chuẩn
đó vẫn phải trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy chúng ta có thể nói khái
quát thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận.
Lý luận hình thành và phát triển được xuất phát từ thực tế và đáp ứng
nhu cầu thực tiễn
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình
thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà
còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú đa dạng, luôn vận động và
biến đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết lý luận phải đáp ứng thực
tiễn. Con người nhận thúc hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề
con người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính
nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận.
Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan, con người không hề
choáng ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận thức. Loài người có khả năng


Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


15

trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách quan,
nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn của con người. Đó là những lý luận
mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan. Mọi hoạt
động của con người đều nhằm đạt hiệu quả cao. Lý luận, trước hết phải đáp
ứng mục đích đó. Quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên đòi
hỏi con người phải có lý luận sâu sắc về chúng. Con người hình thành lý luận
chủ yếu để làm phương pháp cho hoạt động sáng tạo tri thức, phát minh sáng
chế những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo
của con người. Do đó hệ thống lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù
hợp mục đích của con người thì được con người quan tâm khái quát. Vì lẽ đó
lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; ngược lại, lý luận
khoa học phải được vận dụng vào thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn, tiếp
tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
C.Mác đã từng nói, người thợ xây không bao giờ tinh xảo như con ong
xây tổ nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một
công trình họ đã hình thành được hình tượng của công trình ấy trong đầu họ.
Tức là hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động
của con người chưa có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để
đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua đó, con người khái quát thành
lý luận. Từ đó những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết
phải có lý luận soi đường hoạt động thực tiễn của con người mới trở thàng
tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.

Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu xác định lực lượng biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo
được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo
được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế những thất bại có thế có trong

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


16

quá trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động
hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt
động của con người. Mặt khác lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý
tưởng liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh to lớn của
quần chúng trong cải taọ tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã
khẳng định “ Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự
phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ lực lượng vật
chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng”.
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao song nó còn có tính lịch sử, cụ
thể. Do đó khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi
tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc giáo điều, kinh viện thì chẳng những
hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch
sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của nhận thức lâu dài và khó khăn của con
người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy đa dạng phong
phú nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn
được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là

phương pháp mà còn là định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định
hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối
quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những thế, lý luận còn định hướng
mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn,
trước hết từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục đích khác
nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối quan hệ lực
lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát
huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao
hơn.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


17

Lý luận tuy là lôgíc của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu hơn so với
thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn
biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý
luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn còn được làm sáng tỏ cụ thể hơn
khi xem xét nó từ quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Thực tiễn là khâu trung
gian cơ bản giữa chủ thể và khách thể, thực tiễn là hình thức liên hệ thực tại
khách quan nhờ đó chủ thể tự đối tượng hóa bản thân, các ý định, các mục
đích của mình. Điều này cho thấy thực tiễn và lý luận không thể tuyệt đối độc
lập với nhau. Bởi vì quan hệ lý luận giữa con người và khách thể không bao
giờ tách rời, biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, lý luận bao giờ cũng phục tùng
thực tiễn, phục vụ thực tiễn và lý luận bao giờ cũng phát triển trên cơ sở cải
tạo thực tiễn của xã hội. Vì vậy không có sự đối lập giữa lý luận và thực tiễn,

tính độc lập của lý luận chỉ là tương đối, lý luận cách mạng không phải hoàn
toàn là thực tiễn cách mạng, tuy nhiên do lý luận được sinh ra bởi các nhu cầu
của thực tiễn xã hội nên lý luận cách mạng trở thành một bộ phận của thực
tiễn xã hội.
Tóm lại, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một quá trình mang tính lịch
sử xã hội cụ thể. Đây là quan hệ thống nhất biện chứng nắm bắt được tính biện
chứng của quá trình đó là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta có một lập
trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng ,máy móc và lý luận
suông.
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
nhận thức.
Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


18

Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn rong việc nhận thức khoa học và hoạt động
thực tiễn.
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều
hình thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn,
phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng thước đo
tính cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó
phải hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự
phát triển của thực tiễn đặt ra, và như vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn
phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý

luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận
không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt
được thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là
tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ
cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận
thể hiện ở nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận.
Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động
trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng
tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuếch đại
vai trò của thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận và áp dụng máy móc những
kinh nghiệm trước vào thực tiễn hiện nay mặc dù nó đã thay đỏi, vi phạm
quan điểm lịch sử cụ thế. Đây chính là tư duy siêu hình, không thấy được sự
vận động của lịch sử xã hội dẫn đến xem thường lớp trẻ - những người được
xem là ít kinh nghiệm thực tiễn làm mất đi tính sáng tạo, chủ động của con
người trong hoạt động thực tiễn.Chúng ta coi trọng kinh nghiệm thực tiễn và

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


19

không ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm quý báu đó.Song chỉ dừng lại ở trình
độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm
là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập,
nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm

để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng, đại
khái, phiến diện thiếu tính lô gic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt động thực
tiễn thì mò mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh
vực. Để khắc phục bệnh này thì không được rời xa thực tiễn, phải bám sát
thực tiễn, phải tăng cường học tập, nâng cao trình độ lý luận, bổ sung lý luận
thường xuyên để đáp ứng được với sự thay đổi của thực tiễn.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh
giáo điều. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý
luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử
cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn máy móc. Nguyên nhân của
bệnh giáo điều là do hiểu lý luận một cách nông cạn, chưa nắm được bản chất
của lý luận, vận dụng lý luận chưa được kiểm nghiệm qua thực tiễn nên chỉ là
những lý luận thuần túy. Và mọt sách, sính lý luận đã thành đường mòn trong
những cán bộ do vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, chỉ thấy cái chung mà
không thấy cái riêng, cái cụ thể. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ hàng
loạt của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu. Để khắc phục
bệnh giáo điều, cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Lý luận luôn gắn với thực tiễn và phải vận dụng lý luận một cách
sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển
trong thực tiễn.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


20

CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức.
Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn– nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác– Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự
nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý
luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều
kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý
luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý
luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức,
của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái
quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm,
vừa làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi
quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong
thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều
điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đề chống lạm phát, vấn đề khoán trong
nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm… Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ
không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định
nên việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất
quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn
sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa, đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng
chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và
hiện nay.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT



21

Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không
hề coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng
cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó
được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận
động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
Thứ nhất: Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối
hoá sở hữu xã hội (Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan
hệ sản xuất đối với sự phát triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm
hãm sự phát triển sản xuất… sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự
thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các
hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm
thúc đẩy sản xuất phát triển. Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa
sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
Thứ hai: Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy
tập trung, kế hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy
quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội
Chủ nghĩa
Thứ ba là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung
quan liêu với phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá
các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.
Thứ tư: Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ
nghĩa xã hội ở một nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác – Lê nin trong điều


Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


22

kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách
quan, là cơ sở khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của
chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng thời
một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối
chính sách.
Thứ năm là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã
hội những nhận thức mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lênin là ở chỗ trong khi khái quát thực
tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển,
dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai đoạn
hiện nay của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận
dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác– Lênin. Để khắc phục
những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích cực của
mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức
tạp, đòi hỏi phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý
luận cũ. Đồng thời, đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, phủ định sạch trơn mọi
giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là
một bộ phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát

triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý
luận với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình
đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và
làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


23

lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt
tình cách mạng và tri thức khoa học bởi tri thức khoa học có được hay không
là nhờ ở lòng ham hiểu biết, trí thông minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa
học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì nó lại trở thành động lực tăng
thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế khách quan và phát
huy nỗ lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự phát triển
nhận thức mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để
hoạt động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ
đạo trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với
tri thức khoa học được trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần
thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng`và mục tiêu đúng đắn phát
triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ phát triển kinh tế
chung của khu vực và trên thế giới.

Tiểu luận triết học


Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


24

KẾT LUẬN
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của qúa trình phát triển
xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và
đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh
của việc xây dựng, phát triển đời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc
nào hết lý luận Mác– Lênin trong sự thống nhất cao với thực tiễn phải thể
hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo trong công việc, giải quyết những vấn đề cấp
bách và trọng đại do cuộc sống hiện thực đặt ra cho chúng ta trong công cuộc
Công nghiệp hóa– Hiện đại hóa đất nước hiện nay. Những thành quả mà
chúng ta có được ngày hôm nay là kết qủa của sự năng động, sáng tạo của
Đảng, Nhà nước ta trong quá trình vận dụng nguyên tắc thông nhất giữa lý
luận và thực tiễn vào hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong thời kỳ qúa độ lên chủ
nghĩa xã hội.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


25

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học(1999), Tập III, Nxb Chính

trị quốc gia Hà Nội.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin(2005), Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội
[3]. Từ điển triết học(1986), Nxb Tiến bộ Matxcơva.
[4]. C.Mác – Ăngghen(1995), Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG Hà Nội.
[5]. VI. Lênin(1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hồng Thái - K16 Toán GT


×