ĐỀ 7:
Phân tích điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Chỉ ra những
thiệt hại có thể được bồi thường trong trường hợp tài sản gây thiệt hại?
PHỤ LỤC
PHẦN 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
PHẦN 2: NỘI DUNG
I. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.Khái niệm:
2. Đặc điểm:
II. Những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015:
1. Cơ sở pháp lí:
2. Phân tích cụ thể:
III. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
IV. Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
V. Về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
PHẦN 3. KẾT LUẬN
PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là chế định pháp lí xuất hiện sớm nhất
trong lịch sử pháp luật dân sự trên Thế giới. Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng hay
cịn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lí. Tại Việt
Nam, chế định này đã có lịch sử phát triển trong một thời gian.Quá trình lập pháp của
Việt Nam cũng nhận thấy rõ vai trò của chế định này trong việc điều chỉnh các quan hệ
trong những trường hợp gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác mà khơng xuất hiện giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng
nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc phạm vi hợp đồng đã giao kết.
PHẦN 2: NỘI DUNG
I. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.Khái niệm:
- Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được quy định như sau:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại
khoản 2 Điều này.”
=> Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một dạng trách nhiệm pháp lí, nó thuộc dạng
trách nhiệm dân sự. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan
hệ bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây thiệt
hại và bên bị thiệt hại khơng có thoả thuận hoặc hợp đồng nào. Khác với trách nhiệm
2
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được
giải quyết trên cơ sở của thiệt hại thực tế đã xảy ra.
2. Đặc điểm:
•
•
•
•
•
Về cơ sở pháp lý: trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự và chịu sự
điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác
thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài
sản do pháp luật dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi thoả mãn
các điều kiện nhất định.
Về hậu quả: trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả bất lợi
về tài sản cho người gây thiệt hại.
Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngồi người trực tiếp có hành vi gây thiệt
hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại cịn được áp dụng cả đối với những chủ
thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người
được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường
học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…
Và đặc điểm quan trọng nhất cũng là đặc điểm để phân biệt giữa trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng với các trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác là
giữa người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại khơng có việc giao kết hợp đồng
hoặc có hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện
hợp đồng.
=> Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự,
mang tính chất của trách nhiệm dân sự
II. Những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo quy định của Bộ luật dân sự 2015:
1. Cơ sở pháp lí:
- Theo Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại…”.
3
=> Như vậy, một chủ thể chỉ cần có “hành vi xâm phạm” đến quyền và lợi ích của chủ
thể khác và “gây thiệt hại” thì “phải bồi thường” hoặc trường hợp khác, thiệt hại không
phải do chủ thể mà do tài sản thuộc sở hữu của chủ thể gây thiệt hại thì khi đó, chủ sở
hữu hoặc người chiếm hữu tài sản lúc đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ở
đây, nhà làm luật không quy định bằng những đại lượng cụ thể để tính mức độ thiệt hại
phải bồi thường, như vậy rất khó cho việc xác định giá trị phải bồi thường cho chủ thể
bị thiệt hại.
2. Phân tích cụ thể:
* Những điều kiện phát sinh trách nhiệm trên là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi
thường, người phải bồi thường, người được bồi thường và mức bồi thường của bên
phải bồi thường cho bên được bồi thường.
•
Thứ nhất: Có thiệt hại xảy ra
– Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi được áp dụng là nhằm khơi phục tình trạng tài
sản cho người bị thiệt hại nên thiệt hại là yếu tố không thể thiếu được trong việc áp
dụng trách nhiệm này. Chỉ có thiệt hại mới phải bồi thường, chỉ khi nào biết được thiệt
hại là bao nhiêu mới có thể ấn định người gây thiệt hại phải bồi thường bao nhiêu. Vì
vậy, muốn áp dụng trách nhiệm này thì việc đầu tiên là phải xem xét có thiệt hại xảy ra
hay khơng và phải xác định được thiệt hại là bao nhiêu.
– Thiệt hại về tài sản là những tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền mà người
có hành vi trái pháp luật đã gây ra cho người khác; thiệt hại về thể chất là sự giảm sút
về sức khoẻ, mất mát về tính mạng, hình thể của người bị thiệt hại; thiệt hại về tinh
thần là sự ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc suy sụp về tâm lý, tình
cảm của người bị thiệt hại. Vì vậy, thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành
tiền bao gồm những mất mát, hư hỏng, huỷ hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất, chi
phí nhàm ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khoẻ, tính mạng,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
– Có thể chia thành hai loại thiệt hại sau đây:
+ Thiệt hại trực tiếp: Là những thiệt hại đã xảy ra một cách khách quan, thực tế và có
cơ sở chắc chắn để xác định, bao gồm mất mát, hư hỏng về tài sản, các chi phí cho việc
ngăn chặn, khắc phục các thiệt hại.
+ Thiệt hại gián tiếp: Là những thiệt hại mà phải dựa trên sự suy đốn khoa học mới có
thể xác định được thiệt hại. Thiệt hại này còn được gọi là thu nhập thực tế bị mất, bị
giảm sút, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất. Đổi với loại thiệt
hại này nếu chỉ mang tính giả định, khơng có cơ sở khoa học chắc chắn để xác định thì
khơng được đưa vào khoản thiệt hại để áp dụng trách nhiệm bồi thường.
•
Thứ hai: Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật
4
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua
hành động hoặc không hành động trái với quy định (yêu cầu) của pháp luật. Trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hành vi trái pháp luật là những hành
vi xâm hại tới tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể khác và đa phần được thể hiện dưới dạng hành động. Tuy nhiên, những
hành vi gây thiệt hại do xâm phạm các yếu tố trên nhưng được thực hiện phù họp với
quy định của pháp luật sẽ không bị coi là hành vi trái pháp luật và vì vậy, người thực
hiện hành vi đó khơng phải bồi thường thiệt hại. Chẳng hạn, hành vi gây thiệt hại trong
giới hạn của phịng vệ chính đáng hoặc gây thiệt hại đúng với u cầu của tình thế cấp
thiết.
•
Thứ ba: Có lỗi của người gây thiệt hại.
– Lỗi là quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung
của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy
định của pháp luật. Khi một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự
sao cho xử sự đó phù hợp với pháp luật, tránh thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn
thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm
lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi
và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Bao gồm hai hình thức lỗi sau đây:
+ Lỗi cố ý: Một người bị coi là có lỗi cố ý nếu họ đã nhận thức rõ hành vi của mình sẽ
gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu người này mong muốn
thiệt hại xảy ra từ việc thực hiện hành vi thì lỗi của họ là lỗi cổ ý trực tiếp. Nếu họ
không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra thì lỗi của họ là
lỗi cố ý gián tiếp. “Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vỉ của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muon hoặc không
mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”.
+ Lỗi vơ ý: người có hành vi gây thiệt hại được xác định là có lỗi vô ý nếu họ không
thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại mặc dù họ phải biết hoặc
có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra khi họ thực hiện hành vi đó. Nếu người này cho
rằng thiệt hại khơng xảy ra thì lỗi của họ được xác định là lỗi vô ý cẩu thả; nếu họ cho
rằng có thể ngăn chặn được thiệt hại thì lỗi của họ là lỗi vơ ý vì quá tự tin.
- Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm
khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy,
những người khơng có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ
khơng có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.
•
Thứ tư: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại xảy ra.
Quá trình phát sinh, phát triển và chẩm dứt giữa các sự vật và hiện tượng bao giờ cũng
có mối liên hệ nội tại, trong đó, sự vật, hiện tượng này là nguyên nhân dẫn đến sự ra
5
đời của sự vật, hiện tượng kia. Có thể một sự vật, hiện tượng là nguyên nhân dẫn đến
sự ra đời của nhiều sự vật, hiện tượng khác, có thể nhiều sự vật, hiện tượng cùng là
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy, để xác định chính
xác người phải bồi thường thiệt hại cần phải dựa vào cặp phạm trù: Nguyên nhân và
kết quả và tìm ra mối liên hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, trong đó,
thiệt hại xảy ra phải là kết quả tẩt yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại, hành vi
trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
III. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
- Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại, các bên có thể thỏa thuận về mức
bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công
việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, các bên cần tôn trọng thỏa thuận
của nhau về bồi thường nếu thỏa thuận đó khơng trái pháp luật, đạo đức xã hội và cần
thực hiện đúng theo Điều 585 có quy định về ngun tắc bồi thường thiệt hại, có thể
trình bày ngắn gọn như sau:
•
•
•
•
•
Thứ nhất, bồi thường phải tồn bộ và kịp thời. Thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức
khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các
điều luật tương ứng của BLDS quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao
gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các
bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng
đó. Việc bồi thường tồn bộ là phù hợp với ngun tắc cơng bằng cũng như mục
đích của chế định bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể đượcgiảm mức bồi
thường. Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai
điều kiện sau: “khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý” và “ thiệt hại q lớn so với khả
năng kinh tế của mình”, nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi
thường so với khả năng kinh tế của họ khơng thể có khả năng bồi thường được
toàn bộ hoặc phần lớn số thiệt hại đó.
Thứ ba, mức bồi thường thiệt hại khi khơng cịn phù hợp với thực tế thì các bên
có thể yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức
bồi thường.
Thứ tư, khơng được bồi thường thiệt hại khi lỗi là do bên bị thiệt hại hoặc do
bên bị thiệt hại không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lí để ngăn chặn, hạn
chế thiết hại cho chính mình.
Việc bồi thường kịp thời giúp khắc phục nhanh chóng nhất tình trạng bị thiệt hại
của người bị thiệt hại, cũng như đối với những trường hợp người bị thiệt hại
không đủ điều kiện hay vượt quá khả năng để khắc phục thiệt hại sẽ có những
giải pháp kịp thời cho người bị thiệt hại.
IV. Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
6
Trách nhiệm BTTTHNHĐ nhằm khắc phục những hậu quả về tài sản, phục hồi
tình trạng tài sản của người bị thiệt hại trong phạm vi, khả năng nhất định, đảm
bảo lợi ích của người bị thiệt hại. Giải quyết việc BTTHNHĐ là áp dụng một
biện pháp trách nhiệm dân sự, được thể hiện theo một bản án dân sự hay một
quyết định dân sự, trong một bản án dân sự về nguyên tắc thì thiệt hại phải được
bồi thường một cách toàn bộ và kịp thời (Điều 605 BLDS). Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng khi thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của cá nhân bị xâm hại. Việc
quyết định bồi thường kịp thời có ý nghĩa rất quan trọng đối vơi nạn nhân trong
việc cứu chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản bị xâm phạm. Ngồi
ra, TNBTTH khơng chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra, mà còn
giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ
nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
• Việc bồi thường kịp thời giúp khắc phục nhanh chóng nhất tình trạng bị thiệt hại
của người bị thiệt hại, cũng như đối với những trường hợp người bị thiệt hại
không đủ điều kiện hay vượt quá khả năng để khắc phục thiệt hại sẽ có những
giải pháp kịp thời cho người bị thiệt hại.
•
V. Về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
- Bổ sung nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra: Quy định của
BLDS năm 2005 không bao quát hết các trường hợp tài sản gây ra thiệt hại, dẫn tới rất
nhiều vụ việc tranh chấp xảy ra liên quan đến tài sản gây ra thiệt hại trên thực tế mà
khơng có cơ sở pháp lý để giải quyết thỏa đáng (ví dụ như trường hợp gia súc, gia cầm
phá hoại lúa, hoa màu…).
Một là, nếu thiệt hại do tài sản gây ra thuộc các trường hợp quy định riêng như
nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, cơng trình xây dựng thì áp dụng
những quy định cụ thể tại Điều 601, Điều 603, Điều 604 và Điều 605 BLDS
năm 2015.
• Hai là, đối với những tài sản khác gây thiệt hại mà khơng được quy định cụ thể
thì áp dụng khoản 3 Điều 584 để giải quyết.
•
- Về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong từng trường hợp cụ thể
Bộ luật Dân sự năm 2015 tiếp tục ghi nhận 04 trường hợp về bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra, cụ thể:
•
Về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 601)
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định chủ thể bồi thường tại khoản 3, khoản 4 Điều 601
là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, mở rộng phạm vi chủ thể so với
quy định tại Điều 623 BLDS năm 2005. Những chủ thể chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ có thể theo sự chuyển giao của chủ sở hữu hoặc của một chủ thể
khác hoặc do họ tự chiếm hữu, sử dụng thông qua một sự kiện nhất định.
7
•
Về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 603)
Có thể thấy, việc bổ sung thêm trách nhiệm của người chiếm hữu, người sử dụng súc
vật là hoàn toàn phù hợp, bao quát được mọi trường hợp xảy ra trên thực tế.
•
Về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra (Điều 604)
Điều 604 BLDS năm 2015 bổ sung thêm trách nhiệm của người chiếm hữu, người
được giao quản lý phải bồi thường bên cạnh chủ sở hữu cây cối. Như vậy, người đang
chiếm hữu, quản lý là người trực tiếp chăm sóc cây cối và buộc phải biết tình trạng của
cây cối để kịp thời chặt bỏ, phát, tỉa cảnh hay chặt cây mục ruỗng nhằm tránh nguy cơ
cây cối đổ, gẫy gây ra thiệt hại nên họ phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu để cây cối
gây ra thiệt hại.
•
Về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, cơng trình xây dựng khác gây ra (Điều 605)
Vấn đề bồi thường thiệt hại do nhà cửa, cơng trình xây dựng khác gây ra được quy định
trong BLDS năm 2015 có nhiều nét tương đồng với trường hợp bồi thường thiệt hại do
cây cối gây ra.
Về các trường hợp bồi thường thiệt hại: Điều 605 BLDS năm 2015 quy định bao quát
chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, cơng trình
xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây
thiệt hại cho người khác (BLDS năm 2005 quy định không đầy đủ).
=> Như vậy, so với các quy định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong BLDS
năm 2005 thì các quy định trong BLDS năm 2015 đã có nhiều điểm sửa đổi, bổ sung
phù hợp, tích cực. Sự sửa đổi, bổ sung này tập trung chủ yếu vào các chủ thể có trách
nhiệm bồi thường và quy định khái quát, mở rộng thêm các trường hợp bồi thường.
Nếu thực tế phát sinh các tranh chấp xảy ra do tài sản gây thiệt hại thì hồn tồn có đầy
đủ các cơ sở pháp lý để giải quyết việc bồi thường theo quy định của BLDS năm 2015.
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại chương XX
phần thứ ba Nghĩa vụ và Hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2015, người viết thấy rằng Bộ
luật dân sự 2015 đã sửa đổi khá nhiều những mặt bất cập của bộ luật trước, mặt khác
Bộ luật dân sự 2015 cũng bổ sung khá nhiều điểm mới tiến bộ và hợp lí trong chế định
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chế định bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là
chế định khá phức tạp, có lịch sử đâu đời và thực sự cần thiết trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể dân sự, trên cơ sở lí luận và thực tiễn đã trình bày,
người viết khẳng định tính quan trọng của chế định này. Việc Bộ luật dân sự 2015 tái
8
ghi nhận và hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại thể hiện tính dân chủ, nhân đạo
sâu sắc của nhà nước ta, đồng thời khẳng định tính khoa học, chính xác, hợp lí hợp tình
trong việc áp dụng từ cơ sở lí thuyết tới thực tiễn áp dụng của chế định để đảm bảo
cũng cố quan hệ dân sự nói chung và quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
riêng, trong đó có bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng.
PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2015
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb.Giáo dục, Hà
Nội, 2015.
3. Bộ luật dân sự 2015.
4. Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 2, Trường đại học Kiểm Sát Hà Nội, 2014
5. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ban hành ngày 08 tháng 07 năm 2006 về hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
9