Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Ths. triết học_Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên đại học ở nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào hiện nay (qua thực tế trường đại học quốc gia lào)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.68 KB, 91 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu ở nước Cộng hoà Dân chủ nhân
dân Lào hiện nay mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào đã đặt ra, đó là: "Tăng cường sức mạnh đồn kết
toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nguồn nhân lực để tiếp tục đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội
chủ nghĩa" [29 , tr.11].
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đảng Nhân dân cách mạng Lào khẳng định
phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, là điều kiện phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế mạnh và bền
vững.
Nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của sinh viên cần phải nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo; đổi mới nội dung phương pháp dạy và học,
phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của sinh viên, đề cao tinh thần
tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề; kết hợp học đi đôi với hành, giáo
dục đi đôi với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Trong điều
kiện cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, trường lớp, thư viện, sách giáo
khoa… còn hạn chế thì việc phát huy vai trị năng động, sáng tạo của sinh
viên trong học tập lại càng cấp thiết.
Tuy nhiên, vấn đề vai trò ngày càng tăng của chủ thể nhận thức trong
học tập của sinh viên trong thời gian qua vẫn ít được quan tâm nghiên cứu
đúng mức.
Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo bồi dưỡng nguồn
nhân lực cho cơng nghiệp hố, hiện đại hoá cần thực hiện nhiều giải pháp


2
đồng bộ, trong đó phải phát huy vai trị chủ thể nhận thức trong học tập của


sinh viên đóng vai trò hết sức quan trọng.
Từ những vấn đề lý luận, thực tiễn của quan hệ giữa chủ thể và khách
thể nhận thức, đặc biệt là vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên
đại học, đặt ra nhiệm vụ phải đi sâu nghiên cứu vai trò của chủ thể nhận thức,
nhằm phát huy tính tích cực của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên
các trường đại học. Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo trong các trường đại học ở nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào hiện nay.
Hiện nay, Thủ đô Viêng Chăn đang bước vào thời kỳ mới, thực hiện
nhiệm vụ đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển công
nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, triển khai nhiều dự án trọng điểm
của quốc gia và của Thủ đô. Muốn vậy, ngành giáo dục đào tạo của nước
CHDCND Lào nói chung, trong đó có giáo dục đại học nói riêng phải cố gắng
phấn đấu vượt bậc nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo góp phần đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Một trong những giai pháp ấy là phát huy tính
tích cực của sinh viên – chủ thể nhận thức trong học tập. Vì vậy, chúng tơi
chọn: "Phát huy vai trị chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên đại
học ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay (qua thực tế trường
Đại học Quốc gia Lào)" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin có đề cập
nhiều tới vai trị của chủ thể và khách thể nhận thức cũng như mối quan hệ
biện chứng giữa chủ thể và khách thể nhận thức. Đó là các tác phẩm: "Hệ tư
tưởng Đức", "Biện chứng của tự nhiên", "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán", "Bút ký triết học"… Tác phẩm "Phát huy tinh thần
cầu học, cầu tiến bộ" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nhiều tới vai
trị chủ thể nhận thức trong học tập.


3
Trong các nghị quyết của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đặc biệt là

các nghị quyết từ Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ V tới Đại hội VIII ln đề
cập tới việc phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh
viên, đề cao tinh thần tự học, tự hoàn thiện tay nghề và học vấn cho người lao
động nói chung của thanh niên nói riêng.
* Ở Việt Nam có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập tới vấn đề:
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Tiến Thủ (2001), "Quan hệ giữa chủ thể
và khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học
tập của sinh viên Việt Nam hiện nay".
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Đức Hồn (2001), "Phát huy vai trị chủ
thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng ở Việt Nam hiện nay"
(Qua thực tế một số trường cao đẳng ở tỉnh Hải Dương).
- Luận văn thạc sĩ của Phùng Minh Hải (2001), "Vấn đề phát huy vai
trò chủ thể nhận thức trong học tập của học viên hệ trung cấp lý luận chính
trị ở Cần Thơ hiện nay".
- Luận văn thạc sĩ của Đoàn Thị Toan (2005), "Nâng cao vai trò chủ
thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay".
Một số bài đăng trên các tạp chí cũng đề cập nhiều tới vai trò của chủ
thể nhận thức như: "Tự học, tự bồi dưỡng suốt đời trở thành một quy luật"
của Nguyễn Tấn Phát, Tạp chí Tự học số 8, tháng 4 năm 2000. Đồng tác giả
Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Tính: "Hiệu quả của việc dạy - tự học trong
q trình dạy ở đại học", Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp số 2
năm 1999. Bài viết của Nguyễn Văn Hội "Cơ sở lý luận của việc biến q
trình đào tạo thành tự đào tạo", Tạp chí Triết học số 4 năm 1990… Các cơng
trình khoa học trên đã xem xét vấn đề chủ thể nhận thức, khách thể nhận thức;
đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò chủ thể nhận thức là các đối tượng
cụ thể khác nhau như: sinh viên cao đẳng; học viên hệ trung cấp lý luận chính
trị, v.v... Tuy nhiên, đây là những cơng trình đề cập đến ở Việt Nam.


4

* Ở Lào Văn kiện của Đảng từ Đại hội V đến VIII và các văn bản
của Bộ Giáo dục nước CHDCND Lào có bài viết liên quan đến lĩnh vực này.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về phát huy vai
trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên đại học ở nước CHDCND
Lào hiện nay. Cho nên tác giả đã chọn đề tài này làm luận văn khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng về quan hệ giữa chủ thể và khách
thể nhận thức, luận văn tìm hiểu thực trạng phát huy vai trò chủ thể nhận thức
trong học tập của sinh viên các trường đại học, qua thực tế trường đại học
quốc gia Lào, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu, nhằm phát huy tính tích
cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên nước CHDCND Lào hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Phân tích đặc điểm của sinh viên đại học với tính cách là chủ thể
nhận thức trong học tập.
+ Phân tích thực trạng phát huy vai trị chủ thể nhận thức trong học tập
của sinh viên đại học ở nước CHDCND Lào hiện nay (qua thực tế trường Đại
học Quốc gia Lào).
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong học tập của sinh viên đại học ở nước CHDCND Lào
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đây là đề tài mang tính lý luận và thực tiễn rộng, vì vậy luận văn chủ
yếu đi sâu nghiên cứu vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên
đại học (qua thực tế trường Đại học Quốc gia Lào), từ đó đề xuất các giải
pháp có tính khả thi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


5

- Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về lý luận nhận thức, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Chủ tịch Kay
Sỏn Phôm Vi Hản và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân
dân cách mạng Lào về giáo dục và đào tạo.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện
luận văn, tác giả sẽ sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như:
Phân tích và tổng hợp.
Lịch sử và lơgíc.
Điều tra xã hội học.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
tư tưởng Kay Sỏn Phơm Vi Hản, luận văn bàn về những đặc điểm mang tính
đặc thù của sinh viên đại học chủ thể nhận thức trong học tập.
Luận văn đề xuất một số giải pháp và phương hướng nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập của sinh viên đại học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, cải tiến và
đổi mới phương pháp dạy và học trong các trường đại học ở nước CHDCND
Lào hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.


6
Chương 1
SINH VIÊN ĐẠI HỌC Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO VÀ TÍNH TẤT YẾU PHẢI PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ
NHẬN THỨC TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC - CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG
HỌC TẬP


1.1.1. Chủ thể nhận thức
Để làm rõ tầm quan trọng phải phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong
học tập của sinh viên Đại học ở nước Cộng hòa dân chủ nhân Lào hiện nay,
trước hết cần phải làm sáng tỏ phạm trù chủ thể nhận thức, khách thể nhận
thức và sinh viên Đại học với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập.
Một số quan điểm triết học C. Mác về chủ thể nhận thức
Trước C. Mác do nhận thức khác nhau và quan niệm khác nhau về bản
chất của thế giới, về vai trò của con người đối với thế giới, vì vậy quan niệm
về chủ thể nhận thức, cũng như vai trị của nó cũng rất khác nhau. Điển hình
là các quan điểm duy tâm và duy vật siêu hình về chủ thể nhận thức.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
Chủ nghĩa duy tâm nói chung, kể cả duy tâm chủ quan và duy tâm
khách quan đều coi bản chất thế giới là ý thức, ý thức có trước, vật chất có
sau, ý thức quyết định vật chất. Đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan là Béc-cơli (1865 - 1753). Điểm xuất phát của triết học Béc-cơli là kinh
nghiệm cảm tính hiểu theo nghĩa là tổng hợp những biểu tượng hay những
cảm giác. Theo ông những cảm giác này khơng phản ánh thực tại khách quan,
mà chính chúng là thực tại khách quan chân chính. Ơng viết: "Tôi không phải
cho rằng sự vật biến thành biểu tượng mà nói cho đúng hơn là biểu tượng biến
thành sự vật" [6, tr.247 -248]. Phạm trù "cảm giác" được G. Béc-cơli giải


7
thích khơng phải phản ánh sự vật mà có trước sự vật. Tất cả sự vật và các
thuộc tính của nó khơng tồn tại khách quan, mà tồn tại trong ý thức của con
người. Bản thân toàn bộ thế giới tự nhiên chỉ là: "phức hợp, tổ hợp" những
cảm giác của chủ thể nhận thức. Chủ thể ở đây không phải là lồi người mà là
cái tơi của G.Béc-cơli. Thậm chí, bản thân thể xác cá nhân của chủ thể nhận
thức tồn tại được cũng là do "linh hồn đã cảm nhận nó", cũng là phức hợp của

cảm giác. Quan điểm trên của G.Béc-cơli đã đi đến chỗ phủ nhận chủ thể
nhận thức là nhân loại là con người, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới vật chất. Tuyệt đối hóa yếu tố chủ quan của chủ thể, phủ nhận khách thể
G.Béc-cơli đi đến chỗ đồng nhất toàn bộ các ý niệm với cảm giác, bản thân
các cảm giác cấu thành các khái niệm trừu tượng. Về bản chất của chân lý,
theo G.Béc-cơli cũng là sự phù hợp suy diễn của chủ thể nhận thức về chính
sự vật đó mà trên thực tế nó hồn tồn phụ thuộc vào chủ thể.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm khách quan là Platơn và
Hêghen. Q trình nhận thức, theo Platơn là sự hồi tưởng, còn Hêghen là
"tự nhận thức của ý niệm tuyệt đối". Nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm
khách quan cịn bộc lộ nhiều hạn chế. Theo Plantơn thì cảm giác không
phải là nguồn gốc của tri thức chân thực. Kết quả của nhận thức cảm tính
có thể đúng, có thể sai (lẫn lộn giữa đúng và sai). Tri thức chân thực - nhận
thức ý niệm - chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính và được thể hiện
trong khái niệm. Nhưng chủ thể nhận thức đạt được điều này cũng là nhờ
linh hồn vũ trụ có nguồn gốc từ thượng đế. Platơn đã thần bí hóa chủ thể
nhận thức. Theo Phoi-ơ bắc nhận thức là sự phản ánh máy móc giản đơn,
thụ động thế giới khách quan. Ông chưa hiểu thế giới khách quan được "di
chuyển" vào trong bộ óc con người và được "cải tạo" ở đó như thế nào.
Phoi - ơ bắc về cơ bản vẫn nằm trong khuôn khổ của quan niệm siêu hình,


8
mặc dù ông là nhà duy vật.
Quan điểm của Triết học C.Mác - V.I Lênin về chủ thể nhận thức
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì chủ thể nhận thức nói
chung là con người, là một cá nhân hay một tập đoàn (nhân loại, dân tộc,
giai cấp, đảng phái, tập thể các nhà khoa học vv....) có nhiệm vụ nhận thức
và cải tạo thế giới. Chủ thể - đó là con người nhận thức và cải tạo thế giới

xung quanh cũng như chính bản thân mình. Chỉ có tác động vào thế giới
(vào thế giới tự nhiên và đời sống xã hội), chỉ có thơng qua hoạt động, con
người mới bộc lộ mình với tư cách là chủ thể nhận thức. Tùy thuộc vào cấp
độ xem xét mà chủ thể nhận thức có thể là cả lồi người, có thể là một giai
cấp, một dân tộc, một nhóm người hay một cá nhân nào đó. Con người là
chủ thể nhận thức, vì con người là một chủ thể xã hội có quan hệ với những
người xung quanh, nắm bắt và sử dụng được những công cụ và phương tiện
của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn mà các thế hệ trước để lại.
Chủ thể nhận thức không phải là con người trừu tượng, mà là con người
gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể với trình độ kinh nghiệm, học
vấn cụ thể. Mỗi chủ thể nhận thức đều là một chỉnh thể thống nhất giữa tồn
tại tự nhiên, (sinh học) tồn tại có ý thức và tồn tại xã hội. Con người trước
hết là một thực thể sinh học, vì vậy con người phải tuân theo những quy
luật của tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể và môi trường,
các q trình sinh lý, sinh hóa, các q trình biến dị, di truyền vv...Trong
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1984, Mác viết: "Con người là một sinh
vật có tính lồi" và xem giới tự nhiên là "thân thể vơ cơ của con người...vì
con người là một bộ phận của giới tự nhiên".
Đồng thời con người phát triển tuân theo các quy luật hình thành tâm
lý, ý thức. Các quy luật này được hình thành và phát triển trên cơ sở các tiền


9
đề sinh học của con người. Đó là các quy luật về sự hình thành tình cảm, niềm
tin, ý chí, tư tưởng vv...
Khi nói con người thì khơng phải là nói con người trong trạng thái tự
nhiên thuần túy, mà là con người hoạt động thực tiễn - xã hội. Thông qua hoạt
động thực tiễn, con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời cũng biến
đổi chính bản thân mình. Trong Luận cương về Phoi - ơ - bắc (1845) C.Mác
viết: Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của cá

nhân riêng biệt. Trong tính thực hiện của nó, bản chất của con người là "tổng
hòa các quan hệ xã hội".
Qua mệnh đề trên C.Mác nhấn mạnh các quan hệ xã hội khơng tồn tại ở
ngồi con người thực hiện. Bản chất con người, một sự trừu tượng khoa học,
là sự khái quát từ đời sống cụ thể của những con người hiện thực, từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Bản chất con người được thể hiện thơng qua tổng hịa
các quan hệ xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người chiếm lĩnh
quan hệ xã hội và biến nó thành bản chất người. Con người chỉ trở thành
người khi đặt trong mối quan hệ xã hội, nếu tách khỏi quan hệ xã hội thì con
người khơng trở thành người đúng nghĩa nữa.
Quan điểm của triết học mác xít khơng làm mất đi vai trò của cá nhân
như một số người đã quan niệm, mà ngược lại khẳng định vai trò của cá nhân,
nhân cách. Cá nhân ở đây, theo C.Mác là cá thể sống, sáng tạo ra những quan
hệ xã hội, cá thể hóa chúng thành thế giới bên trong phong phú và độc đáo.
Trong cuộc sống xã hội không thể tách cá nhân ra khỏi cộng đồng, song cũng
khơng thể có những quan hệ xã hội khơng có những cá nhân. Mỗi cá nhân vừa
là thành viên của cộng đồng giai cấp, dân tộc, nhân loại, vừa là một thực thể
độc lập có nhân cách.
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nêu lên
3 tiền đề cơ bản để con người tham gia vào lịch sử của mình:


10
Thứ nhất, để tồn tại con người trước hết phải được thỏa mãn các nhu
cầu ăn, ở, mặc, sau đó mới là chính trị, khoa học, tơn giáo vv.... Chính con
người bằng hành vi lao động sản xuất, tự thực hiện để tồn tại. Trong lao động
hình thành các mối quan hệ xã hội, tạo thành xã hội. Nhờ lao động con người
hoàn thiện các tổ chức giác quan, phát triển ý thức cá nhân, ngơn ngữ, phát
triển hồn thiện năng lực phản ánh của chủ thể.
Thứ hai, sự thỏa mãn những nhu cầu đầu tiên dẫn đến sự mở rộng,

phát triển những nhu cầu mới. Nhu cầu mới nảy sinh là biểu hiện của quy luật
phát triển lịch sử, nó vừa là quy luật kinh tế, vừa là quy luật xã hội. Mỗi thời
đại, con người tự tạo ra một hệ thống các nhu cầu. Qua đó dựng lại chân dung
đời sống hiện thực và tâm lý của con người trong từng giai đoạn phát triển lịch sử.
Thứ ba, ngay từ đầu con người đã tham dự vào quá trình lịch sử. Hàng
ngày con người tái tạo ra đời sống của chính mình, đồng thời cịn tái tạo sinh
ra người khác. Con người trong quá trình tái tạo ra chính bản thân mình, bao
giờ cũng mang vào đó tất cả những yếu tố đạo đức tâm lý, văn hóa xã hội.
Những tiền đề trên của C.Mác và Ăng ghen về con người cho thấy con
người có bản chất xã hội, có tính lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử đã tạo ra một
mẫu hình con người với những đặc trưng riêng về lối sống, sinh hoạt, tâm lý,
nhân cách, trình độ nhận thức vv.... Điều đó cũng có nghĩa, theo C.Mác,
Ph.Ăng ghen khơng có con người - chủ thể nhận thức chung chung, trừu
tượng, phi lịch sử, phi xã hội, mà con người - chủ thể nhận thức, luôn tồn tại
trong những điều kiện, hoàn cảnh xã hội hiện thực cụ thể. Trong mỗi thời đại,
con người vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.
1.1.2. Khách thể nhận thức
Khách thể nhận thức - là đối tượng nằm trong miền hoạt động nhận
thức của chủ thể. Nó bao gồm giới tự nhiên, các lĩnh vực đời sống xã hội vv...


11
tồn tại và tác động qua lại với chủ thể nhận thức. Khách thể nhận thức khơng
phải là tồn bộ thế giới hiện thực, mà nó chỉ là một bộ phận nhất định của thế
giới hiện thực, đã và đang tác động qua lại với chủ thể nhận thức, tham gia
vào mối quan hệ với chủ thể và được đưa vào miền hoạt động nhận thức của
chủ thể nhận thức. Khách thể nhận thức không phụ thuộc vào chủ thể nhận
thức nhưng luôn nằm trong mối quan hệ biện chứng với chủ thể nhận thức.
Khách thể nhận thức luôn vận động, biến đổi và phát triển. Mỗi giai
đoạn phát triển của lịch sử xã hội lại đưa thêm những khách thể mới vào miền

hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể nhận thức. Như vậy,
khách thể nhận thức là tất cả những gì mà chủ thể nhận thức có mối quan hệ
biện chứng với nhau, chúng chỉ tồn tại với tư cách là chủ thể và khách thể khi
làm tiền đề tồn tại của nhau. Khách thể tồn tại không phụ thuộc vào chủ thể,
song khách thể không phải là mặt đối lập trừu tượng của chủ thể, mà chủ thể
ln tích cực cải tạo khách thể và hướng vào khách thể. Mặt khác, hoạt động
tích cực của chủ thể là điều kiện cho bộ phận này hay bộ phận khác của hiện
thực trở thành khách thể nhận thức của chủ thể nhận thức. Cơ sở của mối
quan hệ biện chứng này chính là hoạt động thực tiễn của con người.
Ngày nay, do sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc
biệt trong lĩnh vực thông tin, tin học, bằng hoạt động thực tiễn tác động trực
tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các cơng cụ, lồi người đã khơng ngừng mở
rộng phạm vi khách thể nhận thức của mình. Thơng qua hoạt động thực tiễn,
chủ thể nhận thức tác động vào khách thể buộc khách thể phải bộc lộ những
tính chất, những thuộc tính, quy luật từ đó chủ thể khái qt hóa thành hệ
thống lý luận phục vụ cho nhận thức của con người để cải tạo thế giới tự
nhiên và xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Để hiểu rõ
hơn khái niệm khách thể nhận thức chúng ta đặt nó trong tương quan so sánh
với các khái niệm" thực tại khách quan" và "đối tượng nhận thức".


12
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì "thực tại khách quan"
cụm từ mà V.I.Lênin dùng trong định nghĩa vật chất chỉ là để khái quát thuộc
tính chung nhất, phổ biến nhất của thế giới vật chất. Về vấn đề cơ bản của
nhận thức luận thì "thực tại khách quan" được hiểu là tất cả những gì tồn tại
độc lập, khách quan ở bên ngoài ý thức của con người và lồi người. Nó là cái
có trước, là tính thứ nhất, cịn ý thức là tính thứ hai, là thuộc tính của vật chất
tất nhiên khơng phải của bất kỳ dạng vật chất nào mà chỉ là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt là bộ óc người. Tuy nhiên

chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ thừa nhận sự đối lập giữa vật chất và ý thức
trong việc phân biệt vật chất là cái gì, trong quan hệ vật chất và ý thức thì cái
nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào. Ngoài ranh giới
của nhận thức đó thì sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tương đối. Bởi
vì, ý thức không thể tồn tại riêng biệt, độc lập, tách rời vật chất. Ý thức là
thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao, đó là bộ óc của con
người. Tuy nhiên, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
Khái niệm "đối tượng nhận thức" được hiểu như những mặt, những lĩnh
vực, những đặc tính, những quan hệ của các khách thể được nghiên cứu nhằm
một mục đích nhất định. Trong những điều kiện và những tình huống nhất
định chúng được ghi lại trong kinh nghiệm và được đưa vào trong quá trình
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người . "Đối tượng nhận
thức", thuộc về khách thể. Một khi hoạt động thực tiễn của con người tác
động vào khách thể, đặt ra tình huống có vấn đề thì một bộ phận, một lĩnh vực
nào đó của khách thể sẽ trở thành đối tượng nhận thức của chủ thể nhận thức.
Ở thời kỳ cổ đại do sản xuất chưa phát triển, khoa học kỹ thuật cịn ở
trình độ sơ khai, do đó triết học bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của tự nhiên
xã hội. Các nhà triết học đồng thời là các nhà toán học, thiên văn học, vật lý


13
học vv...Vì vậy, triết học được coi là khoa học của các khoa học, đứng trên
các khoa học. Khoa học trong thời gian này chỉ bó hẹp trong lĩnh vực cơ học,
toán học, thiên văn, hàng hải, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tưới tiêu, đi lại
trên biển, xây dựng lăng tẩm cho vua chúa. Từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ
XIX sản xuất tư bản phát triển, khoa học đi sâu nghiên cứu từng mặt, từng
lĩnh vực của tự nhiên và xã hội phục vụ cho sản xuất và đời sống con người.
Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, khoa học phát triển theo hướng chuyên môn hóa
sâu, các mơn khoa học tự nhiên và xã hội trở thành một tổng thể tổng hợp của

ngành tri thức phong phú mà mỗi ngành tri thức đó là một khoa học riêng
biệt. Đồng thời, do nhu cầu sản xuất và thực tiễn đặt ra tình huống mới phải
nghiên cứu đối tượng của những môn khoa học giáp ranh giữa Hóa - Sinh;
Hóa - Lý; Sinh học - Vật lý; Địa chất - Hóa học vv...Cùng với các khuynh
hướng nhất thể hóa các tri thức khoa học trở thành một lực lượng trí tuệ thống
nhất để nhận thức và cải tạo hiện thực.
Có thể nói, ranh giới và sự khác biệt các khái niệm "thực tại khách
quan"; "khách thể nhận thức" và "đối tượng nhận thức" cũng chỉ là tương đối
tùy thuộc vào các mối quan hệ và thời điểm lịch sử cụ thể. Chẳng hạn trong
mối quan hệ này khái niệm, phạm trù được xem là khách thể nhận thức, thì
trong mối quan hệ khác lại là đối tượng của nhận thức. Ví dụ "thực tại khách
quan" là phạm trù dùng để khái quát toàn bộ thế giới vật chất đối lập với ý
thức. Khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì nó lại trở thành
đối tượng của triết học. Hay ranh giới giữa chủ thể và khách thể nhận thức
cũng là tương đối. Ví dụ : con người với tư cách là chủ thể nhận thức, chủ thể
sáng tạo lịch sử, song con người và xã hội loài người lại là khách thể là đối
tượng nghiên cứu của các môn khoa học khác nhau như mỹ học, xã hội học, y
học, tâm lý học vv....
Có thể nói, việc tìm hiểu các khái niệm chủ thể nhận thức, khách thể


14
nhận thức cùng với mối quan hệ giữa khách thể, chủ thể, thực tại khách quan
và đối tượng của nhận thức và phát huy vai trò của họ trong học tập.
1.1.3. Sinh viên đại học - chủ thể nhận thức trong học tập
1.1.3.1. Đặc điểm tâm - sinh lý, xã hội của sinh viên đại học ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Sinh viên đại học ở nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào là một nhóm
xã hội đặc thù trong tầng lớp thanh niên, họ tồn tại đan xen trong các mối
quan hệ xã hội, giai cấp, dân tộc, đoàn thể.

Sinh viên đại học thường ở độ tuổi 17 - 18 đến 24 -25, một số ít sinh
viên ở độ tuổi 25 -30.
- Về sinh lý: ở độ tuổi 17 -25 hình thể đã đạt được sự hoàn chỉnh về cấu
trúc và phối hợp giữa các chức năng. Thời kỳ đầu của giai đoạn này, con
người đạt được 9/10 chiều cao và 2/3 trọng lượng của cơ thể trưởng thành. Bộ
não đã đạt được trọng lượng tối đa (khoảng 14.000 gram), số tế bào thần kinh
phát triển tương đối đầy đủ. Lứa tuổi này hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt
đến mức trưởng thành. Đang trong giai đoạn "dậy thì" các chức năng sinh sản
bắt đầu q trình hồn thiện. Giới tính phân biệt rõ và phát triển đầy đủ ở mỗi
giới cả về hình thể đến biểu hiện nội tiết tố.
- Về tâm lý: 17 -25 tuổi là thời kỳ phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi
sự nâng cao năng lực trí tuệ, biểu hiện rõ nhất ở khả năng tư duy sâu sắc và
mở rộng, có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn
hơn, cũng như có tiến bộ rõ rệt trong lập luận lơgíc, trong lĩnh hội tri thức, trí
tưởng tượng, sự chú ý và nghi ngờ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển khả
năng hình thành, ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đốn, nhu cầu hiểu biết
và học tập cao. Ở độ tuổi này sinh viên có tính nhạy bén cao, khả năng giải
thích và gắn ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính nhờ vào kinh nghiệm và tri


15
thức có trước đây.
Sự phát triển nói trên cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ
tạo khả năng cho lứa tuổi này biết cách lĩnh hội tối ưu tri thức và đó chính là
cơ sở vững chắc cho tồn bộ q trình học tập và nghiên cứu khoa học của mỗi sinh
viên.
Một trong những đặc trưng tâm lý quan trọng của lứa tuổi sinh viên là
sự phát triển tự ý thức. Tự ý thức có chức năng điều kiện để phát triển và hòa
thiện nhân cách, hướng nhân cách theo các yêu cầu mà xã hội đòi hỏi.
- Về mặt xã hội: Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về

đạo đức và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt là
họ có vai trị xã hội của người lớn. Người sinh viên đã có kế hoạch cho lao
động của riêng mình, độc lập trong phán đốn và hành vi, bắt đầu thể nghiệm
mình trong cuộc sống.
Vì ở độ tuổi sau trẻ em và bắt đầu thành người lớn, nên thế giới nội tâm
của họ là vô cùng phức tạp, phát triển nhân cách của sinh viên là một q
trình chuyển từ những u cầu bên ngồi thành nhu cầu của bản thân sinh
viên và là quá trình tự vận động và hoạt động tích cực của chính bản thân họ.
Những mâu thuẫn chính là:
+ Mâu thuẫn giữa ước mơ của người sinh viên với khả năng điều kiện
và kinh nghiệm để thực hiện ước mơ đó.
+ Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập chuyên sâu những mơn ưa thích
và u cầu thực hiện tồn bộ chương trình học tập do nhà trường quy định.
+ Mâu thuẫn giữa các khối lượng thông tin vô cùng phong phú với khả
năng điều kiện để phong phú với khả năng điều kiện để xử lý thông tin.
Về thái độ học tập của sinh viên thì có rất nhiều kiểu khác nhau. Có
sinh viên học chỉ vì nghề nghiệp mà khơng hề quan tâm đến các lĩnh vực tri


16
thức cũng như hoạt động xã hội khác. Họ luôn thực hiện bài tập theo yêu cầu
và chỉ cần đạt điểm trung bình. Ngồi sách bắt buộc phải đọc thì họ chỉ đọc
theo ý thích, khơng liên quan gì đến sự phát triển nghề nghiệp.
Có sinh viên lại thích các môn học mà họ coi là tri thức về cuộc sống
nói chung trên cơ sở lựa chọn riêng của mình. Họ quan tâm nhiều đến thế giới
tư tưởng và sách. Ngoài giờ học bắt buộc, họ tự nguyện tham gia các chuyên
đề tự chọn, những giờ phụ đạo, các buổi hòa nhạc....Họ muốn hiểu biết các
lĩnh vực mà họ quan tâm, họ luôn tham gia vào các tổ chức khoa học và né
tránh các tổ chức tập thể, các công việc xã hội không liên quan trực tiếp đến
việc học tập. Với những sinh viên này thì học tập thực sự là những khát khao

tri thức và kinh nghiệm sống.
Cũng có những sinh viên vừa ham thích sách vở và học tập, nhưng
vẫn tham gia các hình thức hoạt động và đời sống tập thể, họ cố gắng đạt
điểm cao trong các kỳ thi, coi hoạt động tập thể có ảnh hưởng tích cực đến
bản thân.
Có những sinh viên ln chú ý đến các hoạt động xã hội của nhà trường
và bản thân các khoa học. Họ gắn bó với trường và tham gia tích cực vào các
hoạt động bề nổi. Với họ thời sinh viên khơng có nghĩa chỉ là giảng đường,
mà cịn có các câu lạc bộ, các tổ chức sinh viên....Họ cũng cố gắng để có
"mảnh bằng", nhưng ít khi vượt q ngưỡng tối thiểu.
Ngồi những đặc điểm trên, ở vào tuổi của mình sinh viên thiếu
từng trải, thiếu kinh nghiệm và vốn sống hạn chế cho nên bên cạnh rất
nhiều ưu điểm thì sinh viên cịn bộc lộ những hạn chế khơng tránh khỏi do
khí chất của mình như: hấp tấp, vội vàng do muốn sớm khẳng định mình
nhưng lại thiếu kinh nghiệm sống. Tính tự phụ, bồng bột, chủ quan vì
muốn nhập cuộc để tự khẳng định mình nên thiếu kiềm chế, nhẹ dạ, cả tin,
gặp khó khăn là dễ hoang mang, dao động, dễ bị kích động, thiếu tự chủ


17
do hệ tim mạch và hệ thần kinh chưa ổn định. Khí chất của thanh niên
chưa cân bằng nên dễ bốc đồng và thường bị lợi dụng. Do đặc điểm về
tuổi tác của mình nên sinh viên thường tiếp thu thơng tin ít chọn lọc,
hướng tới các giá trị mới hiện đại nhưng lại nhanh quên quá khứ. Vì lẽ đó
mà trong q trình giảng dạy cho sinh viên bên cạnh việc giáo dục chun
mơn nghiệp vụ thì phải giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị và giá trị
truyền thống cho sinh viên.
Hiểu được đặc điểm tâm lý, xã hội của sinh viên, bản chất tốt đẹp, khả
năng cách mạng của tuổi trẻ cũng như những cách mạng của tuổi trẻ cũng như
những hạn chế của họ là một vấn đề rất quan trọng để có nhận thức đúng, có

thái độ đánh giá đúng và có quan điểm giáo dục, vận động, phát triển họ một
cách khoa học, hiệu quả và như vậy sẽ tạo ra những thành quả lớn trong sự
nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực góp phần vào thắng lợi chung của sự
nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước.
Sau hơn 20 năm đổi mới, do những biến đổi trong chính sách kinh tế xã hội và ngoại giao, kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự quản lý của nhà nước. Chính sách ngoại giao từ chỗ chỉ quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa là chủ yếu sang đa phương hóa, đa dạng hóa dẫn đến
sự thay đổi đáng kể trong thang giá trị và định hướng xã hội của thanh niên
sinh viên. Hiện nay thang giá trị và sự lựa chọn giá trị trong thanh niên - sinh
viên đã có sự thay đổi trên cả hai khía cạnh.
Thứ nhất: Sự biến đổi của chính các giá trị.
Hiện nay, một số các giá trị truyền thống đã được thay đổi về nội
dung như, những giá trị đề cao tinh thần hy sinh, xả thân vì nước, vì dân
trong thời kỳ chiến tranh đã được thay thế bằng nội dung mới là phải làm


18
tất cả những gì để dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Các giá trị về ý thức cộng đồng, về truyền thống đồn kết khơng chỉ
được quan niệm là hy sinh lợi ích của cá nhân mà cịn là sự kết hợp giữa
các lợi ích tập thể và các cá nhân, coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp
để phát triển kinh tế - xã hội. Trong lao động sản xuất không chỉ cần cù,
chịu khó mà cần phải lao động có tri thức khoa học, có lương tâm trách
nhiệm, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Trong cơ chế hiện nay,
địi hỏi con người phải khơng chỉ dám nghĩ, dám làm mà còn dám chịu
trách nhiệm, chấp nhận cạnh tranh, liên doanh liên kết với các cá nhân, các
tổ chức kinh tế dịch vụ trong nước và quốc tế.
Thứ hai: Sự thay đổi trật tự ưu tiên trong hệ thống giá trị.
Qua kết quả điều tra 300 sinh viên ở trường ĐHQG Lào, chúng tôi thấy

các giá trị sinh viên quan tâm nhất là:
Bảng 1.1. Sự biến đổi một số giá trị cơ bản của sinh viên
trường Đại học quốc gia Lào
STT

Các giá trị

Tỷ lệ (%)

1

Có việc làm và lập nghiệp

99

2

Có học vấn rộng và tư duy sáng tạo

85

3

Có cuộc sống gia đình hạnh phúc

83

4

Có nhu cầu mới, nếp sống văn minh


70

5

Có bản lĩnh, nhân cách cơng nhân

53

Nguồn: Qua điều tra khảo sát 300 sinh viên của trường Đại học Quốc
gia Lào tháng 3/2010.
Như vậy học để có việc làm, lập nghiệp, để có học vấn và tư duy sáng
tạo, có cuộc sống gia đình hạnh phúc là những giá trị được sinh viên ĐHQG
Lào ưu tiên thứ tự.
Như trên đã trình bày thì giá trị khơng hồn tồn là cái bất biến, mà nó


19
luôn biến đổi để phù hợp với điều kiện và hồn cảnh cụ thể. Sự biến đổi ở đây
khơng chỉ về nội dung mà còn về trật tự ưu tiên và xuất hiện thêm những giá
trị mới. Có sự biến đổi đó của các giá trị là do sự biến đổi của thực tiễn xã hội
và nhận thức của con người. Nền kinh tế - xã hội của chúng ta đang có sự
chuyển mình ghê gớm, tất yếu dẫn đến sự thay đổi của thang giá trị. Từ đó
dẫn đến việc chúng ta cần phải nhận thức, đánh giá và định hướng cho sinh
viên biết kết hợp một cách hài hòa giữa các giá trị, nhằm giảm thiểu những
lệch lạc, cực đoan trong việc lựa chọn của các em.
Qua kết quả điều tra xã hội học ở trường Đại học quốc gia Lào, chúng
tôi thấy thanh niên - sinh viên là những con người về thể chất đã đạt đến độ
trưởng thành khá hoàn chỉnh, là thời kỳ phát triển đầy đủ các tố chất của con
người Lào hiện đại. Sinh viên trường ĐHQG Lào khơng nằm ngịai xu hướng

chung của sinh viên cả nước trong quan niệm về trật tự ưu tiên các hệ thống
giá trị.
Trong thời bao cấp, các giá trị kinh tế như được sắp sẵn theo những
chuẩn mực khung bậc nhất định vì vậy sinh viên ít có khả năng cạnh tranh
vươn lên, thời kỳ đó học chủ yếu quan tâm tới các giá trị đạo đức tinh thần.
Còn ngày nay trong nền kinh tế thị trường các giá trị việc làm, sự lập nghiệp,
học vấn cao, tư duy sáng tạo được sinh viên quan tâm hàng đầu.
Từ những điểm trên đã phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rất rõ sinh
viên với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập là những người trẻ, với độ
tuổi 18 - 25 là lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, đầy ước mơ và khát vọng,
tuổi trẻ tương lai, với nghị lực tiềm tàng, tính năng động trong cuộc sống, là
một thế hệ hội đủ các tố chất: Yêu nước, thông minh, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm, có nghị lực, ham học tập để có việc làm và lập nghiệp.
1.1.3.2. Những biểu hiện đặc thù của sinh viên Đại học nước
CHDCND Lào với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập
Thứ nhất, sinh viên ở trường ĐHQG Lào có nguồn gốc xuất thân rất đa


20
dạng, từ nhiều gia đình (cơng nhân, tri thức, bộ đội, nơng dân) dân tộc; có
hồn cảnh sinh hoạt và điều kiện giáo dục khác nhau. Họ đến ĐHQG Lào học
tập từ những miền quê có truyền thống văn hóa gia đình điều kiện rất khác
nhau. Họ bao gồm nam nữ và là con em các bộ tộc Lào khác nhau. Do vậy,
ban đầu khi mới bước chân vào giảng đường đại học, họ cịn nhiều bỡ ngỡ.
Họ gặp khơng ít khó khăn trong cuộc sống tự lập, xa gia đình, người thân và
trong phương pháp học tập cũng như cách sinh hoạt. Họ phải làm quen với
đời sống tập thể đầy mới lạ. Cho nên những ngày đầu học tập ở trường đại
học, họ gặp khơng ít khó khăn.
Thứ hai, đa số họ đều là học sinh khá, giỏi trong các trường phổ thông
Trung học, được tuyển chọn kỹ lưỡng qua thời kỳ thi tuyển sinh ở tầm cỡ

quốc gia. Họ là đại biểu ưu tú, xuất sắc nhất về học tập trong tầng lớp thanh
niên. Với chất lượng như vậy nên sinh viên ở trường ĐHQG Lào năm 2008 2009 tỷ lệ lên lớp thẳng không phải thi lại môn nào là cao, đạt 70% tăng 8%
so với năm học trước. Tỷ lệ sinh viên đỗ tốt nghiệp là 98% [70, tr.8]
Thứ ba, sinh viên ở trường ĐHQG Lào tập trung chủ yếu vào học tập,
nghiên cứu khoa học, rèn luyện kỹ năng vận dụng tri thức khoa học vào thực
tiễn để có nghề nghiệp trong tương lai.
Thứ tư, Thủ đô Viêng chăn là trung tâm về mặt kinh tế, văn hóa, chính
trị, xã hội nhưng cũng là nền kinh tế thị trường tác động mạnh. Vì vậy, sinh
viên ĐHQG Lào khơng những có cơ hội học tập phấn đấu vươn lên; có điều
kiện tiếp thu những kiến thức mới hiện đại. Đồng thời họ cũng dễ bị tác động
của mặt trái kinh tế thị trường. Do vậy, đã có một số sinh viên ở trường
ĐHQG xa vào các tệ nạn xã hội.
Thứ năm, đa số sinh viên ở trong độ tuổi 18 đến 25, lứa tuổi đang
trưởng thành về thể chất: có lý tưởng, hồi bão, niềm tin và khát vọng hướng
tới tương lai, tích cực, sáng tạo, chủ động hướng tới những giá trị mới hiện


21
đại. Để chuẩn bị tri thức nghề nghiệp cho tương lai, nhiều sinh viên không
những nỗ lực học tốt chương trình của trường mình mà cịn tham gia, học
thêm ngoại ngữ, tin học và nhiều môn khác đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực
tiễn xã hội.
Động cơ học tập của sinh viên trường ĐHQG Lào hiện nay còn được
phản ánh qua động cơ chọn ngành nghề. Qua khảo sát 300 sinh viên trường
ĐHQG Lào cho thấy:
- 16% sinh viên chọn ngành nghề theo sở thích.
- 36% sinh viên chọn ngành nghề phù hợp với khả năng.
- 10% sinh viên chọn ngành nghề có kinh tế phát triển năng lực cá nhân.
- 13% sinh viên chọn ngành nghề có thu nhập cao.
- 18% sinh viên chọn ngành nghề mà xã hội cần.

- 5% sinh viên chọn ngành nghề đem lại sự thành đạt cho cá nhân.
Như vậy, có tới 75% số sinh viên ở trường ĐHQG Lào chọn ngành
nghề có động cơ đúng đắn, xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản thân, hồn
cảnh gia đình và xã hội, ít chạy theo ngành nghề có thu nhập cao nhưng
khơng phù hợp với khả năng, điều này tạo ra tâm lý yên tâm, ổn định, hứng
thú trong học tập. Đây là dấu hiệu tích cực trong lựa chọn ngành nghề của
sinh viên ĐHQG Lào.
Động cơ học tập của sinh viên ở trường ĐHQG Lào được thể hiện ở ý
thức học tập. Theo đánh giá của cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý thì 35%
sinh viên có ý thức học tập tích cực, 50% sinh viên có ý thức học tập bình
thường và 12% sinh viên có ý thức học tập kém.
Bên cạnh đại đa số sinh viên nhận thức được hồn cảnh của bản thân
điều kiện gia đình và tình hình chung của xã hội đã xác định được động cơ
học tập đúng đắn, thì cịn một số ít những sinh viên học đối phó, học cho qua.
Điều này do rất nhiều nguyên nhân: do điều kiện gia đình khó khăn mà một số


22
sinh viên phải đi làm thêm để kiếm sống, học thêm,....dẫn đến quỹ thời gian
học hẹp lại, họ buộc phải học tủ, học lệch chỉ tập trung vào các môn thi cử,
xuất hiện tình trạng sinh viên bỏ tiết, đi học muộn đối với những mơn học ít
quan tâm nghề nghiệp sau này nhưng lại rất quan trọng trong việc hình thành
thế giới quan, nhân cách, đạo đức như: Triết học, đạo đức học, xã hội
học,....dẫn đến một bộ phận nhỏ sinh viên ấy chất lượng học tập của họ chưa
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và yêu cầu mới về phát triển
nguồn nhân lực cho đất nước.
Có thể nói, nhận thức và động cơ học tập là yếu tố quyết định tinh
thần học tập của những sinh viên khi còn ngồi trên ghế các trường Đại học.
Phần lớn sinh viên ở trường ĐHQG Lào có tinh thần học tập chăm chỉ, tận
dụng hết thời gian và khả năng cho phép để học. Tinh thần học tập được thể

hiện cả hai mặt: Học tập trên lớp, dưới sự hướng dẫn của thầy cô và tự
nghiên cứu ngoài giờ. Trong số sinh viên được hỏi (300 sinh viên của
trường ĐHQG Lào) về tinh thần học tập trên lớp, thì có tới 45% có tinh
thần học tập tích cực, 40% đồng ý với ý kiến của các bạn tích cực, 10% cho
là có một số sinh viên qúa lười. Về thời gian tự học ở nhà, cò 25% sinh
viên trả lời học 5 tiếng trở lên trong 1 ngày, 50% học từ 2 – 4 tiếng, 20%
học từ 1-2 tiếng và hầu như không học chiếm 5%. Số sinh viên được hỏi
( theo điều tra 300 sinh viên ở trường ĐHQG Lào ).
Kết quả điều tra cho thấy, sinh viên ở trường ĐHQG Lào đã có cố gắng
học tập, mặc dù vẫn có những hiện tượng lãng phí thời gian và điều kiện học
tập… Số sinh viên học tập chưa nghiêm túc này là nguyên nhân của một số
trường hợp thi cử chưa nghiêm túc, cịn có hiện tượng vi phạm quy chế thi.
Điều này làm cho qúa trình đào tạo sẽ xuất hiện những sinh viên chỉ "dán mác
" bằng cấp mà khơng có nội dung tri thức.
Khi chúng tôi hỏi 300 sinh viên ở trường ĐHQG Lào có thấy bạn mình


23
làm những việc sau đây không:
- Mang tài liệu vào phịng thi: 35% sinh viên được hỏi trả lời có.
- Trao đổi với nhau khi làm bài: 50% được hỏi trả lời có.
- Sử dụng tài liệu trong khi làm bài thi: 15% được hỏi trả lời có. Điều
này cho thấy số sinh viên học tập thiếu tự giác, tích cực vẫn còn. Những hiện
tượng này gây tác động tiêu cực đến việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức
trong học tập của sinh viên ở ĐHQG Lào.
Sinh viên ở trường ĐHQG Lào cịn có những điểm khác với sinh viên
của các trường đại học khác là ngoài quan hệ với bạn bè trong tỉnh, trong
nước thì họ cịn nhiệm vụ giao tiếp, quan hệ giúp đỡ sinh viên quốc tế từ nước
Việt Nam , Trung Quốc và Cămpuchia giúp họ giao tiếp với những người
xung quanh và giúp đỡ họ khi gặp những khó khăn, trở ngại trong học tập và

trong cuộc sống.
1.1.4. Thực chất của việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong
học tập của sinh viên ở ĐHQG Lào hiện nay
Trong cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tích cực thì đâu đó, trong
các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội vẫn tồn tại những tiêu cực đó len lỏi
trong tất cả các mặt, các lĩnh vực trong đó có cả trong giáo dục và đào tạo.
Trong những năm qua giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói
riêng vẫn cịn nhiều hạn chế, đặc biệt chất lượng dạy và học vẫn chưa đáp ứng
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Sinh viên ra trường với chất lượng, đặc
biệt là kiến thức thực hành còn thấp. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo đại học nói riêng là vấn đề cấp thiết, là vấn đề mà toàn Đảng toàn dân
mong đợi.
Vậy vai trị chủ thể nhận thức trong học tập là gì? Làm thế nào để phát
huy nó. Trước hết ta phải tìm hiểu quá trình dạy và học là gì?
Học là một hoạt động với đối tượng trong đó học sinh, sinh viên là chủ


24
thể, tri thức khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Học là q trình tự giác, tích
cực chiếm lĩnh tri thức khoa học là mục đích của việc học, quá trình này được
thực hiện từng bước như sau:
Trước hết học sinh, sinh viên phải nắm vững nghĩa, đào sâu ý chứa
đựng trong các khái niệm, các tri thức khoa học đó trong bản thân, và phải
thao tác với nó, sử dụng nó giống như một cơng cụ, một phương pháp để
chiếm lĩnh thêm các khái niệm và tri thức khoa học khác hoặc để mở rộng,
đáo sâu, nâng cao thêm chính xác khái niệm, tri thức đó ở trình độ lý thuyết
cao hơn.
Khi đã chiếm lĩnh được khái niệm, các tri thức khoa học thì người học
sẽ biến chúng từ trong kho tàng tri thức xã hội thành học vấn của riêng mình.
Từ đó hình thành cho mình một thái độ mới trong việc đánh giá các giá trị

tinh thần và vật chất của thế giới khách quan. Như vậy, khi thực hiện thành
cơng q trình chiếm lĩnh khái niệm tri thức khoa học thì người học sẽ thực
hiện được ba mục đích: Nắm vững khái niệm, tri thức, phát triển tư duy lý
luận và giáo dục đạo đức. Ba mục đích này khơng tách biệt nhau mà chúng
gắn bó, thâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau.
Về cấu trúc của việc học có hai chức năng thống nhất với nhau. Ngồi
việc lĩnh hội, tiếp thu thơng tin dạy của thầy thì quá trình tự điều khiển để
chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học của người học sinh, sinh viên (tự giác,
tính cực, tự lực) là rất quan trọng.
Nội dung của học chính là nội dung của việc chiếm lĩnh các khái niệm,
các tri thức khoa học. Điều quan trọng của việc chiếm lĩnh nội dung của khoa
học, của các tri thức khoa học và lĩnh hội phương pháp kiến tạo nên các khái
niệm từ đó rút ra phương pháp nhận thức khoa học nói chung.
Ngồi ra việc chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học, người học cịn
phải nắm vững q trình phát triển lơgíc của khái niệm, của tri thức khoa học.


25
Bởi vì, khái niệm khoa học ln vận động, biến đổi và phát triển cùng sự vận
động, phát triển của thực tiễn.
Tóm lại, nội dung của học là một nguyên lý khái niệm của mơn học,
cấu trúc lơgíc của mơn học đó, các phương pháp đặc trưng của khoa học,
ngơn ngữ của khoa học đó và biết ứng dụng những hiểu biết đã có vào việc
học tập và lao động của mình. Từ đó hình thành khái niệm mới, tri thức mới
nhưng đối với bản thân học sinh, sinh viên đó là phương pháp chiếm lĩnh khái
niệm khoa học. Như vậy, sinh viên học có nghĩa là nhận thức phương pháp
học cũng là những phương pháp nhận thức.
Muốn học tốt thì cần phải thống nhất giữa mục đích, nội dung và
phương pháp học. Đó là điều kiện tối ưu quá trình chiếm lĩnh khoa học trên
cơ sở điều khiển và hướng dẫn của người dạy.

Dạy - là quá trình điều khiển, tối ưu hóa q trình học sinh, sinh viên
chiếm lĩnh khái niệm khoa học, tri thức khoa học nhằm hình thành và phát
triển nhân cách cho người học. Dạy có mục đích là điều khiển sự học tập của
học sinh, sinh viên.
Dạy có hai chức năng tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh
thành ra nhau, đó là truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động học của
người học.
Sơ đồ 1.1: Quá trình dạy học
Khái niệm khoa học,
tri thức khoa học

Dạy

Học

Truyền đạt

Cộng

Điều khiển

Tác

Lĩnh hội
Tự điều
khiển


×