Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ ở tổng cục chính trị bộ quốc phòng nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.17 KB, 91 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [4, tr 269, 273].
Do đó, sau khi có đường lối đúng, cán bộ là nhân tố có ý nghĩa quyết định
trực tiếp sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ. Song mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng cần có một
đội ngũ cán bộ thích ứng, có phẩm chất, có năng lực đáp ứng được sự đòi hỏi
của nhiệm vụ trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Để thực hiện nhiệm vụ to lớn nói trên, vấn đề củng cố, kiện tồn hệ
thống chính trị ở cơ sở từng bước xây dựng và hoàn thiện, phát triển về số
lượng, nâng cao về chất lượng đội ngũ cán bộ ở Bộ Quốc phòng nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) trong đó đặc biệt quan tâm đến
cán bộ ở Tổng cục Chính trị có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất, nhất là trình
độ lý luận chính trị có ý nghĩa rất quan trọng.
Qua thực tế ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng nước CHDCND
Lào cho thấy: đội ngũ cán bộ của Bộ Quốc phòng khi tái lập bị hẫng hụt ở cả
ba cấp, đặc biệt là cấp Tổng cục Chính trị. Những năm gần đây cán bộ cấp
Tổng cục Chính trị đã được củng cố, tăng cường về nhiều mặt, nhìn chung
phần đông lớn tuổi, trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến, có phẩm chất
chính trị, đạo đức tốt, nhưng trình độ năng lực còn yếu, tâm lý ỷ lại còn nặng,
nhất là cán bộ chủ chốt, do đó chuyển sang cơ chế mới năng lực lãnh đạo,
điều hành còn nhiều bất cập. Mặt khác việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán
bộ dự nguồn có tính chiến lược lâu dài chưa được chuẩn bị chu đáo. Hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở cịn yếu kém, năng lực triển khai các
chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cịn hạn


2
chế làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính vì vậy, việc


nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp cụ thể thiết thực nhằm
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở Tổng cục Chính trị có
ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm góp phần đẩy
nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho cán bộ ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng nước Cộng
hịa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu góp
phần tìm ra giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ Bộ Quốc
phịng nói chung, Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng nước CHDCND Lào
nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị được xác định là
trọng tâm trong công tác tư tưởng của Đảng. Đây cũng là vấn đề thu hút được
sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của
nhiều tác giả đề cập ở nhiều góc độ khác nhau với những hình thức thể hiện
khác nhau được đăng tải trên sách, báo, tạp chí cả trung ương và địa phương,
có nội dung liên quan đến đề tài này. Đó là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả
tham khảo, kế thừa trong q trình nghiên cứu hồn thiện luận văn của mình
như: “Quan hệ giữa lý luận và chính trị” của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí
Cộng sản, số 8, 1992; “Tổng kết thực tiễn - một nhiệm vụ trọng yếu của công
tác lý luận hiện nay” của Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Cộng sản, số 15, 2002;
“Góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị
trong thời kỳ đổi mới” của Trần Khắc Việt, Lý luận chính trị, số 8, 2006;
“Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp xã người dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay (qua thực tế tỉnh Kon Tum)” của Quách


3
Thị Minh Thúy, Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2008; “Nâng cao trình độ lý luận

chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên
trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Lê, Luận văn Thạc sĩ Triết
học, 2004; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay” của Cao Thị Hà, Luận văn Thạc sĩ Triết
học, 2009.
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ
bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để
nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ ở cấp này, cấp khác. Tuy nhiên, do giới
hạn về mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu phạm vi nghiên cứu, nên cho tới nay
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ có hệ thống và
chuyên sâu về thực trạng cũng như nêu ra những giải pháp để nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho cán bộ ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng. Vì vậy,
nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ ở Tổng cục Chính trị trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Bộ Quốc phịng từng bước góp phần khắc phục tình trạng đội
ngũ cán bộ ở cơ sở vừa thiếu lại vừa yếu như hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khi bàn về lý luận chính trị, tác giả khơng đi sâu vào vấn đề lý luận
chính trị nói chung, mà chỉ đi sâu phân tích làm sáng tỏ bản chất, vai trị của
lý luận Mác - Lênin đối với cán bộ ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng nước
CHDCND Lào.
Nghiên cứu việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ ở
Tổng cục Chính trị là vấn đề lớn gồm nhiều nội dung về cán bộ ở Tổng cục
Chính trị gồm nhiều chức danh. Nhưng trong khn khổ có hạn, luận văn chỉ
tập trung nghiên cứu việc nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ ở


4
Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng với một số chức danh chủ chốt từ cấp
đại úy trở lên.

4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở làm rõ bản chất, đặc trưng, vai trò của lý luận chính trị,
cũng như đánh giá đúng thực trạng về trình độ lý luận chính trị của đội ngũ
cán bộ ở Tổng Chính trị Bộ Quốc phịng nước CHDCND Lào, luận văn đề
xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ
này nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
- Nhiệm vụ
+ Làm rõ vai trò của lý luận chính trị đối với hoạt động lãnh đạo, quản
lý của cán bộ ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng nước CHDCND Lào.
+ Phân tích thực trạng trình độ lý luận chính trị của cán bộ ở Tổng cục
Chính trị Bộ Quốc phịng nước CHDCND Lào hiện nay. Từ đó chỉ ra nguyên
nhân của những kết quả đã đạt được và những hạn chế của nó.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho cán bộ ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng nước CHDCND
Lào giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (NDCM
Lào) về giáo dục và đào tạo nói chung, về giáo dục lý luận chính trị nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp khoa học cụ thể như:


5
phân tích, tổng hợp, thống kê, trừu tượng và cụ thể, lôgic lịch sử, điều tra xã
hội học nhằm đạt tới mục đích mà luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn

- Đóng góp mới về khoa học
+ Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trị của lý luận chính trị đối với
cán bộ ở Bộ Quốc phịng nói chung, đặc biệt là đối với việc nâng cao trình độ
lý luận chính trị cho cán bộ ở Tổng cục Chính trị nói riêng.
+ Luận văn chỉ ra nét đặc thù xã hội và sự cần thiết phải nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng
nước CHDCND Lào. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho họ nhằm góp phần thực hiện nghị quyết của Đảng.
- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
+ Luận văn góp phần làm rõ hơn vai trò và những nét đặc thù của việc
cần phải nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ ở Tổng cục Chính trị
Bộ Quốc phịng nước CHDCND Lào.
+ Là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến lược; kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phịng nước CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


6
Chương 1
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ Ở TỔNG CỤC
CHÍNH TRỊ BỘ QUỐC PHỊNG NƯỚC CỘNG HỊA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
1.1. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

1.1.1. Bản chất của lý luận chính trị
Lịch sử phát triển của xã hội lồi người đã chứng minh rằng: Khi xã hội

phân chia thành giai cấp, giai cấp nào, Đảng nào muốn giữ được địa vị thống
trị xã hội thì trước hết cũng đều phải chăm lo nâng cao trình độ trí tuệ, trình
độ lý luận cho giai cấp và chính Đảng của nó. Đúng như V. I. Lênin đã khẳng
định: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn, thì mới có khả
năng làm trịn vai trị chiến sỹ tiền phong” [7, tr 32]. Do đó, khi nói đến Đảng
chính trị là đồng thời nói đến hệ thống lý luận chính trị của Đảng ấy. Vậy lý
luận chính trị là gì? Để hiểu bản chất của lý luận chính trị, trước hết cần phải
tìm hiểu một số khái niệm có liên quan.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận. Theo tiếng Hi Lạp
“Theorie” với nghĩa sơ khai của nó là quan sát, nghiên cứu. Trong từ điển triết
học định nghĩa: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích
luỹ được trong quá trình lịch sử”; là: “hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một
lĩnh vực tri thức” [23, tr 526]. Từ điển tiếng Việt viết: “Lý luận là hệ thống
những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo
thực tiễn. Lý luận là những kiến thức được khái quát và hệ thống hoá trong
một lĩnh vực nào đó” [6, tr 544 - 545].
Cùng với sự phát triển của xã hội, của tri thức con người, khái niệm lý
luận càng ngày càng được hiểu đầy đủ hơn. Ngày nay, lý luận được hiểu là
một tổng hợp các khái niệm, phạm trù quy luật được khái quát từ việc đúc rút
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của con người, từ nhận thức chủ quan của


7
con người đối với những hiện tượng khách quan của thế giới tự nhiên của nó.
Nói cách khác, lý luận là hệ thống các quan điểm, tư tưởng đã được khái quát
từ thực tiễn, từ thế giới khách quan [21, tr 54].
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln coi trọng lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tâm đắc với câu nói
nổi tiếng của V. I. Lênin: “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong
trào cách mạng”. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra định nghĩa về lý luận

như sau: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội đã tích trữ lại trong quá trình lịch sử”
[20, tr 497]. Đây là một định nghĩa khoa học, hồn tồn chính xác và đầy đủ
về lý luận. Định nghĩa đó khơng những làm sáng tỏ quan niệm triết học về lý
luận mà còn làm sáng tỏ nguồn gốc, cách thức hình thành lý luận. Như vậy, lý
luận được hình thành từ thực tiễn, trên cơ sở khái quát những kinh nghiệm
của hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của con người.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận, nhưng đều thống
nhất ở chỗ: Lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng
hợp các tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt động
lịch sử của con người; là phản ánh bản chất, tính quy luật của các sự vật hiện
tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trị
hướng dẫn hoạt động thực tiễn.
Thật vậy, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người buộc
phải khám phá, tìm hiểu, nhận thức về thế giới. Nhưng những tri thức về thế
giới khơng có sẵn, mà phải thơng qua hoạt động thực tiễn con người mới có
nhận thức và hiểu biết về thế giới.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận
thức chúng. Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh


8
nghiệm; sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu
tượng hoá… để xây dựng thành lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật
vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Con người quan hệ với thế
giới bắt đầu không phải bằng lý luận, mà bằng thực tiễn. Chính trong q
trình hoạt động thực tiễn, cải tiến thế giới mà nhận thức, lý luận của con
người mới được hình thành và phát triển. Lý luận là cấp độ phát triển cao của
quá trình nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan ở trình độ cao.

Có thể phân chia tri thức đạt được thành hai cấp độ, trình độ khác nhau
là tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
Tri thức kinh nghiệm, là tri thức chủ yếu thu được từ quan sát và thí
nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn: từ lao
động sản xuất, đến đấu tranh xã hội hoặc thực nghiệm khoa học. Tri thức kinh
nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu
nhận được từ quan sát và thực nghiệm. Nhưng tri thức kinh nghiệm giữ vai trị
khơng thể thiếu được trong cuộc sống của con người, trong quá trình con
người nhận thức và cải tạo thế giới. Tri thức kinh nghiệm giúp cho con
người điều chỉnh hành vi và có những quyết sách đúng đắn tuỳ thuộc vào
từng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, quá trình nhận thức của
con người nếu chỉ dừng lại ở tri thức kinh nghiệm thì chưa đủ. Bởi vì, mặc
dù có vai trò quan trọng nhưng tri thức kinh nghiệm chưa phản ánh được bản
chất, tính quy luật của sự vật hiện tượng, mà nó mới chỉ dừng lại ở sự khái
quát và trừu tượng ban đầu, riêng lẻ, bề ngoài. Tri thức kinh nghiệm chưa
mang tính hệ thống, lơgic, chặt chẽ. Chính vì vậy, ở trình độ tri thức kinh
nghiệm, sự vật hiện tượng được phản ánh chưa đầy đủ, chưa thể nắm được
cái tất yếu sâu sắc nhất, vì vậy, độ tin cậy mà tri thức kinh nghiệm đem đến
chưa cao. Khi nhận xét về tri thức kinh nghiệm, Ph.Ăngghen cũng đã viết:


9
“Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh
được đầy đủ tính tất yếu” [14, tr 718].
Chúng ta không xem nhẹ, coi thường cũng như khơng tuyệt đối hố tri
thức kinh nghiệm. Nhận thức của con người không thể chỉ dừng lại ở kinh
nghiệm, mà phải được phát triển sang một trình độ mới hơn, sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn, bản chất hơn. Đó là trình độ tri thức lý luận.
Tri thức lý luận, là tri thức khái quát từ những tri thức kinh nghiệm và
được nâng lên ở trình độ cao hơn, vượt ra ngoài những giới hạn của tri thức

kinh nghiệm. Tri thức lý luận phản ánh bản chất, mối liên hệ bên trong mang
tính quy luật của các sự vật hiện tượng. Nhờ có tính trừu tượng và tính khái
qt cao, nên nhận thức ở trình độ tri thức lý luận mang lại sự hiểu biết sâu
sắc, đầy đủ về bản chất, quy luật vận động và phát triển của hiện thực. Do đó,
phạm vi ứng dụng của tri thức lý luận rộng hơn, phổ biến hơn tri thức kinh
nghiệm. Đặc biệt, là tri thức lý luận có vai trị quan trọng trong hướng dẫn và
chỉ đạo hoạt động của con người. Tri thức lý luận giúp cho con người chủ
động, tự giác, hạn chế và tránh được tình trạng mò mẫm, tự phát trong nhận
thức cũng như trong hành động: “khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi” [18, tr 234].
Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai giai đoạn kế tiếp nhau,
hai trình độ khác nhau của quá trình nhận thức. Mặc dù có những điểm khác
nhau nhưng đồng thời lại thống nhất với nhau, quan hệ chặt chẽ và có sự tác
động lẫn nhau, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Tri thức lý luận có liên hệ
trực tiếp hoặc gián tiếp với tri thức kinh nghiệm, dựa trên cơ sở những tài liệu
mà tri thức kinh nghiệm đem lại. Nhờ các thao tác của tư duy trừu tượng hoá,
khái quát hoá… con người xây dựng, bổ sung, phát triển lý luận. Mục đích
của tri thức khoa học khơng phải là những kinh nghiệm mà là những lý luận.


10
Khi đã tích luỹ được những tài liệu kinh nghiệm, thì cần phải có sự tổng kết,
hệ thống hố, hồn thiện, phát triển lý luận nhằm đưa khoa học tiến xa hơn.
Tri thức lý luận được hình thành từ sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm
thực tiễn thông qua các thao tác của tư duy cho nên nó có thể phản ánh chính
xác hoặc khơng chính xác thực tiễn. Điều đó địi hỏi tri thức lý luận phải ln
ln được kiểm nghiệm lại trong thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện hơn. Tri
thức lý luận một khi đã hình thành, nó có tính độc lập tương đối. Nó có thể đi
trước những dữ kiện của kinh nghiệm, tác động trở lại thực tiễn, hướng dẫn,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý luận có thể dự báo, dự đốn tương lai, giữ vai

trò làm kim chỉ nam soi đường cho thực tiễn, định hướng hoạt động thực tiễn
của con người đạt hiệu quả cao. Nhưng dù sao, kinh nghiệm vẫn thường là
nguồn gốc đầu tiên của tri thức lý luận mới. Khơng có tri thức kinh nghiệm
thì khơng thể có tri thức lý luận.
Như vậy, tri thức kinh nghiệm là nguồn gốc, là cơ sở, là căn cứ để hình
thành, xây dựng và phát triển tri thức lý luận. Lý luận càng chính xác, càng
khoa học hơn nếu được xây dựng trên nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Lý luận
chân chính là “đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc
tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem
nó chứng minh với thực tế” [18, tr 233].
Lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất, là hệ thống những tri thức
phản ánh các mối liên hệ bản chất và tính quy luật của các sự vật hiện tượng,
được con người tích luỹ trong q trình hoạt động thực tiễn và có vai trị
hướng dẫn hoạt động thực tiễn.
Lý luận ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể khác nhau đều phải có lý luận riêng, và mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu
bằng việc phát triển lý luận. Có lý luận trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, lý


11
luận trong lĩnh vực khoa học xã hội, lý luận trong lĩnh vực văn học nghệ
thuật, lý luận trong lĩnh vực kinh tế, lý luận trong lĩnh vực chính trị (lý luận
chính trị)…
Vậy, lý luận chính trị là gì? Lịch sử loài người đã chứng minh rằng, sự
thay đổi trong lĩnh vực chính trị là nguyên nhân sâu xa của những bước thăng
trầm trong lịch sử nhân loại. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Chủ
trương là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia giai
cấp và hình thành nhà nước.
Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Nó cũng

là lĩnh vực hoạt động phức tạp và luôn thu hút các nhà tư tưởng đi vào suy
nghĩ, khám phá, cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị. Do đó,
để trả lời câu hỏi: “Chính trị là gì?”, đến nay bằng nhiều cách tiếp cận khác
nhau, nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về chính trị.
Chính trị, theo tiếng Hi Lạp là “Politics” có nghĩa là những cơng việc
liên quan đến thành bang, những cơng việc quốc gia. Trong đó điều cốt lõi
nhất, quan trọng nhất, thực chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị hay là Chính
phủ. Sau này từ thế kỷ XVI trở đi gọi là Nhà nước [2, tr 7].
Trong suốt thời kỳ cổ đại, cho đến thời kỳ trung và cận đại, các nhà tư
tưởng phương Tây ln cố gắng đi tìm một hình thức chính phủ, hình thức cai
trị, hình thức nhà nước hợp lý nhất. “Chính trị – theo nguyên nghĩa của nó, là
những cơng việc nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai
cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [1, tr 507].
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định chính trị với nghĩa là cơng
việc nhà nước, định hướng nhà nước. Do đó “chính trị là sự tham gia vào
công việc nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định
hình thức, nhiệm vụ, nội dung của nhà nước” [10, tr 404]. Hơn nữa, chính trị


12
là mối quan hệ giữa các giai cấp, là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực
thi quyền lực nhà nước và suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V. I. Lênin
nêu ra một nguyên tắc cơ bản trong chính trị mà những người cộng sản phải
quán triệt, và đó cũng chính là bản chất của chính trị là: “Chính trị là sự biểu
hiện tập trung của kinh tế” [14, tr 349]. Có nghĩa là, chính trị do kinh tế quyết
định. Các tổ chức chính trị, các hình thức nhà nước muốn tồn tại và phát triển
phải dựa trên một cơ sở kinh tế của xã hội. Có thể nói, kinh tế là nguồn gốc, là
cơ sở của chính trị. Chế độ chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng và phải thích
ứng với cơ sở kinh tế. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh

tế thì sẽ giữ địa vị thống trị xã hội về chính trị.
Sự tồn vong của một chế độ chính trị khơng phụ thuộc trực tiếp vào tài
năng và ý chí của bản thân người cầm quyền nhà nước cụ thể, mà suy cho
cùng, nó bị quy định bởi kinh tế. “Chính trị có tính lơgic khách quan của nó,
khơng thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng
này hay của đảng khác” [8, tr 246].
Là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị khơng phải là “bản
sao”, khơng phải là biểu hiện thụ động, không phải là “cái gương soi” của
kinh tế. Ngược lại, chính trị có tính độc lập của nó và tác động trở lại mạnh
mẽ đến kinh tế. Nó định hướng cho sự phát triển, lựa chọn các mơ hình và
điều tiết sự phát triển của kinh tế. Chính trị thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển
của kinh tế, thâm nhập và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì lẽ đó,
V. I. Lênin đã khẳng định: Chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí ưu tiên so
với kinh tế. Ưu tiên cho chính trị, là ưu tiên cho việc giành lấy quyền lực
chính trị và cho xây dựng các quyết sách chính trị đúng. Kinh tế phát triển
phải thơng qua chính trị, thơng qua hệ thống đường lối, chính sách luật pháp,
quyền lực nhà nước, và giai cấp nào muốn lãnh đạo kinh tế phát triển, đạt mục
tiêu, lợi ích đề ra thì khơng được sai lầm về chính trị. Chính trị phục vụ cho


13
lợi ích của giai cấp thống trị, đồng thời ln tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư
tưởng chính trị của giai cấp cầm quyền. Chính trị là một lĩnh vực tinh tế, phức
tạp và nhạy bén. Chính trị mang trong nó yếu tố năng đồn đặc biệt và khơng
có một cơng thức, cách thức chung duy nhất nào. Chính trị không phải là con
đường thẳng, thuận lợi, dễ đi. V. I. Lênin cho rằng: “Chính trị giống đại số
hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn là tốn học sơ cấp”, “Chính trị
là vận mệnh thực tế của hàng triệu con người” [11, tr 150].
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người, nó có quan
hệ chặt chẽ với hoạt động thực tiễn của con người, biểu hiện lợi ích kinh tế

nhất định của các tầng lớp dân cư trong xã hội, gắn liền với vận mệnh của
nhân dân. Chính trị được đưa vào thực tiễn cuộc sống nhờ hệ thống thiết chế
chính trị, đảng phái chính trị, nhà nước và tổ chức chính trị – xã hội.
Tuỳ theo cách tiếp cận mà có những quan niệm khác nhau về chính trị,
song theo nghĩa chung nhất, chính trị được hiểu là đại diện của các quan hệ
giữa các giai cấp, quan hệ về giai cấp mà cốt lõi là quan hệ giai cấp về kinh
tế. Mục đích của chính trị là vấn đề chính quyền sẽ thuộc về tay giai cấp nào,
chính đảng nào.
Từ sự phân tích nêu trên về khái niệm lý luận và khái niệm chính trị, có
thể khái qt chung về khái niệm lý luận chính trị như sau: Lý luận chính trị
là lý luận trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai
cấp và đấu tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một đảng, một giai cấp
nhất định trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách của một đảng, một giai cấp để giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước.
Như thế, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là lý luận chính trị
của giai cấp vô sản. Hơn thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở
thành hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản và chính đảng của nó - Đảng Cộng sản.


14
Đảng NDCM Lào lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống tốt đẹp của
Đảng làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.
Đồng thời, căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong
từng giai đoạn cách mạng, Đảng xác định cho mình những quan điểm cơ bản
chỉ đạo hành động và lãnh đạo quần chúng, xây dựng nên một hệ thống quan
điểm tư tưởng, lý luận là những chủ trương, đường lối, chính sách…
Trong bài phát biểu của ơng Khăm Tay SỈ PHĂN ĐON, tại Đại hội
Cán bộ Toàn quốc: “Việc nâng cao trình độ lý luận chính trị là việc giáo
dục, thử nghiệm đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phạm vi quản lý của

mình, làm cho họ có nhận thức, cảnh giác về chính trị, có tinh thần yêu
nước và có lý tưởng đúng đắn để kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng
một cách đồng đều bằng việc coi việc bồi dưỡng - đào tạo cán bộ về chính
trị - tư tưởng, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cách
mạng, tinh thần yêu nước, tinh thần tự lực tự cường và coi việc đào tạo cán
bộ là quá trình lâu dài”. [31, tr 115].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng - lý luận của Đảng, làm kim chỉ nam cho
hành động của Đảng” [35, tr 12].
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng NDCM Lào
hiện nay, lý luận chính trị của Đảng bao gồm: lý luận về chủ nghĩa xã hội
(CNXH), về con đường đi lên CNXH ở Lào; về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); về giai cấp, đặc biệt là giai cấp công nhân
và đấu tranh giai cấp; về xây dựng nhà nước, xây dựng Đảng trong điều kiện
hiện nay của Lào.
Do đó, có thể hiểu bản chất lý luận chính trị của Đảng NDCM Lào hiện
nay là: Chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.


15
Học tập lý luận chính trị, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị là nhằm:
“Xây dựng, phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm
đường lối của Đảng, hình thành hệ giá trị cách mạng và khoa học trong cán
bộ, đảng viên và toàn xã hội” [5, tr 2].
Trong nhận thức cũng như trong hành động, Đảng NDCM Lào chủ
trương kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho mọi hành động của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lênin, là hệ tư tưởng đúng
đắn nhất đã dẫn dắt nhân dân các bộ tộc Lào tiến hành thắng lợi các nhiệm
vụ cách mạng mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn, đó là đánh thắng hai

tên đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ; giải phóng đất nước, độc lập dân tộc đi
lên CNXH.
Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Bác Hồ đã từng nói: Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Đảng mà khơng có chủ nghĩa
cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Và Người
khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [17, tr
268].
Ngay từ khi ra đời, Đảng NDCM Lào đã nắm vững, kiên định, vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, và đã đưa ra được những chủ trương, đường
lối, chính sách phát triển đất nước đúng đắn, hợp lịng dân, từng bước xây
dựng, hồn chỉnh đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước vượt qua được
những khó khăn, thử thách và phát triển ngày càng mạnh mẽ, vững chắc.
1.1.2. Đặc trưng của lý luận chính trị
1.1.2.1. Lý luận chính trị mang tính trừu tượng hố và tính khái qt
hố cao
Để xây dựng hệ thống lý luận, trong nhận thức, tư duy con người luôn
diễn ra qua q trình trừu tượng hố, khái qt hố những tri thức thu được về


16
thế giới, những quy luật vận động và phát triển của các lĩnh vực khác nhau
trong đời sống xã hội.
Các hình thức thể hiện của lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng
như khái niệm, ngun lý, quy luật, phạm trù… đều là kết quả của quá trình
trừu tượng hoá, khái quát hoá cao của tư duy con người trong q trình nhận
thức thế giới.
Nhờ có đặc trưng trừu tượng hoá, lý luận hướng con người vào việc tìm
ra chân lý, nắm bắt những mối liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện
ra các quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong

thế giới. Khái quát hoá giúp cho con người xây dựng các khái niệm, phạm trù,
từ đó xây dựng nên các lý thuyết khoa học. Khái quát hố được thực hiện trên
cơ sở một số thuộc tính, đặc tính quan trọng nào đó đã được tư duy trừu tượng
tách ra khỏi những thuộc tính đã được trừu tượng hoá, tư duy đi đến khái quát
thành cái chung bản chất, mang tính quy luật.
Trừu tượng hố, khái qt hố là hai q trình có mối liên hệ chặt chẽ
không thể tách rời, chúng xâm nhập lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Thông qua
các thao tác này của tư duy mà con người có được tri thức về mối liên hệ bản
chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Mang đặc trưng tính trừu tượng hố và tính khái qt hố cao nên lý
luận, lý luận chính trị, là hệ thống tri thức đem lại cho con người sự hiểu biết
sâu sắc về bản chất, tính quy luật các mối liên hệ tất nhiên… trong sự vận
động và phát triển của sự vật hiện tượng, và do đó giúp cho con người có thể
tiếp cận bản chất sâu xa của sự vật vốn thường bị che lấp bởi các hiện tượng
ngẫu nhiên, đơn lẻ, bề ngồi; giúp cho con người khơng ngừng khám phá thế
giới, đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra.
1.1.2.2. Tính chính xác và lơgic chặt chẽ


17
Tính thống nhất chặt chẽ về lơgic với tính chính xác và độ tin cậy cao
của lý luận khoa học nói chung, lý luận chính trị nói riêng thể hiện ở chỗ là
các khái niệm, nguyên lý, quy luật, phạm trù… phản ánh các mặt, các yếu tố,
các quá trình… khác nhau của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách
quan, nhưng chúng có mối liên hệ, quan hệ biệt chứng, hỗ trợ, bổ sung cho
nhau. Do đó, một lý luận trong đó có lý luận chính trị, muốn trở thành lý luận
khoa học phải là một hệ thống mang tính chỉnh thể, tồn vẹn, thống nhất,
khơng thể là sự tuỳ tiện, chắp vá, cắt xén, với khả năng phản ánh chính xác sự
vật hiện tượng như nó đã hình thành, tồn tại, vận động, phát triển; dự báo
được xu hướng vận động và phát triển của sự vật.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận điển hình về tính
chính xác và lơgic chặt chẽ. Vì thế, nó trở thành khoa học về những quy luật
chung, phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Một lý luận mang tính chính xác và lơgic chặt chẽ sẽ có tác dụng tích
cực đối với hoạt động thực tiễn của con người, sẽ được con người, cộng đồng
người, nhất là các lực lượng cách mạng nhanh chóng tiếp thu, ủng hộ.
1.1.2.3. Lý luận chính trị mang tính thực tiễn, gắn liền với thực tiễn
Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản
của lý luận khoa học nói chung và của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng, lý
luận thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn thực tiễn thuộc hoạt động vật
chất, là sản xuất, là cuộc đấu tranh để bảo vệ sự tồn tại của con người trước
thiên nhiên và xã hội. Vì vật chất quyết định ý thức cho nên hoạt động vật
chất quyết định hoạt động tinh thần. V. I. Lênin khẳng định: “Thực tiễn cao
hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm khơng những của tính phổ biến mà
cả của tính hiện thực trực tiếp” [9, tr 230].


18
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, lý luận có tồn tại, có sức sống hay
khơng phụ thuộc ở mức độ phù hợp, vai trò định hướng, gợi mở, chỉ dẫn giải
quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động,
phát triển buộc lý luận phản ánh đời sống thực tiễn cũng phải không ngừng
được bổ sung, phát triển, đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để
làm cho tri thức lý luận ngày càng phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn,
phong phú hơn đời sống thực tiễn.
Tuy nhiên, lý luận cũng có tính độc lập tương đối của nó, khơng hồn
tồn thụ động, mà lý luận cũng đóng vai trị tác động tích cực trở lại đối với
thực tiễn. Lý luận là kim chỉ nam giúp cho thực tiễn đạt kết quả cao. Lý luận
vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ phương pháp hành động có hiệu
quả nhất để đạt mục đích. Đặc biệt là lý luận cách mạng trong cách mạng

XHCN: “Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách
mạng” [7, tr 30].
Lý luận đem lại sức mạnh cho con người trong quá trình nhận thức và
cải tạo thế giới. Nếu khơng có nhận thức đúng thì càng khơng thể có hành
động đúng. Nhờ có lý luận, hoạt động của con người trở nên tự giác, tích cực
chủ động và tránh được tình trạng tự phát, mị mẫm.
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung, làm
phong phú lẫn nhau, là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của
nhau. Chính vì vậy, trong bài Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khoá 1
trường Nguyễn Ái Quốc ngày 7/9/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng; Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [19,
tr 496]. Đối với Hồ Chí Minh, lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong việc


19
nâng cao trình độ tư tưởng, lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân
dân, thúc đẩy cách mạng tiến lên. Người cũng thường xuyên nhắc nhở Đảng
và Nhà nước khi xây dựng đường lối, chính sách, chủ trương, biện pháp, kế
hoạch phải xuất phát từ thực tiễn, từ những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn
cách mạng. Theo Người “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải
nhằm theo lý luận” [18, tr 235].
Nhờ có lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, Đảng Cộng sản
Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng NDCM Lào mà
đứng đầu là Chủ tich Kay Xỏn PHÔM VI HẲN đã vận dụng sáng tạo vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Việt Nam và Lào, lãnh đạo cách mạng trong hai
nước Việt Nam và Lào giành nhiều thắng lợi to lớn. Vì thế, hai Đảng hai Nhà
nước luôn coi trọng việc bồi dưỡng, giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên,
nhất là bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị, coi đó là yêu cầu cơ bản, không

thể thiếu trong công tác xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Đảng ta tổ chức trường học lý luận
cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi
hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có
thể làm tốt hơn cơng tác của mình, hồn thành tốt nhiệm vụ cách mạng vĩ đại
của mình” [20, tr 497].
Quán triệt nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa
Mác - Lênin, được Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hố sẽ chống chọi mọi biểu
hiện của chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, rập
khn, máy móc, bệnh lý thuyết suông, v.v…
Đảng NDCM Lào kiên định, bảo vệ, phát triển và vận dụng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo phù hợp thực tiễn đất nước
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, nền


20
kinh tế thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài. Vì thế, “đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận” đã trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong
công tác lý luận.
1.1.2.4. Thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học
Nói tới tính đảng là nói tới lợi ích giai cấp, cịn tính khoa học là sự
phản ánh đúng thực tế khách quan, tôn trọng sự thật. Lý luận nói chung, lý
luận chính trị nói riêng bao hàm trong nó đặc trưng thống nhất giữa tính đảng
và tính khoa học. Lý luận chính trị của giai cấp cơng nhân, giai cấp vô sản là
chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát và phản ánh khách quan nhu cầu và lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, phù hợp với nguyện vọng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động thế giới, cho nên lý luận đó đảm bảo sự
thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Trong lý luận chính trị, tính đảng và tính khoa học có mối quan hệ
biện chứng khơng thể tách rời, tính đảng càng cao thì tính khoa học càng

sâu sắc, tính đảng và tính khoa học làm điều kiện, tiền đề tồn tại, phụ thuộc
lẫn nhau, không thể loại bỏ cái này, coi trọng cái kia. Do vậy, “Trong việc
nghiên cứu lý luận – thực tiễn của Đảng, chúng ta phải quan tâm đến vấn
đề liên quan đến nền tảng lý luận về con đường và bước đi trong việc phát
huy chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng các nhân tố để từng bước đi lên
CNXH ở nước ta...” [35, tr 70].
Bao giờ giữa tính đảng và tính khoa học cũng địi hỏi sự phụ thuộc, hỗ
trợ lẫn nhau. Vì vậy, “... khoa học càng được tiến hành một cách dũng cảm và
vơ tư thì nó cũng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp cơng
nhân...” [15, tr 451].
Thực tiễn cho thấy, việc xuyên tạc sự thật thường gắn liền với sự xa rời
lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp cơng nhân. Mọi cách xem xét,


21
đánh giá hiện thực trái với quan điểm, lập trường, lợi ích của giai cấp cơng
nhân đều khơng phản ánh đúng xu hướng phát triển của lịch sử. Xuất phát từ
lợi ích của các giai cấp phi vơ sản hoặc chịu ảnh hưởng của những quan điểm
đó sẽ khơng bao giờ phản ánh đúng sự thật lịch sử, và như thế sẽ khơng có
tính đảng và tính khoa học. Cho nên một lý luận, lý luận chính trị sẽ là khoa
học khi đảm bảo thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học, đây cũng là đặc
trưng cơ bản mang tính chất cách mạng, tính khoa học của lý luận chính trị.
Lý luận chính trị khơng có mục đích nào khác ngồi mục đích thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, cho nên nhiệm vụ quan trọng của nó là định
hướng cho con người trong nhận thức và hành động để cải tạo thế giới. Khi
đó, tính khoa học là tiền đề, là cơ sở và tính đảng giữ vai trò định hướng cách
mạng để loại trừ cái cũ, cái lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ, hợp quy
luật. V. I. Lênin coi chủ nghĩa Mác là cơ sở lý luận vững như đá hoa cương,
có “sức hấp dẫn khơng gì cưỡng nổi đã lơi cuốn những người XHCN của tất
cả các nước theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt

chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội), với tinh thần cách
mạng” [6, tr 421].
Lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như Đảng NDCM
Lào được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, gắn liền với tổng kết thực tiễn, có vai trị hết sức to lớn trong việc cung
cấp những luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường
lối đổi mới và thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chủ trương, kế hoạch đề ra.
Lý luận chính trị của Đảng NDCM Lào chính là sự kế thừa và phát triển
những tinh hoa trí tuệ của dân tộc và thời đại, khái quát những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới. Là sự tổng kết, đúc kết kinh
nghiệm từ thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc và nhân dân
thế giới, sự vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong


22
điều kiện mới, trong hoàn cảnh mới, đồng thời cũng chính là một điển hình về
sự thống nhất cao giữa tính đảng và tính khoa học.
Ngồi những đặc trưng cơ bản đó là tính khái qt và tính trừu tượng,
tính chính xác và lơgic, tính thống nhất lý luận và thực tiễn, tính đảng và tính
khoa học, lý luận chính trị cịn có một số đặc trưng khác như: tính hệ thống và
tính kế thừa, là hệ thống mở có khả năng bổ sung và phát triển…
Với ý nghĩa là lý luận tiền phong, lý luận chính trị giúp cho Đảng Cộng
sản hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện
nay, chúng ta quyết tâm giữ vững định hướng XHCN, Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng như Đảng NDCM Lào càng phải chú trọng phát triển lý luận chính
trị với đầy đủ các đặc trưng trên, góp phần bổ sung “cơ sở lịch sử của chủ
nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình
khơng thể có được” [16, tr 465].
1.2. VAI TRỊ CỦA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG, QUẢN
LÝ CỦA CÁN BỘ Ở TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ BỘ QUỐC PHÒNG NƯỚC CỘNG

HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Qua thực tiễn của sự nghiệp xây dựng đất nước hơn 20 năm qua, càng
chứng minh tính đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng NDCM Lào, đó là:
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đường lối đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế, đất nước có sự thay đổi cơ bản và tồn diện, kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đang được đẩy mạnh. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường,
chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Tuy nhiên,
trong điều kiện hiện nay, ngoài những thành tựu đạt được, Lào đang đứng
trước những thách thức to lớn, đan xen, tác động tổng hợp lẫn nhau và diễn
biến phức tạp: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu


23
vực và trên thế giới; tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên...; những biểu hiện xa rời
mục tiêu, lý tưởng CNXH chưa được khắc phục; các thế lực thù địch vẫn
đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử
dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tơn giáo” hịng làm
thay đổi chế độ chính trị.
Tất cả những khó khăn phức tạp đó tác động mạnh mẽ đến nhiều cấp,
nhiều ngành, đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội địi hỏi người cán bộ nói
chung, cán bộ ở Tổng cục Chính trị nói riêng phải khơng ngừng nâng cao
trình độ chun mơn, năng lực, nâng cao trình độ lý luận chính trị để giữ
vững lập trường, có bản lĩnh chính trị hồn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng
và nhân dân giao phó.
Trong q trình đổi mới đất nước, Đảng NDCM Lào rất coi trọng vấn
đề giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức phẩm chất cách mạng cho

đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, đó là một vấn đề có ý nghĩa quyết
định đến sự lãnh đạo của Đảng, vừa mang tính cấp bách vừa có tính chiến
lược lâu dài.
Như vậy, nâng cao trình độ lý luận chính trị thực sự có vai trị đặc biệt
quan trọng đối với người cán bộ ở Tổng cục Chính trị. Điều này được thể hiện
rất rõ bởi những nội dung cơ bản sau:
Một là, lý luận chính trị, trình độ lý luận chính trị góp phần trang bị
nâng cao cho cán bộ ở Tổng cục Chính trị sự hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin,
nắm được bản chất quan điểm đường lối chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay đang đặt bộ đội chiến
sĩ nói chung, cán bộ Tổng cục Chính trị nói riêng trước những thử thách mới.
Thực tế cho thấy, ở đơn vị nào đội ngũ cán bộ chỉ huy có trình độ chun


24
mơn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị thì ở đó phát triển ổn định về an
ninh chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế… và được nhân dân đồng tình
ủng hộ. Trình độ chun mơn và phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ chỉ
huy là một điều kiện tiên quyết đảm bảo giữ vững chính quyền, bảo vệ Đảng,
bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, nơi nào mà doanh nghiệp cán bộ còn chưa được
trang bị về trình độ chun mơn, trình độ lý luận chính trị thì hoạt động của
họ bị lúng túng, khó khăn, bất cập, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội ở đơn vị.
Muốn hoạt động của đội ngũ cán bộ ở Tổng cục Chính trị đạt hiệu quả,
trước hết phải nhận thức, hiểu rõ bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin và trên nền tảng cơ sở lý luận ấy, người cán bộ ở Tổng cục
Chính trị có những định hướng trong việc xem xét, đánh giá và xử lý những
vấn đề mới của thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Ngược lại, nếu cán bộ ở
Tổng cục Chính trị có trình độ chun mơn và trình độ lý luận chính trị thấp
sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình phát triển kinh tế - xã hội ở đơn vị.

Đảng NDCM Lào luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; trong đó cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, người cán bộ ở
Tổng cục Chính trị khơng chỉ tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước một cách dập khuôn, máy móc, mà cịn
phải biết xác định và chắt lọc những cái cơ bản, trọng tâm, trọng điểm và
vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đơn vị. Như vậy, trình độ lý
luận chính trị có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện
những vấn đề mới và bổ sung, phát triển, hồn thiện, tích luỹ các tri thức
cho quá trình hoạt động ngày một tốt hơn.
Trình độ lý luận chính trị giúp cho người cán bộ ở Tổng cục Chính trị
nhận thức vấn đề một cách có hệ thống, hiểu thực chất của chủ nghĩa Mác -


25
Lênin, những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, truyền thống anh hùng Quân đội nhân dân Lào, trên cơ sở
nắm vững thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng để nhận
thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Lào trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố địi hỏi từng
bước hiện đại hố cơ sở vật chất, kỹ thuật, áp dụng khoa học cơng nghệ vào
q trình phát triển kinh tế - xã hội. Trước những phát triển như vậy, có những
vấn đề khơng thể bằng kinh nghiệm, bằng cảm giác mà có thể nhận thức và lý
giải được mà địi hỏi phải có trình độ lý luận chính trị thì người cán bộ nói
chung và cán bộ ở Tổng cục Chính trị mới có thể nhận biết và giải thích được
những hiện tượng đó. Trên thực tế cho thấy, ở đơn vị nào đội ngũ cán bộ ở
đơn vị hạn chế về trình độ chun mơn nói chung và trình độ lý luận chính trị
nói riêng dẫn đến hạn chế trong việc tiếp thu những quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nên kết quả việc tổ
chức thực hiện chỉ mang tính hình thức qua loa, khơng sáng tạo để tìm ra các

giải pháp để biến khả năng thành hiện thực.
Do đó, khi tổ chức, triển khai chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối,
chỉ huy của cấp trên thì họ khơng truyền tải hết nội dung, u cầu đến cán bộ,
đảng viên và nhân dân, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả của các chỉ thị, nghị quyết
thấp, ảnh hưởng đến quá trình thúc đẩy lẫn nhau phát triển kinh tế - xã hội ở
đơn vị.
Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ cán bộ cần phải có trình độ chun
mơn, trình độ lý luận chính trị nhất định để đảm bảo cho phong cách làm việc
mang tính khoa học, nhạy bén, quyết đốn, có khả năng xử lý kịp thời, chính
xác mọi tình huống xảy ra. Có như vậy, nhân dân mới vững tin vào đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tin vào người cán
bộ của Đảng.


×