Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở hà tĩnh giai đoạn 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.77 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

NGUYỄN CÔNG HẢI

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở
TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2009-2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

NGUYỄN CÔNG HẢI

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở
TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2009-2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Thu Hoài


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Thu Hoài. Các số liệu và
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không trùng với các công trình khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Công Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………… 4
1. Sự cần thiết của đề tài………………………………………………….. 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………………. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………….. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………... 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu…………………………….. 7
6. Đóng góp của luận văn………………………………………………… 8
7. Kết cấu của luận văn…………………………………………………… 8
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ VÀ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ ……………….. 9
1.1. Một số khái niệm chung …………………………………………… 9
1.1.1. Lý luận chính trị, trình độ lý luận chính trị………………………… 9
1.1.2. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở………………………………………….. 22
1.1.3. Vai trò của lý luận chính trị đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở……

26


1.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến trình độ lý luận chính trị của cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở………………………………………………………...

35

1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở………………………….

44

1.3. Một số vân đề mang tính nguyên tắc trong việc nâng cao trình độ
lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở……………………….

47

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY ……..

52

2.1. Thực trạng…………………………………………………………... 52
2.1.1. Tổng quan về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh
hiện nay…………………………………………………………………… 52

1


2.1.2. Thực trạng về trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp cơ

sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay và nguyên nhân……………………………… 56
2.1.3. Thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị; nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay và
nguyên nhân ……………………………………………………………… 63
2.2. Quan điểm và giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh ……………………. 70
2.2.1. Quan điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về nâng cao
trình độ lý luận chinh trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở …………………. 70
2.2.2. Giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay ……………………………... 73
KẾT LUẬN ……………………………………………………………...

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………… 95

2


DANH MỤC VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

TW

Trung ương

BCH


Ban Chấp hành

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

ĐH

Đại hội

Nxb

Nhà xuất bản

NQ

Nghị quyết

3


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu luận văn
Cán bộ là khâu then chốt, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất
bại của sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Cán bộ là cái

gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém”. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, cán bộ là nguyên nhân
của mọi nguyên nhân, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Mỗi giai đoạn cách mạng cần có đội ngũ cán bộ phù hợp, đáp ứng yêu cầu và
đòi hỏi của giai đoạn cách mạng đó.
Đất nước ta đang chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đến năm
2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, mô hình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước ta chưa có tiền lệ trong lịch sử, vừa thực hiện vừa
tổng kết rút kinh nghiệm, cùng với việc đất nước hội nhập sâu vào thế giới,
trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, thuận lợi và
khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen, tác động lẫn nhau đang đặt ra những
yêu cầu và đòi hỏi rất cao cho đội ngũ cán bộ. Nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên
phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực… phù hợp với yêu
cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nhiệm vụ của hệ thống
chính trị là phải nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, nhất là
về trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
4


Thực tế cho thấy đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay nói
chung và ở Hà Tĩnh nói riêng đa số trưởng thành từ thực tiễn, từ phong trào,
họ ít được đào tạo lý luận chính trị một cách bài bản, nặng về kinh nghiệm,

trình độ lý luận chính trị hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của địa
phương. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là những
người trực tiếp đưa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước ở cơ sở và mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước đều được thiển khai thực hiện và kiểm nghiệm từ cơ sở. Vì vậy,
để xây dựng được một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ngang tầm, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa thì một trong những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ là phải nâng
cao trình độ lý luận chính trị.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi lựa chọn hướng nghiên cứu vấn đề: “Nâng
cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
Tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2009 - 2013” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Chính
trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ nói chung, cán bộ cấp
cơ sở nói riêng là nội dung quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp. Xung quanh vấn đề này đã có
một số công trình đề cập đến trên một số phương diện. Tiêu biểu là các công
trình: Đề tài 0206 - KHXH: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp huyện thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý trong thời kỳ phát triển mới của tỉnh Hà
Tĩnh. Cơ quan Chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, chủ biên: Nguyễn
Thiện - Tháng 6/2006. Đề tài này đã đề cập được một số vấn đề về lý luận,
tầm quan trọng và vai trò của công tác cán bộ trước yêu cầu mới, đặc biệt là
trình độ lý luận chính trị của cán bộ cấp huyện.

5


- Đỗ Cao Quang: Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay, Luận văn thạc sỹ, mã số: LA MSR - 140

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996. Luận văn này đã cung
cấp một cách tương đối đầy đủ về việc nâng cao trình độ tư duy lý luận của
cán bộ cấp cơ sở, nhưng chưa đầy đủ, đang mang nặng khái quát và nêu lên
nhưng đặc thù khó khăn của miền núi, như văn hoá, trình độ, yêu cầu. Chưa
làm rõ được trước yêu cầu hội nhập, đổi mới, cán bộ cơ sở cần có những yêu
cầu cơ bản nào, phương pháp tiếp cận mới trong việc dạy và học tập lý luận
chính trị...
- Vũ Ngọc Am: Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán
bộ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia năm 2003. Một số vấn đề về đổi mới phương
pháp giáo dục lý luận chính trị, Nxb Thông tấn 2009. Hai cuốn sách này mới
chỉ nêu chung chung về phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng. Tập trung
đưa ra một số giải pháp cơ bản trên cơ sở nghiên cứu lý luận và yêu cầu chung.
- Đề tài 08/2011/KQNC: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
giảng dạy và học tập môn Giáo dục công dân trong các trường THPT ở Hà
Tĩnh. Cơ quan chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, chủ nhiệm: Đặng Quốc
Vinh - Tháng 8/2011. Đề tài này đã đề cập được một số vấn đề về lý luận, tầm
quan trọng của công tác giảng dạy môn Giáo dục Công dân ở các trường
THPT ở Hà Tĩnh trước yêu cầu mới.
- Ban Tuyên giáo Trung ương: Chương trình bồi dưỡng chuyên đề:
Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý
luận chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Nxb Lao động xã
hội, năm 2008. Cuốn sách này tập trung nêu các phương pháp giảng dạy lý
luận, tập trung cho trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, ít đề cập đến tầm
quan trọng của công tác lý luận chính trị đối với cán bộ nói chung, cán bộ cấp
cơ sở nói riêng.

6


Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nâng cao trình độ lý luận

chính trị cấp cơ sở nói chung, ở Hà Tĩnh nói riêng, xuất phát từ thực tiễn trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh hiện nay cho thấy đây là lĩnh vực cần thiết phải nghiên
cứu và có những đề xuất cụ thể. Vì vậy, luận văn chúng tôi tập trung làm rõ
thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị ở Hà Tĩnh, từ đó đề xuất các giải
pháp để khắc phục tình trạng trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Từ thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở ở
Hà Tĩnh và những nguyên nhân, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở Hà Tĩnh hiện nay. Từ đó vận dụng có hiệu quả vào công tác ở địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao trình
độ lý luận chính cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
- Đánh giá thực trạng về trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở Hà Tĩnh và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh hiện nay.
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Phạm vi về thời gian: từ năm 2009 đến hết năm 2013
Phạm vi về không gian: tỉnh Hà Tĩnh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đào tạo, bồi dưỡng
lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở.

7



Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học...
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể tham khảo vận dụng cho các cấp
ủy đảng, chính quyền trong việc nghiên cứu để xây dựng tiêu chuẩn, kế
hoạch đào tạo lý luận chính trị đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở; xác định
mục tiêu, phương pháp đào tạo, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy lý
luận chính trị ở trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp
huyện…Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có cấu
trúc gồm 2 chương, 5 tiết.

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
(VỀ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ)
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Lý luận chính trị, trình độ lý luận chính trị
Lý luận chính trị
V.I Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” [24,
tr.32]. Do đó, khi nói đến Đảng chính trị là đồng thời nói đến hệ thống lý luận
chính trị của Đảng ấy. Vậy lý luận chính trị là gì? Để hiểu bản chất của lý
luận chính trị, cần phải nghiên cứu khái niệm “lý luận” và “chính trị”.

Lý luận là một phạm trù rộng lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát
triển của xã hội loài người. Vì thế, khái niệm lý luận ngày càng được hiểu một
cách đầy đủ hơn.
Từ điển triết học, định nghĩa: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự
nhiên và xã hội tích luỹ được trong quá trình lịch sử”; là “hệ thống tư tưởng
chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức” [54, tr.526].
Từ điển Tiếng Việt viết: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được
khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận
là những kiến thức được khái quát và hệ thống trong một lĩnh vực nào đó”
[52, tr.544 - 545].
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi trọng lý luận. Người rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của V.I
Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Và
theo Người thì lý luận “Là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”
[44, tr. 497].

9


Như vậy, lý luận được hình thành từ thực tiễn trên cơ sở khái quát
những kinh nghiệm của hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của con người.
Quan niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra đã góp phần làm sáng tỏ
quan niệm triết học về lý luận, nêu ra nguồn gốc, cách thức, con đường hình
thành lý luận.
Lý luận thường được hiểu là những tri thức và kinh nghiệm được khái
quát tích luỹ từ thực tiễn. Lý luận được truyền bá, vận dụng trong thực tiễn và
luôn được bổ sung, phát triển làm cho phong phú hơn. Lý luận phản ánh mối
liên hệ bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật
hiện tượng trong thế giới khách quan.

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận nhưng đều thống nhất
ở chỗ: Lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp các
tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt động lịch sử của
con người; là phản ánh bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong
một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trò hướng dẫn hoạt
động thực tiễn.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người buộc phải khám
phá, tìm hiểu, nhận thức về thế giới. Nhưng những tri thức về thế giới phải
thông qua hoạt động thực tiễn con người mới có nhận thức và hiểu biết.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận
thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh
nghiệm; sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu
tượng hoá để xây dựng thành lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật
vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Con người quan hệ với thế
giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính trong quá trình

10


hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận của con người mới
được hình thành và phát triển. Lý luận là cấp độ phát triển cao của quá trình
nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan ở trình độ cao.
Lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức
phản ánh các mối liên hệ bản chất và tính quy luật của các sự vật, hiện tượng,
được con người tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn và có vai trò
hướng dẫn hoạt động thực tiễn.
Lý luận ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể khác nhau đều phải có lý luận riêng và mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu

bằng việc phát triển lý luận. Có lý luận trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, lý
luận trong lĩnh vực khoa học xã hội, lý luận trong lĩnh vực văn học nghệ
thuật, lý luận trong lĩnh vực kinh tế, lý luận trong lĩnh vực chính trị.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Chính trị là một hiện
tượng lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành
Nhà nước. Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Nó
cũng là lĩnh vực hoạt động phức tạp luôn thu hút các nhà tư tưởng đi vào suy
nghĩ, khám phá, cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị. Có
nhiều quan điểm khác nhau về chính trị.
Khái niệm Chính trị theo tiếng Hi Lạp là “Politics” có nghĩa là những
việc liên quan đến thành bang, những công việc quốc gia. Trong đó điều cốt
lõi nhất, quan trọng nhất, thực chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị hay là
Chính phủ. Sau này từ thế kỷ XVI trở đi gọi là Nhà nước [4, tr.7].
“Chính trị - theo nguyên nghĩa của nó là những công việc Nhà nước, là
phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã
hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực
Nhà nước” [1, tr.507].

11


Lênin cũng khẳng định “chính trị với nghĩa là công việc Nhà nước, là
việc vạch hướng đi cho Nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội
dung của Nhà nước” [27, tr.404]. Hơn nữa chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực thi quyền lực Nhà nước
và suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V.I Lênin nêu ra một nguyên tắc cơ
bản trong chính trị mà những người Cộng sản phải quán triệt và đó cũng
chính là bản chất của chính trị là: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế” [30, tr.349]. Có nghĩa, chính trị do kinh tế quyết định. Các tổ chức chính
trị, các hình thức Nhà nước muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên một cơ sở

kinh tế của xã hội. Có thể nói, kinh tế là nguồn gốc, là cơ sở của chính trị.
Chế độ chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng và phải thích ứng với cơ sở kinh
tế. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì sẽ giữ địa vị
thống trị xã hội về chính trị.
Là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị không phải là “bản
sao”, không phải là biểu hiện thụ động, không phải là “cái gương soi” của
kinh tế. Ngược lại, chính trị có tính độc lập của nó và tác động trở lại mạnh
mẽ đến kinh tế. Nó định hướng cho sự phát triển, lựa chọn các mô hình và
điều tiết sự phát triển của kinh tế. Chính trị thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển
của kinh tế, thâm nhập và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì lẽ đó,
V.I Lênin đã khẳng định: Chính trị không thể chiếm vị trí ưu tiên so với kinh
tế. Ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho việc giành lấy quyền lực chính trị và
cho xây dựng các quyết sách chính trị đúng. Kinh tế phát triển phải thông qua
chính trị, thông qua hệ thống đường lối, chính sách pháp luật, quyền lực Nhà
nước và giai cấp nào muốn lãnh đạo kinh tế phát triển, đạt mục tiêu, lợi ích đề
ra thì không được sai lầm về chính trị. Chính trị phục vụ cho lợi ích của giai
cấp thống trị, đồng thời luôn tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng chính trị
của giai cấp cầm quyền. Chính trị mang trong nó yếu tố năng động đặc biệt và

12


không có một công thức, cách thức chung duy nhất nào. Chính trị không phải là
con đường thẳng, thuận lợi dễ đi. V.I Lênin cho rằng: “Chính trị giống đại số
hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn là toán học sơ cấp”, “Chính trị là
vận mệnh thực tế của hàng triệu con người” [28, tr.150].
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người, nó có quan
hệ chặt chẽ với hoạt động thực tiễn của con người, biểu hiện lợi ích kinh tế
nhất định của các tầng lớp dân cư trong xã hội, gắn liền với vận mệnh của
nhân dân. Chính trị được đưa vào thực tiễn cuộc sống nhờ hệ thống thiết chế

chính trị, Đảng phái chính trị, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.
Tùy theo cách thức tiếp cận mà có những quan niệm khác nhau về
chính trị, song theo nghĩa chung nhất, chính trị được hiểu là đại diện của các
quan hệ giữa các giai cấp, quan hệ về giai cấp mà cốt lõi là quan hệ giai cấp
về kinh tế. Mục đích của chính trị là vấn đề chính quyền sẽ thuộc về tay giai
cấp nào, chính Đảng nào.
Từ sự phân tích trên, có thể khái quát như sau: Lý luận chính trị là lý
luận trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất
định trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi
quyền lực Nhà nước.
C.Mác cho rằng “Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự
phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng
vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó xâm nhập
vào quần chúng”.Thấm nhuần quan điểm của Lênin: “Không thể là một nhà
lãnh đạo tư tưởng mà lại không làm công tác lý luận..., cũng như không thể là
một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không hướng công tác đó theo những nhu
cầu của sự nghiệp, mà lại không tuyên truyền trong công nhân những kết luận

13


của lý luận đó và không giúp đỡ họ tổ chức nhau lại” [24, tr.382], hơn nữa,
“tư tưởng căn bản không thể thực hiện tốt được cái gì hết. Muốn thực hiện tư
tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [36, tr.181] và
“phải làm sao để những tư tưởng đó bắt rễ sâu hơn vào một giới được rèn
luyện hơn, và phải làm cho đội tiên phong ấy... thấm nhuần những tư tưởng
đó” [25, tr.559].
Bìa tác phẩm Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,

xuất bản 1927 tại Quảng Châu, Trung Quốc ghi rõ: “Không có lý luận cách
mệnh, thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền
phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Đặc
biệt, trong tác phẩm kinh điển lý luận đó, Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng:
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, và “chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất ấy, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Vì vậy,
với ý nghĩa: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng
ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi”, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng công tác giáo dục lý luận cho đội ngũ đảng
viên của Đảng.
Từ thực tiễn phong trào cách mạng trong nước những năm đấu tranh
giành chính quyền, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “Sự hiểu biết lý luận và
chính trị của các đồng chí An Nam rất thấp, việc học tập và đọc sách báo ở
thuộc địa gần như không có được” và “vì thiếu kiến thức lý luận, buộc các
đồng chí ấy phải mò mẫm từng bước, luôn luôn vấp váp vì thiếu thốn”, cho
nên “phải cung cấp cho các đồng chí ấy những kiến thức tối cần thiết về lý
luận soi đường, tạo điều kiện dễ dàng cho các đồng chí ấy tiến hành công
tác”, “bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thụ được những kiến thức

14


sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sỹ đều phải có”. Sau đó, trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp và những năm cả nước tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Người nhận thấy những khuyết điểm:
kém lý luận, khinh lý luận, lý luận suông mà nhiều cán bộ, đảng viên còn mắc
phải là rất nghiêm trọng. Theo Người, nguyên nhân của những khuyết điểm

đó là do chưa nhận thức rõ vai trò của lý luận, do lười học tập, lười nghiên
cứu lý luận, hoặc trình độ lý luận chưa theo kịp thực tiễn. Người nói, “vì kém
lý luận nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí
cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ
thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”, và cũng "vì trình độ lý luận thấp
kém cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp,
trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm,
khuyết điểm",... Từ đó, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý luận rất quan trọng”,
“lý luận rất cần thiết” và trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội lần thứ II của
Đảng (2/1951), Người khẳng định: “Học tập lý luận là một sự bức thiết đối với
Đảng ta”.
Người thể hiện rõ quan điểm: “Đối với chúng ta, những người cách
mạng và nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là cái “cẩm
nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng
con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản”. Vì vậy, phải học tập lý luận, phải trang bị hệ thống luận
điểm cách mạng, khoa học, phương pháp luận biện chứng của học thuyết
Mácxít - Lêninnít cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, để từ đó nâng cao giác ngộ
lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin vào thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản
bằng các cơ sở khoa học, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cũng từ thực tiễn
lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ: vì “Học tập

15


chủ nghĩa còn kém, cho nên tư tưởng của nhiều cán bộ và đảng viên chưa
thuần thục, trình độ lý luận còn non nớt”. Từ đó, Người nhấn mạnh: “Có học
tập lý luận Mác-Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập
trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác
Đảng giao phó cho mình”. Không chỉ học tập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa

Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Người còn chỉ rõ nhiệm vụ:
“Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập
trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của
nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam, định ra đường lối, phương châm, bước đi có
thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”. Coi hiểu
biết lý luận là một nội dung hàng đầu trong 12 chuẩn mực xác định tư cách
của một đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên
phải học lý luận để: thứ nhất, “học để sửa chữa tư tưởng”; thứ hai, “học để tu
dưỡng đạo đức cách mạng”; thứ ba, “học để tin tưởng”; thứ tư, “học để hành”.
Bác Hồ dã dạy: Đã lựa chọn đúng cán bộ còn cần phải dạy bảo lý luận
cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt sáng,
một mắt mờ. Người còn chỉ rõ: “Có học tập lý luận Mác - Lênin mới cũng cố
được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình
độ chính trị, mới làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình” [44, tr.247]. Đối
với cán bộ chủ chốt, Bác càng nhấn mạnh sự cần thiết phải không ngừng học
tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và đó là lý luận thiết thực, chỉ đạo cho
hành động. Nắm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không phải “để trang sức”
mà nắm cái tinh thần xử trí đối với việc, đối với người, đối với mình để “sống
với nhau có tình có nghĩa”, là nắm những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác
- Lênin để áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta.

16


Luận giải những nội dung trên, Hồ Chí Minh nói: “Học để sửa chữa tư
tưởng”, vì nếu tư tưỏng chưa thực sự là tư tưởng cách mạng, nhất định cán bộ,
đảng viên phải học để sửa chữa cho đúng, để từ đó hành động đúng và làm
tròn nhiệm vụ cách mạng được giao phó. “Học để tu dưỡng đạo đức cách

mạng”, vì đạo đức là gốc của người cách mạng, nếu không có đạo đức thì
không thể phấn đấu, hy sinh cho cách mạng và không thể lãnh đạo được quần
chúng nhân dân. Cũng theo Người, người cán bộ, đảng viên học tập lý luận
chính trị không chỉ nhằm nâng cao trình độ lý luận, chống lại ách thống trị
của đế quốc thực dân mà còn để “cải tạo” mình, giúp họ trở thành những
người vừa “hồng”, vừa “chuyên” - tiêu chuẩn cơ bản mà Hồ Chí Minh yêu
cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải có. Với ý nghĩa đó, Người chỉ rõ: “Những tư
tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc cho đồng bào là bạn. Những tư
tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc cho đồng bào là kẻ thù. Thế là chẳng
những ở ngoài, mà chính ở trong mình ta cũng có bạn và thù. Vì vậy chúng ta
cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong và ở ngoài, kiên quyết chống lại kẻ thù
ở ngoài và ở trong mình ta”. “Học để tin tưởng”. Tin tưởng vào đoàn thể. Tin
tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc, vì có lý tưởng và
niềm tin vững chắc thì người cách mạng khi gặp thuận lợi không kiêu, lúc gặp
khó khăn không nản, không ngại gian khổ, hy sinh.
Vì thế, muốn học tập lý luận đạt kết quả tốt, nhất thiết người học phải
tuân thủ nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tiễn, lý luận thống nhất với thực
tiễn và trước hết, cán bộ, đảng viên cần phải khắc phục bệnh kém lý luận,
bệnh khinh lý luận. Kém lý luận, khinh lý luận dẫn tới bệnh kinh nghiệm,
bệnh giáo điều và cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt
động thực tiễn. Hơn nữa, khi không có lý luận, hay trình độ lý luận kém sẽ
làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng. Một số cán bộ, đảng viên "chỉ bo
bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ”, không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho

17


công tác cách mạng, nên cắm đầu nhắm mắt mà làm và không hiểu rõ toàn
cuộc của cách mạng... Họ không biết rằng, kinh nghiệm tốt đó chẳng qua chỉ
thiên về một mặt”, vì vậy, có “kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như

một mắt sáng một mắt mờ". Nói cho đến cùng, theo Hồ Chí Minh, đó là
những người không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn, không biết rằng:
"Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm
chạp vừa hay vấp váp".Cũng nói về việc học tập lý luận, Hồ Chí Minh khẳng
định: "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích
để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên",
nên phải quán triệt rằng "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý
luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông". Lý luận chỉ
có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, chỉ
đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp
điều kiện thực tiễn. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng: không được học
thuộc lòng chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi "học sách vở Mác - Lênin nhưng
không học tinh thần Mác - Lênin" là học theo kiểu "mượn những lời của Mác,
Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn". Chỉ có “học tinh thần của chủ nghĩa Mác
- Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho
tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta", và "Học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi
người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của
nước ta. Học để mà làm", mới giúp cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình.
Tóm lại, không chỉ chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác Lênin, mà còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh

18


nghiệm của nước khác, ngành khác, như Người từng nói: khi học tập lý luận,
mà "không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh
nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa
giáo điều”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên phải học tập lý

luận, phải gắn liền giữa lý luận và thực tiễn, coi đó là một biện pháp cơ bản để
ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, đồng thời để
“tổng kết thực tiễn”, “để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề
đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn".
Trình độ lý luận chính trị
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Trước hết,
phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các cấp uỷ và chi bộ tổ chức, hướng
dẫn và kiểm tra đảng viên học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và công tác vận
động nhân dân…” [16, tr.53].
Theo từ điển tiếng Việt, trình độ được hiểu theo hai cách sau: “Mức độ
về sự hiểu biết, về kỹ năng được xác định hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn nhất
định nào đó”; “Trình độ khá cao trong một lĩnh vực nào đó” [52, tr.1001].
Như vậy, trình độ lý luận chính trị có thể được hiểu là mức độ hiểu
biết, mức độ nhận thức, khả năng vận dụng lý luận chính trị vào trong thực
tiễn cuộc sống. Ở nước ta hiện nay, đối với cán bộ, đảng viên, trong đó có cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở, có trình độ lý luận chính trị có nghĩa là phải có thế giới
quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn nhờ được trang bị những kiến
thức cơ bản, tương đối có hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, lý luận về xây dựng Đảng, Nhà nước và quản lý Nhà nước,
công tác dân vận, các quan điểm cơ bản về đường lối, chủ trương của Đảng,

19


chính sách, pháp luật của Nhà nước, những nội dung cơ bản về nhiệm vụ công
tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Từ đó củng cố, nâng cao niềm tin vững chắc
vào mục tiêu, lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa, vào sự nghiệp cách mạng của

Đảng. Kiên định và trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc. Hiểu đúng, bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn
công tác. Đồng thời góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức và lối sống của
người cán bộ, đảng viên, cán bộ cấp cơ sở: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, có tình cảm cách mạng trong sáng. Có ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh
thần đấu tranh phê và tự phê bình, có quan hệ mật thiết với quần chúng. Trình
độ lý luận chính trị giúp cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực hoạt
động thực tiễn, có ý thức tự giác và tích cực trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ do Đảng đề ra.
Việc truyền đạt, giải thích chính sách của Đảng và Nhà nước cho nhân
dân, nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng của họ thì yêu cầu người cán bộ cấp
cơ sở phải vượt lên khỏi nhận thức kinh nghiệm để khái quát hoá, trừu tượng
hoá, có khả năng phân tích, tổng hợp, nhất là đối với các vấn đề chính trị. Và
họ trở thành “hạt nhân” của phong trào, phát huy được thế mạnh, sức mạnh của
địa phương, cơ sở.
Phải biết vận dụng sáng tạo lý luận chính trị trong điều kiện cụ thể ở
địa phương mình. Qua học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận chính trị,
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có thế giới quan, phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và có khả năng
vận dụng, chuyển hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước thành hiện thực trực tiếp ở địa phương, cơ sở. Bởi vì tư duy lý
luận không có mục đích tự thân mà hướng vào thực tiễn để hiện thức hoá
mình. Tư duy luôn hoạt động theo hướng chuyển thành hành động, tìm biện

20


pháp để làm cho sự sáng tạo ý thức thành sự sáng tạo trong thực tiễn. Cho
nên, khả năng cụ thể hoá, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước
đối với cán bộ cơ sở là yêu cầu cấp bách. Đồng thời cũng đòi hỏi người cán

bộ cấp cơ sở phải có niềm tin vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, có lập trường
kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trước những luận
điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch và của chủ nghĩa cơ hội,
xét lại, họ biết tỏ rõ dũng khí của mình, bảo vệ sự thật, bảo vệ chân lý, tuyệt
đối trung thành với lý tưởng của Đảng của dân tộc, vững vàng trước mọi biến
cố của thời đại. Không những thế, người cán bộ cấp cơ sở cần phải tuyên
truyền giáo dục lý luận chính trị, nâng cao được ý thức, lòng tự hào dân tộc,
phát huy truyền thống yêu nước, giữ gìn những giá trị nhân văn của dân tộc
cho quần chúng nhân dân địa phương mình quản lý. Kiên quyết đấu tranh
chống âm mưu “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ dưới các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta cuả các thế lực thù địch.
Không ngừng học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao
sự hiểu biết, nâng cao nhận thức, khả năng vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước vào trong công việc, trong cuộc sống là nghĩa
vụ, là trách nhiệm, đồng thời là quyền lợi của mọi cán bộ, đảng viên nói
chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Đó cũng là thước đo phẩm chất
chính trị, phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở trong tình hình cách mạng hiện nay.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay ngày càng mở rộng và phát triển
theo chiều sâu, những biến đổi trên thế giới ngày càng phức tạp, đặt ra nhiều
vấn đề mới mẻ, cần phải giải đáp, trong khi đó: “Thoái hoá, biến chất về
chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,

21


sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra
nghiêm trọng, kéo dài chưa được đẩy lùi, làm giảm lòng tin của nhân dân đối

với Đảng. Đó là nguy cơ liên quan đến sự sống còn của Đảng và chế độ” [Tr.
263-264 Văn kiện Đại hội X ]. Do vậy, công tác lý luận càng trở nên đặc biệt
quan trọng.
Thực tế đã chứng minh rằng, muốn nâng cao bản lĩnh chính trị, khả
năng nhanh nhạy, phân tích, tổng kết thực tiễn, có thể đưa ra những quyết
sách đúng đắn, phù hợp thực tế thì mọi cán bộ, đảng viên cần phải học tập,
nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là trình độ lý luận chính trị. Một trong những
điều kiện quyết định sự thành công trong công tác lãnh đạo của Đảng là đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải không ngừng được nâng cao về trình độ
lý luận chính trị, tức là nâng cao khả năng nhận thức, khả năng tư duy lý luận
đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng. Vì vậy,
trong những năm qua Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng
trong việc giáo dục, học tập lý luận chính trị nhằm nâng cao trình độ lý luận
chính trị trong Đảng. Tổ chức hệ thống các trường Đảng từ Trung ương đến
địa phương, kết hợp mở các lớp dài ngày, ngắn ngày coi hình thức học tập tại
chức là chính.
Nâng cao trình độ lý luận cần phải nâng cao chất lượng giáo dục lý luận
chính trị; tổng kết thực tiễn; quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ, tất cả các khâu
đó phải được làm chặt chẻ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ về mọi mặt.
1.1.2. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Ở nước ta cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị được chia làm 4 cấp:
Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện và cơ sở.
Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) gọi chung là cấp xã, là cấp cuối cùng trong sự
phân cấp hành chính. Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt
chẽ trong quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hoá. Cấp cơ sở có một vị trí rất

22



×