Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Thực tế chấp hành các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn tại xã Bộc Nhiêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.67 KB, 87 trang )

LỜI CẢM ƠN
Mọi sự thành công đều bắt nguồn từ sự nỗ lực của bản thân và sự
chỉ bảo của những người đi trước. Đề tài này được hoàn thành khơng chỉ
bởi sự cố gắng của bản thân mình mà cịn nhờ sự chỉ bảo dạy dỗ của các
thầy cơ trong trường cũng như ngồi trường Đại học Cơng đồn. Nhân
đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy, cô giáo trong
khoa Luật của trường Đại Học Cơng Đồn, và đặc biệt cảm ơn sâu sắc
đến cô giáo Trần Thị Lịch người đã giúp đỡ nhiệt tình, chỉ bảo tận tình
và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong q trình hồn thành đề tài này.
Khơng có những lời hướng dẫn dạy bảo của cơ thì bài khóa luận này rất
khó để hồn thiện được. Đồng thời em vô cùng cảm ơn các chú, các bác
trong ban lãnh đạo của UBND xã Bộc Nhiêu đã tạo điều kiện thuận lợi
cho em hoàn thành đề tài này. Cảm ơn gia đình, bạn bè và những người
xung quanh em đã luôn giúp đỡ, an ủi động viên em trong suốt quá trình
này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, quý cơ quan và
bạn bè. Bài khóa luận này bước đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về các quy
định của pháp luật trong thực tiễn, kiến thức của bản thân em còn hạn
chế và nhiều bỡ ngỡ. Do vậy không tránh khỏi những thiếu xót và hạn
chế, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của q thầy cơ và
bạn bè để bài khóa luận của em hồn thiện hơn.
Sau cùng em xin gửi lời kính chúc đến các thầy cơ giáo khoa Luật
trường Đại Học Cơng Đồn và cơ giáo Trần Thị Lịch thật dồi dào sức
khỏe, niềm tin và tâm huyết để thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là
truyền đạt kiến thức cho những thế hệ mai sau!

1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu


Hôn nhân là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự trưởng thành của mỗi
con người. Người xưa có câu “ trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng” đó là
quy luật tự nhiên của con người và tạo hóa. Hơn nhân và gia đình ln là
một vấn đề quan trọng của mỗi con người. Hơn nhân bình đẳng hạnh
phúc thì gia đình mới có thể hạnh phúc và bền vững, xã hội mới có thể
phát triển văn minh hiện đại và tiên tiến. Ngày nay, với sự du nhập của
văn hóa nước ngồi và sự tiến bộ khơng ngừng của công nghệ thông tin,
sự phổ biến rộng rãi của các trang mạng xã hội thì dường như thế hệ trẻ
dễ dãi hơn trong tình u và hơn nhân. Sự thiếu hiểu biết về cuộc sống
hôn nhân hoặc sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ là nguyên nhân sâu xa
dẫn đến tình trạng kết hơn sớm, tảo hơn hay cưới chạy…đặc biệt phổ
biến trên địa bàn các xã vùng miền núi, nơi mà trình độ dân trí cịn chưa
cao và còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều những hủ tục về hơn nhân nặng nề,
đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Chính những
điều này làm cho những cuộc hôn nhân đi trái với đạo đức và nguyên tắc
chung của pháp luật. Hiện nay, trong luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 đã chỉ ra những nguyên tắc chung về điều kiện kết hôn và các
trường hợp cấm kết hôn theo quy định của pháp luật. Vậy thế nào là kết
hôn đúng pháp luật? điều kiện kết hôn như thế nào? Và thực tế áp dụng
các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn tại địa bàn xã miền núi
ra sao? Đề tài này xin phép được nghiên cứu về chế độ pháp lý về điều
kiện kết hôn trên địa bàn xã Bộc Nhiêu huyện Định Hóa tỉnh Thái
Nguyên để có thể đưa ra một góc nhìn cụ thể hơn thực tế hơn về việc áp
2


dụng các quy định của pháp luật trong việc đăng kí kết hơn trên khu vực
các xã miền núi.

2. Mục đích nghiên cứu

Xuất phát từ mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu rõ hơn về các quy
định của pháp luật về điều kiện kết hơn đồng thời phân tích được thực tế
áp dụng những quy định đó trong thực tiễn cuộc sống trên địa bàn dân cư
cụ thể để có cái nhìn khái quát nhất về việc áp dụng những quy định của
luật Hơn nhân và gia đình trong thực tế cuộc sống. Ngoài ra với mong
muốn phổ biến rộng rãi pháp luật về Hơn nhân và gia đình đến với người
dân các xã trên địa bàn miền núi vùng sâu vùng xa đặc biệt là giới trẻ
những người chủ nhân tương lai của đất nước để họ có cái nhìn đúng
nhất về hơn nhân và gia đình, đồng thời khắc họa những thực tế còn tồn
đọng trong việc đăng kí kết hơn ở địa bàn trên, đưa ra những kiến nghị
và hướng giải quyết phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và phong tục của
mỗi nơi.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về “ chế độ pháp lý về điều kiện kết hôn tại địa
bàn xã Bộc Nhiêu huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên” được giới hạn ở
việc nguyên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
luật Hôn nhân và gia đình trên địa bàn xã Bộc Nhiêu huyện Định Hóa,
tỉnh Thái Nguyên. Bằng những quy định cụ thể trong các văn bản luật và
với những kinh nghiệm thực tế thì các cán bộ Tư pháp trong địa bàn xã

3


đã áp dụng và thực tiễn đăng kí kết hơn như thế nào? Kết quả đạt được ra
sao? Những vướng mắc gì cịn tồn tại và hướng giải quyết như thế nào.
Bài làm này của tôi xin phép được xoay quanh trả lời các câu hỏi đã nêu
trên.

4. Phương pháp nghiên cứu

Xuất phát từ những yếu tố trên, đề tài khóa luận nghiên cứu về “
chế độ pháp lý về điều kiện kết hôn trên địa bàn xã Bộc Nhiêu, huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chính như: Phân tích, so sánh, bình luận để làm nổi bật vấn đề chính và
phân tích được rõ rang những quy định của pháp luật hiện hành.

5. Kết cấu của đề tài
Chia làm 3 phần chính:
 Phần mở đầu
 Phần nội dung
Chương 1: Lý luận chung về điều kiện kết hôn
Chương 2: Thực tế chấp hành các quy định của pháp luật về điều kiện
kết hôn tại địa bàn xã Bộc Nhiêu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Dự báo tình hình áp dụng các quy định về điều kiện kết hôn
trên địa bàn xã Bộc Nhiêu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, các kiến
nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật
 Phần kết luận

4


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT
HÔN

Khái niệm về kết hơn
1.1.1 Kết hơn là gì?
1.1

Kết hơn hay cịn gọi là hôn nhân là sự tạo lập cuộc sống chung hồn
tồn của một người đàn ơng và một người phụ nữ, sự sống chung hoàn

toàn này bao gồm cả những yếu tố về mặt vật chất như cùng ở chung
dưới một mái nhà, ăn cùng một mâm, hưởng chung những sung sướng
vật chất như tiền bạc hoặc đồng lao cộng khổ để trở nên hạnh phúc, cùng
có đủ những nhu cầu của cuộc sống. nhờ tình yêu thương gắn bó của hai
bên mà tạo dựng nên một mái ấm gia đình. Tiền của và những thành
cơng của người đàn ông là người chồng cũng được coi là tiền của của
người phụ nữ- người vợ và ngược lại. khơng có một sự ghen tng nào
chia rẽ được họ vì họ có sợi dây ràng buộc hai người lại với nhau đó là
những đứa con chung. Do một sự ngẫu hợp của hoàn cảnh, họ ngẫu
nhiên gặp nhau và khi cảm thấy hợp nhau, yêu thương nhau tất yếu dẫn
đến lấy nhau, ăn đời ở kiếp với nhau cái đó gọi là hôn nhân.
Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người
nữ, sự lien kết đó phải được Nhà nước thừa nhận bằng sự phê chuẩn
dưới hình thức pháp lý- đó là đăng kí kết hơn. Như vậy đăng kí kết hơn
làm xác lập quan hệ hơn nhân và là cơ sở hình thành nên gia đình. Trong
xã hội có giai cấp, quan hệ hơn nhân bị chi phối bởi ý chí của giai cấp
thống trị. Thông qua Nhà nước và bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác

5


động vào hệ thống hơn nhân và gia đình, làm cho những quan hệ này
phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó.
Hình thức hơn nhân bắt đầu từ rất sớm, từ thời kì phong kiến đã
xuất hiện hôn nhân. Pháp luật quy định, việc kết hôn của nam nữ phải
được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc họ hàng thân thích. Tuy nhiên hình
thức hơn nhân lúc bấy giờ mang nặng tư tưởng gia giáo phong kiến mà
điển hình cho nó là chế độ đa thê- nghĩa là một người chồng có thể có
nhiều người vợ. Vẫn là cùng chung lưng đấu cật gây dựng cuộc sống
những ở xã hội lúc đó người phụ nữ không được coi trọng tất cả phải phụ

thuộc vào người đàn ơng của mình. Đó vẫn được coi là hơn nhân nhưng
hơn nhân khơng bình đẳng. Khi kinh tế phát triển kéo theo đó là sự văn
minh và hiện đại vai trò của người phụ nữ trong xa hội ngày một nâng
nên, quyền con người dần được bảo đảm thì xuất hiện một hình thức hơn
nhân mới đó là hơn nhân bình đẳng một vợ một chồng. Pháp luật Nhà
nước hiện nay quy định, việc kết hôn của nam, nữ phải dựa trên nguyên
tắc hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa và phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội. Vì vậy
nhà nước ta ln củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp
nhằm ổn định quan hệ này. Hiến pháp 2013 cũa quy định rõ ràng: “ Nhà
nước bảo hộ chế độ hơn nhân và gia đình…” 1. Kết hơn là việc nam nữ
xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết
hơn và đăng kí kết hôn. Hệ thống pháp luật nước ta quy định việc kết
hơn phải được đăng kí tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong
trường hợp hai người kết hơn là công dân Việt Nam, kêt hôn với nhau ở
Việt Nam thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp
1

Trích Hiến pháp nước Cộng Hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

6


cơ sở, nơi cư trú của hai bên nam nữ. Trường hợp kết hơn có yếu tố nước
ngồi mà việc kết hơn tiến hành ở Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam tiến hành đăng kí việc kết
hơn.
Hệ thống pháp luật về hơn nhân, gia đình quy định nam nữ kết hôn
phải đảm bảo hai yếu tố sau:

Thứ nhất, phải thể hiện ý chí của cả nam và nữ, mong muốn kết hôn
với nhau. Yếu tố này là yếu tố quan trọng đầu tiên, nghĩa là hai bên nam
nữ phải mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng, phải thống nhất về mặt ý
chí đồng thời phải thể hiện rõ ràng rằng họ hồn tồn muốn kết hơn với
nhau. Nam nữ kết hơn là muốn gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng
và cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng , tiến bộ, hạnh phúc
bền vững ( điều 4 luật Hơn nhân và Gia đình 2014). Vì vậy, sự tự
nguyện của nam nữ trong kết hôn vừa là điều kiện đảm bảo cho hơn
nhân có giá trị pháp lí đồng thời cũng là cơ sở để xây dựng gia đình bền
vững. Đối với những trường hợp kết hơn có sự lừa dối hoặc cưỡng ép
hoặc kết hơn giả thì nhà nước khơng thừa nhận việc kết hơn đó hợp
pháp.
Thứ hai là việc kết hơn đó phải được nhà nước thừa nhận. Hôn nhân
chỉ được nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ
các quy định của pháp luật về điều kiện kết hơn và đăng kí kết hơn. Tư
tưởng của C.Mác chỉ rõ: “ Không ai bị buộc phải kết hôn,nhưng ai cũng
bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hơn… hơn
nhân khơng thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái lại sự
tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hơn nhân.” 2 Như
2

Trích Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người và giải phóng con người.

7


vậy, để việc kết hôn phù hợp với những quy định của pháp luật, cơ quan
đăng kí kết hơn sau khi nhận hồ sơ xin đăng kí kết hơn phải tiến hành
điều tra những gì mà hai bên đã khai, nếu đúng sự thật và phù hợp với
điều kiện đăng kí kết hơn thì cơ quan tiến hành đăng kí kết hơn theo

đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định.
Cụ thể hơn nữa thì theo khoản 5 điều 3 luật Hơn nhân và Gia đình
năm 2014 quy định:
“Kết hơn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hơn.3”
1.1.2 Nhận thức của mỗi người về kết hơn.
Vậy kết hơn có ý nghĩa gì và nhận thức mỗi người đặc biệt là thanh
niên nam nữ trước vấn đề kết hôn này ra sao? Nếu bạn hỏi bất cứ một
người con trai hay con gái nào về kết hơn thì bạn sẽ nhận được hai kiểu
trả lời cơ bản như: kết hôn là lấy nhau mà lấy nhau nghĩa là cho người
lớn đến nhà xin cưới nó có thể đa dạng như các lễ dạm ngõ, ăn hỏi,vu
quy… cô dâu chú rể về sống với nhau rồi cung làm ăn sinh con cái sống
với nhau đến già hoặc là kiểu trả lời kết hôn là ra ủy ban xã phường đăng
kí kết hơn… đó là sự hiểu biết của hầu hết các bạn trẻ về hộn nhân hiện
nay. Bởi lẽ, các bậc cha mẹ trong gia đình, thầy cơ giáo trong lớp học ít
giải thích về vấn đề kết hơn hay hơn nhân vì thế giới trẻ thời nay khó có
thể hiểu được ý nghĩa thực sự của việc kết hơn và mục đích cao cả của
nó. Chỉ đến khi trưởng thành khi bước chân vào độ tuổi dậy thì với
những ước mơ sống chung với một người khác phái, những kích thích về
ham muốn bản năng hoặc ham muốn vật chất đã vơ tình khiến các bạn
trẻ hiểu lầm hoặc mơ mộng rằng họ sinh ra là của nhau, để rồi vội vàng
3

Luật Hôn nhân Và Gia đình 2014

8


kết hôn hoặc trải nghiệm cảm giác sống chung trước hơn nhân sau đó
một thời gian ngắn họ nhận ra rằng mình chẳng hiểu gì về đối phương và

cũng khơng thể kéo dài cuộc sống như thế này, người con trai lại bỏ mặc
người con gái để đi tìm nửa kia phù hợp trong khi hậu quả thì đa số là
con gái gánh vác. Một gia đình tan nát hay khơng có hạnh phúc chung
quy cũng là do sự ngộ nhận của giới trẻ về kết hôn quá đơn giản hoặc do
người cha người mẹ của mình hoặc người phụ nữ chưa làm trịn bổn
phận của mình đối với gia đình gây ra hai đường đi hai lối rẽ. Nhìn
chung giới trẻ ngày ngày hiểu biết quá sơ sài về kết hơn. Họ thích thì họ
sống thử trước hơn nhân hết thích thì đường ai lấy bước. Những người
đàn ơng thành đạt một chút có vợ con đàng hồng thì lại dở thói trăng
hoa, mọi thứ đã và đang làm mất dần đi những thuần phong mĩ tục của
con người, đi ngược lại các quy tắc và chuẩn mực chung của pháp luật.
Chính vì những lý do trên mà có rất nhiều đứa trẻ được sinh ra ngồi dã
thú, có rất nhiều đứa trẻ bị bỏ rơi ngay sau khi sinh tại bệnh viện và cịn
rất nhiều gia đình li tán nhau vì sự thiếu hiểu biết về pháp luật Hơn nhân
và gia đình hay hiểu rồi, biết rịi nhưng vẫn cố tình làm trái, cố tình vi
phạm.

1.1.3 Các quy định của pháp luật về chế độ hôn nhân ở nước ta.
Nhà nước luôn bảo đảm những quyền lợi của mọi cơng dân một
cách bình đẳng nhất. Trong xã hội hiện nay tình trạng cưỡng ép ly hơn
hay kết hơn giả tạo là đều khơng cịn lạ lẫm vì vậy để đảm bảo quyền lợi
cho mọi người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, Luật Hôn nhân và Gia đình

9


đã đưa ra những nguyên tắc chung mang tính bắt buộc nhằm đảm bảo
quyền lợi cho mọi người như:
Theo điều 2 luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định:
Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình

1. Hơn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hơn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa
người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín
ngưỡng với người khơng có tín ngưỡng, giữa cơng dân Việt Nam với
người nước ngồi được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình
có nghĩa vụ tơn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; khơng phân
biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia
đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ;
thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
Bên cạnh đó nhà nước cịn ban hành những quy định về trách nhiệm
của nhà nước và những biện pháp bảo vệ chế độ hôn nhân như:
Điều 4. Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hơn nhân và gia
đình

10


1. Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hơn nhân và gia đình, tạo
điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh
phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về hơn nhân và gia đình; vận động nhân
dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hơn nhân và gia đình, phát
huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi
dân tộc.

2. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hơn nhân và gia đình. Các
bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia
đình theo sự phân cơng của Chính phủ. Ủy ban nhân dân các cấp và các
cơ quan khác thực hiện quản lý nhà nước về hơn nhân và gia đình theo
quy định của pháp luật.
3. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục, vận động cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động, các thành viên của mình và mọi cơng
dân xây dựng gia đình văn hóa; kịp thời hịa giải mâu thuẫn trong gia
đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên gia đình. Nhà
trường phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về hơn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ.
Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hơn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định
của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

11


b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hơn, cản trở kết hơn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha,
mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi,
cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của
vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương
mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi,
sinh sản vơ tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hơn nhân và gia đình để mua bán
người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác
nhằm mục đích trục lợi.
3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình phải được xử
lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền u cầu Tịa án, cơ quan khác có
thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có
hành vi vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình.

12


4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác
của các bên được tơn trọng, bảo vệ trong q trình giải quyết vụ việc về
hơn nhân và gia đình.

1.1.4 Mối quan hệ giữa vợ và chồng sau kết hơn
Sauk hi đăng kí kết hơn vợ chồng có mối quan hệ gặn bó với nhau cụ thể
là hai nhóm quan hệ chính:
- Quan hệ nhân nhân
Nghĩa là quan hệ thân thiết gắn bó, yêu thương quan tâm chăm sóc và
giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Khi vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân
sự thì người cịn lại có quyền đứng ra đại diện và chịu trách nhiệm liên
đới đối với hành vi của người còn lại. Đồng thời đáp ứng nhu cầu về mặt
cuộc sống cho đối phương. Điều này thể hiện rõ trong văn bản luật, cụ

thể là trong luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau
“Điều 17. Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công
dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên
quan
Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng
1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tơn trọng, quan tâm,
chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các cơng việc
trong gia đình.

13


2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng
có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập,
tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính
đáng khác.
Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt
giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và
các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt
giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật
khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự
mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người
đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của
pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên

quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà
bên kia có u cầu Tịa án giải quyết ly hơn thì căn cứ vào quy định về
giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho
người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn”
- Quan hệ về tài sản
Vợ chồng có tài sản chung được tạo lập ra trong quá trình chung
sống, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu

14


nhập hợp pháp khác trong thời kì hơn nhân và tài sản đó thuộc sở hữu
chung hợp nhất của hai vợ chồng. điều này được thể hiện rõ trong luật
hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp
được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hơn là tài sản
chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản
riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng
để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ
chồng.
3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ,

chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó
được coi là tài sản chung”
Như vậy có thể nói rằng kết hơn khơng chỉ đơn thuần là xác lập mối
quan hệ vợ chồng và hợp pháp hóa hành động sống chung mà kết hơn
cịn là một dấu mốc quan trọng xác lập thêm những mối quan hệ mới
giữa vợ và chồng. Tạo cho đôi bên tâm lý quan tâm trọng sóc và coi
trọng bạn đời của mình. Kết hơn cịn là mộ dấu mốc đánh dấu cho sự
15


khởi đầu cho sự tạo lập một khối tài sản chung của cả hai vợ chồng để
phục vụ nhu cầu của cuộc sống gia đình và ni dạy thế hệ tương lai.
1.2 Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình
2014
Kết hơn là việc hai bên nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng, là mốc
khởi đầu của quan hệ hôn nhân. Nhà nước qui định điều kiện hôn nhân
nhằm hướng đến xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, hơn nhân tự
nguyện tiến bộ. Điều kiện hôn nhân bao gồm những điều kiện về mặt nội
dung và hình thức-pháp luật chỉ bảo vệ quan hệ hôn nhân tuân thủ đầy
đủ những điều kiện này. Điều kiện kết hôn về mặt nội dung: điều kiện về
độ tuổi, điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết
hôn, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
được qui định tại điểm a,b,c,d và khoản 2 điều 5 của luật Hơn nhân và
Gia đình 2014. Điều kiện kết hơn về mặt hình thức: đăng kí kết hơn.
Theo điều 8 luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định về điều kiện kết
hôn như sau:
Điều 8. Điều kiện kết hôn
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

16


2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới
tính.
1.2.1 Điều kiện về độ tuổi kết hơn
Theo điềm a, khoản 1, điều 8, luật hôn nhân gia đình năm 2014 qui
định: “ Nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở
lên.”. Qui định này kế thừa từ khoản 1 Điều 9, luật hơn nhân và gia đình
năm 2000. Xuất phát từ những cơ sở khoa học về tâm lí lứa tuổi, sức
khỏe con người Việt Nam, việc pháp luật qui định nam từ đủ 20 tuổi trở
lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn là nhằm bảo đảm sự phát
triển về mặt thể chất, con cái sinh ra được khỏe mạnh, bảo đảm cho đôi
nam nữ thực hiện các chức năng sinh đẻ, giáo dục con cái và nhận thức
đầy đủ trách nhiệm của mình đối với gia đình. Đây là qui định thể hiện
sự quan tâm của nhà nước đối với sức khỏe cộng đồng và đảm bảo thực
hiện tốt chức năng của gia đình. Một trong những chức năng đó là sinh
con nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Theo nghiên cứu của nền y học
hiện đại thì nam từ khoảng 16 tuổi trở lên và nữ khoảng 13 tuổi trở lên
đã có khả năng sinh sản. Nhưng để đảm bảo cho con sinh ra được khỏe
mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh, bảo đảm sức khở của người phụ
nữ khi mang thai thì nam phải khoảng từ 20 tuổi và nữ khoảng 18 tuổi
trở lên. Vì vậy luật hơn nhân gia đình mới quy định độ tuổi kết hôn là
nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, quy định này đảm bảo con
cái sinh ra được khỏe mạnh về cả trí tuệ và thể lực, có sự phát triển hồn
tồn tốt nhất để trở thành cơng dân có ích cho xã hội.

Căn cứ vào sự phát triển của tâm lý con người khi nam nữ đạt độ
tuổi trưởng thành sẽ có những suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong
việc kết hơn của mình. Đó cũng là một trong những yếu tố để đảm bảo

17


cho hơn nhân có thể tồn tại bền vững. Đồng thời, khi đạt độ tuổi trưởng
thành nam nữ có thể tự mình lựa chọn quyết định việc kết hơn, do vậy sẽ
đảm bảo được sự tự nguyện của nam nữ khi kết hôn. Mặt khác khi đảm
bảo về độ tuổi trưởng thành nam nữ có thể tham gia vào quá trình lao
động tạo ra thu nhập, điều đó có nghĩa là sẽ đảm bảo cho họ một cuộc
sống ổn định về mặt kinh tế sau kết hôn. Đây là một yếu tố quan trọng để
đảm bảo cho quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững.
So với quy định của luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 thì điểm
mới trong quy định về độ tuổi kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình
2014 là một thay đổi mang tính chất quan tâm và giới hạn hơn. Trước
đây nam chỉ cần 20 hoặc sắp sửa đến tuổi 20 và nữ cũng chỉ cần 18 tuổi
đã có thể đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đến
thời điểm hiện tại khi sự trưởng thành của giới trẻ ngày càng nhanh
chóng cùng với đó là những trào lưu du nhập từ nước ngoài về đã tạo
nên một lối sống phóng khống và thiếu trách nhiệm hơn trước. Có rất
nhiều các trẻ vị thành niên đã có cuộc sống như vợ chồng trước hôn nhân
với nhau, điều này ảnh hưởng khơng nhỏ đến thành tích học tập cũng
như sự phát triển của các em. Đã có rất nhiều những hậu quả khơng
mong muốn xảy ra đó là tình trạng bà mẹ vị thành niên hay ơng bố trẻ
cịn đang học cấp 3. Với những ông bố bà mẹ trẻ như vậy khi tương lai
cịn chưa xác định rõ thì làm sao đủ điều kiện lo cho con cái mình. Vì thế
điểm mới trong quy định này của pháp luật nhằm tạo nên một hành lang
pháp lý để cho những thanh niên phải đủ độ tuổi, đủ chín chắn và có

trách nhiệm với cuộc sống của mình mới có đạt điều kiện để đăng kí kết
hơn.
Thêm vào đó việc quy định rõ ràng cụ thể về độ tuổi kết hôn sẽ hạn
chế được tình trạng tảo hơn hay đăng kí kết hôn theo tuổi đẻ. Ở Việt
18


Nam chúng ta khi một đứa trẻ ra đời mặc nhiên đã được coi là một tuổi.
Tuổi này thường được gọi là tuổi đẻ, vì vây khi đăng kí kết hôn rất nhiều
người không đủ tuổi đã khai thêm tuổi đẻ để được đăng kí. Chính những
điều này đã là một lỗ hổng không nhỏ để các bạn nam nữ thnah niên
chưa đủ tuổi đăng kí lách luật đăng kí kết hơn. Vì vậy việc quy định cụ
thể, rõ ràng chi tiết độ tuổi kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình đã
phần nào khắc phục được những lỗ hổng cịn tồn đọng như trên. Hơn nữa
điều đó cũng đảm bảo được sự phát triển toàn diện về cơ thể cũng như trí
tuệ của con người. tạo nên tiền đề tốt cho một gia đình hạnh phúc, bền
vững trong tương lai khi những ông bố bà mẹ đã thực sự trưởng thành và
ý thức được trách nhiệm của bản thân mình.
Hơn nữa, việc quy định kết hơn của nữ bước sang tuổi 18 được coi
là hợp pháp, tuy nhiên pháp luật lại khơng quy định cụ thể họ có quyền
tham gia tất cả các giao dịch liên quan đến tài sản trong hôn nhân. Theo
pháp luật hiện hành, nhiều giao dịch (giao dịch về bất động sản, tín
dụng…) địi hỏi chủ thể của giao dịch phải từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, cá nhân phải đủ 18 tuổi trở lên
mới có thể tự mình là chủ thể của quan hệ tố tụng. Như vậy, Luật hơn
nhân và gia đình năm 2014 quy định nâng độ tuổi kết hôn nhằm thống
nhất với những quy định của pháp luật về người thành niên là người từ
đủ 18 tuổi trở lên, có thể tham gia các giao dịch pháp luật. Mặt khác,
việc quy định nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hơn có mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nữ giới trong tố tụng dân sự.

Khi đủ 18 tuổi, nữ giới có thể tự mình xác lập các u cầu dân sự như ly
hơn mà khơng cần có người đại diện.
1.2.2 Điều kiện về sự tự nguyện bình đẳng giữa hai bên

19


Điều kiện này được qui định tại điểm b,khoản 1, điều 8, luật hơn
nhân và gia đình năm 2014: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết
định”, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được
cưỡng ép hoặc cản trở.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt của
luật hôn nhân và gia đình các năm 1959, 1986, 2000,2014 nhằm xóa bỏ
hồn tồn chế độ hơn nhân cưỡng ép, phụ thuộc vào cha mẹ của chế độ
hơn nhân gia đình phong kiến và xây dựng chế độ hôn nhân mới xã hội
chủ nghĩa. Trong xã hội phong kiến việc kết hôn của con cái là do cha
mẹ định đoạt “ cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”4 vì thế mới có rất nhiều các
trường hợp kết hơn khơng tình u hoặc không hề hiểu về đối phương
một chút nào, điều này đã dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, người phụ
nữ cam chịu nhẫn nhục, hoặc gia đình li tán. Từ khi nước Việt Nam ra
đời chủ tịch Hồ Chí Minh đã ln đề cao quyền bình đẳng của con
người, nó bao gồm: quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc5. Hơn nhân chính là quyền bình đẳng trong mưu cầu hạnh phúc. Tự
nguyện kết hôn là biểu hiện rõ nét nhất cho quyền bình đẳng này, việc
hai bên nam, nữ thể hiện sự đồng ý trở thành vợ chồng của nhau, mỗi
bên không bị tác động ý chí của bên kia hay của bất kì người nào khiến
cho họ phải kết hơn mà khơng có tình yêu. Kết hôn là quyền chứ không
phải là nghĩa vụ. Nó là quyền được lựa chọn người để mình u thương,
quyền chọn người để mình tin tưởng và gắn bó lâu dài. Vì vậy, khơng thể
có hơn nhân ngồi ý muốn của người kết hôn. Đây là điều kiện rất quan

trọng được pháp luật nhiều nước quan tâm, phát triển.

4
5

Trích ca dao, tục ngữ Việt Nam
Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.

20


Cuộc sống gia đình chỉ thực sự hạnh phúc khi được xây dựng trên
cơ sở sự hòa hợp và tự nguyện của hai bên nam, nữ. Sự cưỡng ép, lừa
dối từ hai phía đối với nhau, sự cưỡng ép hay cản trở từ phía gia đình xã
hội đều khơng thể đem lại hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng. Có rất
nhiều những ông bố bà mẹ trong xã hội này chỉ vì một chút sĩ diện, hoặc
vì lịng tham và cái lợi trước mắt đã vơ tình đẩy con cái mình vào địa
ngục mang tên gia đình. Cũng có rất nhiều những đơi bạn trẻ vì một chút
nơng nổi của tuổi trẻ mà bất chấp tính mạng, bất chấp gia đình, bất chấp
cơng ơn của cha mẹ để qn sinh bên người mà họ yêu thương. Đây là
một hành động đáng nên án, xã hội này rất công bằng và phát triển ai
cũng có quyền đấu tranh cho hạnh phúc của mình, bạn cịn sống là cịn
khả năng đấu tranh. Suy nghĩ bồng bột nông nổi chỉ khiến cơ hội của bạn
chấm hết. Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của các bên khi
xác lập một quan hệ pháp luật, một giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố
vô hiệu do bị lừa dối cưỡng ép 6; quan hệ kết hơn cũng có thể bị hủy khi
có dấu hiệu cưỡng ép, khơng tự nguyện.
Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng
đảm bảo cho hôn nhân bền vững và tồn tại lâu dài. Để đảm bảo cho việc
kết hơn hồn tồn tự nguyện những người muốn kết hơn phải cùng có

mặt tại cơ quan đăng kí kết hơn, nộp tờ khai xin đăng kí kết hơn. Trong
trường hợp đặc biệt nếu một trong hai người không đến nộp hồ sơ đăng
kí kết hơn mà có lí do chính đáng thì có thể gửi cho Ủy ban nhân dân nơi
đăng kí kết hơn hồ sơ vắng mặt, trong đó phải nêu rõ lí do vắng mặt, có
xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú. Tuy nhiên vào ngày
trao giấy chứng nhận đăng kí kết hơn thì cả đơi nam nữ bắt buộc phải có

6

Bộ luật Dân sự 2005.

21


mặt để kí xác nhận vào đăng kí kết hơn, chứng minh rằng mình hồn
tồn tự nguyện kết hơn với nhau.

1.2.3 Điều kiện về năng lực chủ thể
Một trong những quy định về điều kiện kết hôn của nam nữ trong
luật hơn nhân gia đình là : “ Khơng bị mất năng lực hành vi dân sự ”
đây là một yếu tố không chỉ đảm bảo cho hôn nhân bền vững mà còn
đảm bảo được quyền con người. Đối với những người bị mất năng lực
hành vi dân sự hay nói cách khác là bị bệnh tâm thầm hoặc các bệnh
liên quan mà khơng có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình
hoặc bị tồn án tun bố là mất năng lực hành vi dân sự thì việc kết hơn
với người khác là hồn tồn khơng được phép. Điều này thể hiện rõ ở
những lý do sau
Thứ nhất người mất năng lực hành vi sẽ khơng kiểm sốt được lời
nói hay tình cảm của bản thân, vì thế sẽ khơng hiểu được thế nào là tình
u, là hạnh phúc và gia đình. Mà theo Ph.Ăngghen đã khẳng định: “ Sự

luyến ái giữa đôi bên phải là lý do cao hơn hết thảy trong hôn nhân 7”
như vậy những người mất năng lực hành vi dân sự họ sẽ khơng hiểu
được thế nào là tình u, cũng khơng biết phải làm gì để duy trì tình yêu
và gia đình đó. Vì thế việc hết hơn với những người mất năng lực hành
vi dân sự là điều không được pháp luật cơng nhận.

7

Quan niệm của Ph.Ăngghen về tình u, hơn nhân và gia đình trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia
đình trong chế độ tư hữu và nhà nước”.

22


Thứ hai người mất năng lực hành vi dân sự thì sẽ khơng thể tham
gia lao động, cũng khơng được tham gia vào bất cứ giao dịch dân sự nào.
Họ không được công nhận trong tất cả lĩnh vực trong cuộc sống vì thế họ
khơng có khả năng kiếm tiền để duy trì sự tồn tại của gia đình. Đồng thời
việc kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự sẽ có nguy cơ dẫn
đến hậu quả là kéo theo căn bệnh di truyền đến thế hệ sau. Vì con cái là
sự di truyền của cha mẹ, nếu cha mẹ mạnh khỏe thơng minh thì con cái
cũng thừa hưởng điều đó, nếu cha mẹ có căn bệnh di truyền thì tỉ lệ mắc
bệnh ở thế hệ con cái là trên 70%. Vì vậy việc cấm kết hơn với người
mất năng lực hành vi dân sự cũng là một trong những giải pháp hạn chế
gánh nặng cho xã hội, sở dĩ nói như vậy vì những người mất năng lực
hành vi dân sự chủ yếu sống bằng trợ cấp an sinh xã hội. Vì thế hạn chế
di truyền là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao đời sống nhân dân
và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ ba là khi nam nữ kết hôn giữa họ phát sinh quan hệ hơn nhân,
gia đình đồng thời phát sinh trách nhiệm đối với vợ, chồng con cái.

Nhưng những người mắc các bệnh về tâm thần không thể nhận thức làm
chủ hành vi của mình thì cũng khơng thể nhận thức và thực hiện được
trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ. Do vậy, nếu để họ kết
hôn sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ hoặc chồng và con cái họ.
Thêm vào đó một trong các điều kiện kết hơn là phải có sự tự nguyện
của hai bên nam nữ nhưng người đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh
khác mà không thể nhận thức hoặc làm chủ hành vi của mình thì khơng
thể thể hiện được ý chí của họ một cách đúng đắn trong việc kết hôn.
Như vậy là vi phạm quy định của pháp luật về kết hôn. Do vậy luật pháp
không công nhân hôn nhân với những người mất năng lực hành vi dân
sự.

23


1.2.4 Điều kiện về đăng kí kết hơn
Vấn đề đăng kí kết hơn được pháp luật quy định cụ thể tại điều 9
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014.
Điều 9. Đăng ký kết hôn
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì khơng
có giá trị pháp lý.
2. Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng
ký kết hơn.
Đăng kí kết hơn là thủ tục do Nhà nước qui định-như một điều kiện
về hình thức- nhằm cơng nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai
bên nam nữ là hợp pháp. Việc pháp luật qui định sự kiện kết hơn phải
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng nhận là sự ràng buộc pháp
lí, là cơ sở để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đăng

kí kết hơn là biện pháp để cơ quan Nhà nước có thể kiểm tra và kịp thời
ngăn chặn các hiện tượng vi phạm điều kiện kết hôn của nam nữ và
tuyên truyền, giải thích pháp luật cho họ hiểu. Qui định này phù hợp với
khoản 2 Điều 16 Cơng ước Cedaw- Cơng ước xóa bỏ mọi sự phân biệt,
đối xử với người phụ nữ, đó là hơn nhân : “bắt buộc phải có đăng kí kết
hơn trong hồ sơ chính thức của Nhà nước”.
Theo luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 tại Khoản 1, điều 11 đã
qui định “ nam, nữ khơng đăng kí kết hơn mà sống với nhau như vợ
24


chồng thì khơng được pháp luật cơng nhận là vợ chồng”. Luật hơn nhân
và gia đình năm 2000 khơng thừa nhận hôn nhân thực tế, thể hiện rõ thái
độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với những trường hợp kết hôn không
tuân thủ qui định của pháp luật. Ngoải ra, có những hồn cảnh đặc biệt
như đời sống cịn nhiều khó khăn của đồng bào vùng sâu, vùng xa, điều
kiện đi lại khó khăn, nên phải tạo thuận lợi cho nhân dân bằng cách tổ
chức đăng kí kết hơn lưu động. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại Luật
Hôn nhân và Gia đình 2014 sửa đổi đã bỏ đi những quy định về sống
chung trước hôn nhân hoặc sống chung mà không kết hôn, đồng thời
cũng bỏ đi sự ưu tiên kết hôn đối với đồng bào dân tộc miền núi mà chỉ
thay bằng quy định: “Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại
khoản này thì khơng có giá trị pháp lý.”
Như vậy có thể thấy rằng sự đổi mới của Luật Hơn nhân Gia đình
2014 đã thể hiện một thái độ nghiêm khắc, rõ ràng hơn nữa so với luật
Hơn nhân và gia đình 2000. Mọi trường hợp kế hơn khơng theo quy định
về mặt trình tự thủ tục mà pháp luật đã quy định thì đều không được
công nhận là đã kết hôn. Hơn nữa, những ưu tiên dành riêng cho các dân
tộc thiểu số vùng sâu vùng xa đã khơng cịn được thể hiện, điều này tạo
nên sự bình đẳng cho mọi cơng dân trước pháp luật. Việc đăng kí kết hơn

được thống nhất trên tồn quốc.
1.2.5 Kết hơn khơng thuộc các trường hợp cấm
Theo điểm d khoản 1 điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy
định: Kết hơn khơng thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm
a,b,c,d khoản 2 điều 5 của luật này bao gồm:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

25


×