THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1. Vài nét đánh giá chung về thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam
hiên nay
1.1. Thị trường bảo hiểm con người vẫn còn là mới mẻ đối với người dân
Việt Nam
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau để tạo nên sự “mới mẻ” của lĩnh vực
bảo hiểm con người đối với người dân Việt Nam, nhưng có một số nguyên nhân
chủ yếu như sau:
* Nguồn gốc ra đời và phát triển
Nếu như làm một phép so sánh thì chúng ta thấy trên thế giới: bảo hiểm
nói chung và bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chính của bảo hiểm con người) đã ra
đời và tồn tại trong một thời gian dài còn ở Việt Nam mới được coi trọng và
phát triển trong khoảng trên 10 năm gần đây (từ năm 1993 khi Nghị định 100CP
của chính phủ ra đời). Vì vậy bảo hiểm con người còn “mới mẻ” đối với người
dân Việt Nam là điều dễ hiểu.
Hơn nữa để con người có thể tiếp nhận lĩnh vực bảo hiểm địi hỏi phải có
một q trình mọi người tìm hiểu, đánh giá rồi mới có thể đi đến quyết định tiếp
nhận không. Hơn 10 năm thực sự được ghi nhận và phát triển của bảo hiểm và
hơn 7 năm của bảo hiểm con người (từ Luật KDBH 2000) cịn q nhỏ so với
thời gian hình thành và phát triển của đất nước.
* Đời sống khó khăn thu nhập bình quân trên đầu người thấp khiến họ
phải lo cho cuộc sống nhiều hơn.
Ông Kenneth Juneau - tổng giám đốc công ty bảo hiểm AIA tại Việt Nam
cho biết: “Đa số người dân Việt Nam hầu như chưa hiểu biết về lĩnh vực bảo
hiểm”.[27]
Thật vậy, Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài, đến năm 1975
đất nước thống nhất. Người dân đi lên xây dựng kinh tế, từ một nền nông
nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, đó là một trở ngại lớn
cho sự phát triển của đất nước. Mỗi người phải lo cho cuộc sống hằng ngày,
cuộc sống gia đình, vì thế chưa thể có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để tham
gia bảo hiểm như người dân của các nước phát triển. Và thực tế là khi cuộc sống
đầy đủ, khi đời sống tinh thần được nâng cao, họ mới có thể nghĩ đến được các
dự định trong tương lai. Nếu hiện tại chưa đảm bảo thì làm sao có thể nghĩ đến
tương lai sau này.
* Nguyên nhân khác là do phong tục tập quán và đời sống tâm lí của
người dân Việt Nam
Người dân Việt Nam không muốn nghĩ đến rủi ro, khi tham gia bảo hiểm
họ thường nghĩ đến yếu tố tiết kiệm hơn là yếu tố bảo hiểm. Không những thế
tình cảm gắn bó giữa những người trong gia đình khiến họ khơng nghĩ đến mua
bảo hiểm cho những rủi ro trong tương lai (khi mua bảo hiểm cũng đồng nghĩa
với việc nghĩ dến việc ngày nào đó rủi ro sẽ xảy ra).
* Hệ thống pháp luật của Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm con người
còn chưa đầy đủ.
Hiện nay chủ yếu chỉ có Luật KDBH 2000 và Bộ luật dân sự 2005 cùng
với các thông tư hướng dẫn điều chỉnh lĩnh vực này nên chưa thể đáp ứng được
nhu cầu thực tế. Không chỉ vậy, sự mâu thuẫn, không thống nhất giữa các hệ
thống pháp luật gây khó khăn cho việc áp dụng. Những nguyên nhân này gây ra
các tranh chấp giữa DNBH và người tham gia bảo hiểm, làm giảm lòng tin của
người dân, tạo tâm lí lo sợ khi ký kết, làm cho lĩnh vực này còn “mới mẻ” đối
với người dân Việt Nam.
1.2. Thực trạng thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam
Ngành bảo hiểm nói chung phát triển trong những năm gần đây và doanh
thu của nó đóng góp vào GDP tăng dần lên. Năm 1993 doanh thu từ lĩnh vực
bảo hiểm chiếm 0.4% GDP của Việt Nam và vào năm 2005 con số này tăng lên
1%. Bộ tài chính hi vọng doanh thu của ngành này sẽ chiếm 4.2% GDP của đất
nước vào năm 2010. Đó là sự phát triển đối với bảo hiểm nói chung, cịn riêng
đối với lĩnh vực bảo hiểm con người theo số liệu thống kê thì Việt Nam có trên
6,5 triệu người mua bảo hiểm nhân thọ, 1,5 triệu người người tham gia bảo
hiểm học sinh, 5 triệu người mua bảo hiểm con người, và có 8 cơng ty bảo hiểm
nhân thọ và các cơng ty này cung cấp 100 sản phẩm.[25]
Nhìn vào số liệu trên so sánh với dân số Việt Nam và tốc độ tăng trưởng
kinh tế thì số lượng người tham gia bảo hiểm con người là quá nhỏ (trong khi
đó dân số là 82 triệu người, số dân dưới 30 tuổi chiếm khoảng 60%). Nhưng đây
là hiện tại, cịn tương lai ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói
riêng sẽ được cải thiện với số lượng hợp đồng bảo hiểm con người tăng lên vì
hiểu biết của người dân đã cải thiện. Để có thể đạt được điều này cần có sự cố
gắng của rất nhiều bên và đặc biệt là cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,
chi tiết.
2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm
con người
Như trên chúng ta đã biết sự khó hiểu trong các điều khoản của HĐBH
bởi lẽ các DNBH khi soạn thảo các nội dung của hợp đồng đưa ra rất nhiều các
giả định “Nếu... thì...” vì thực chất là bảo hiểm cho sự kiện xảy ra trong tương
lai (nếu có). Khơng ai có thể biết trước được sự kiện đó xảy ra hay khơng. Và
nếu trước khi ký kết hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã biết về sự kiện đó thì
HĐBH sẽ vơ hiệu do bị lừa dối.
Thực tế là có rất nhiều trường hợp khách hàng khi ký kết hợp đồng chưa
hiểu hoặc hiểu chưa hết được các quyền và nghĩa vụ của mình trong khi các đại
lý với các tư vấn viên muốn ký kết được nhiều hợp đồng với khách hàng thường
nêu lên các quyền hoặc các ưu đãi do ký kết hợp đồng mang lại mà quên đi việc
giải thích cho khách hàng các điều khoản có thể ảnh hưởng đến chính quyền lợi
của họ như: điều khoản miễn trách nhiệm, điều khoản giá trị hồn lại khi hợp
đồng đã có hiệu lực trên 2 năm...Các quy định của luật là điều kiện để HĐBH
con người được thực hiện, tránh tranh chấp xảy ra, tạo nên một môi trường pháp
lý lành mạnh. Nhưng thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo
hiểm con người ở Việt Nam vẫn tạo ra nhiều tranh chấp. Có rất nhiều các
nguyên nhân khác nhau và các nguyên nhân phổ biến là do DNBH từ chối trả
tiền bảo hiểm thiếu căn cứ pháp luật, do bên mua bảo hiểm, người được bảo
hiểm hoặc người thụ hưởng cố ý gây ra sự kiện bảo hiểm để được nhận tiền bảo
hiểm, do sự thiếu hoàn chỉnh trong quy định của pháp luật. Theo từ điển thuật
ngữ luật học: “Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là tranh chấp giữa các bên
trong việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng”.[19] Vì thế tranh chấp
HĐBH con người là sự xung đột bất đồng ý kiến giữa DNBH và bên tham gia
bảo hiểm trong việc thực hiện các điều khoản của HĐBH con người.
Chúng ta sẽ xem xét các vụ tranh chấp cụ thể sau đây:
2.1. Tranh chấp phát sinh từ nghĩa vụ cung cấp thông tin của khách hàng
Sau khi tiếp nhận những lời mời chào khó nỗi từ chối từ nhân viên tiếp thị
ngày 6/9/2000, bà Nguyễn Thị Oanh ngụ tại số 171/1B Cô Bắc, Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh quyết định tham gia bảo hiểm hỗn hợp 10 năm với cơng ty
Chinfon Manulife với mức phí 680.000 đồng/tháng. Trong HĐBH bà Oanh đã kê
khai theo mẫu nội dung mà Chinfon Manulife soạn sẵn, trong đó có phần bà đề
nghị công ty bảo hiểm kiểm tra y tế về tình trạng sức khoẻ nếu có u cầu và
được Chinfon Manulife tiến hành vào ngày 11/9/2000 trước khi hợp đồng có hiệu
lực.
Mọi việc diễn ra bình thường, đơn yêu cầu bảo hiểm của bà Oanh được
Chinfon Manulife chấp thuận. Cho đến ngày 15/9/2000, thấy có triệu chứng ho
khan, ói mửa, nhức mỏi hai vai, bà Oanh đến chẩn đoán tại Trung lâm lao phổi
Phạm Ngọc Thạch và phát hiện bị ung thư phế quản phổi di căn hạch. Điều trị ở
đấy một thời gian, bà Oanh được chuyển sang Trung tâm Ung bướu gần 6 tháng,
sau đó xuất viện về nhà riêng rồi qua đời. Trong thời gian bà Oanh nằm viện,
công ty Chinfon Manulife vẫn tiếp tục thu phí.
Sau đó ơng Cao Hữu Trí, con trai bà Oanh gửi thơng báo tới cơng ty xin
thanh tốn bảo hiểm tử vong nhưng thật bất ngờ đã bị công ty từ chối.
Bộ phận giải quyết khiếu nại của Chinfon Manulife cho biết, trước khi ký
bảo hiểm, bà Oanh đã đi khám vài lần ở các phòng mạch tư, đồng thời ngày 11/9
khi đến khám tại công ty với câu hỏi trong vịng 5 tháng trở lại đây, bà có ốm,
phẫu thuật, tham vấn y khoa hoặc điều trị tại bệnh viện? Bà Oanh cũng đã khơng
thơng báo về tình trạng bệnh lý của mình. Vì vậy, việc cơng ty Chinfon Manulife
bác đề nghị thanh toán bảo hiểm tử vong đối với trường hợp bà Oanh là hồn
tồn phù hợp. Ơng Trí nhận được thơng báo sẽ bồi thường só tiền bảo hiểm bằng
việc chi trả lại tồn bộ phí bảo hiểm đã đóng với số tiền 4.080.000 đồng là tổng
số phí thu trong 6 tháng.
Ông David Matthews, Tổng giám đốc Chinfon Manulife đã nói: Chúng tơi
khẳng định rằng bà Oanh đã không yêu cầu công ty bảo hiểm kiểm tra sức khoẻ
cho bà. Vì yếu tố tuổi cao và phạm vi mệnh giá bảo hiểm, công ty Chinfon
Manulife đã yêu cầu bà Oanh đến công ty kiểm tra sức khoẻ theo thủ tục thẩm
định thơng thường. Bà Oanh đã đến phịng khám y tế của chúng tôi vào ngày
11/9/200, tại thời điểm bà Oanh gặp bác sỹ của công ty, bác sỹ đã đặt ra cho bà
Oanh mọi câu hỏi liên quan đến các bệnh tật ghi trong đơn mua bảo hiểm và tìm
hiểu các kết quả khám sức khoẻ liên quan.
Bà Oanh đã khám bệnh ở một số phòng khám y khoa trước ngày bà nộp
đơn mua bảo hiểm. Tuy nhiên, bà Oanh đã không khai báo điều này với các bác
sỹ của chúng tôi kể cả lần bà đi khám bệnh vào ngày 9/9/2000 tức 2 ngày trước
khi kiểm tra sức khoẻ tại công ty chúng tôi. Những lần đi khám này, nếu như
chúng tôi được biết lẽ ra đã ảnh hưởng quan trọng đến quyết định chấp thuận
bảo hiểm của chúng tôi đối với đơn mua bảo hiểm. Do đó, quyết định cuối cùng
của chúng tơi căn cứ theo điều khoản HĐBH là buộc lòng phải từ chối u cầu
thanh tốn bảo hiểm cho bà Oanh đã khơng thực hiện nghĩa vụ khai đúng và đầy
đủ mọi thông tin như yêu cầu, dẫn đến huỷ bỏ HĐBH và cơng ty hồn lại phí đã
đóng.[13]
Rõ ràng khi tranh chấp xảy ra, cả 2 bên đều đưa ra lý luận để bảo vệ cho
quyền lợi của mình. Đối với cơng ty Chinfon Manulife chỉ căn cứ vào một
nguyên nhân là khách hàng đã không trung thực khi trả lời các câu hỏi trong
hợp đồng là thiếu thuyết phục. Có thể nói phần lỗi của khách hàng thiếu trách
nhiệm trong khi trả lời câu hỏi mang tính trắc nghiệm nhưng cũng khơng thể vì
thế mà buộc khách hàng của mình khơng được nhận tiền bảo hiểm. Cịn việc bà
Oanh đi khám bệnh ngày 9/9/2000 có thể là việc kiểm tra sức khoẻ bình thường
và khơng thể vì thế mà Chinfon Manulife quy kết là không thông báo với công
ty. Nếu trong ngày kiểm tra sức khoẻ này nếu bà Oanh biết về tình trạng bệnh
tật của mình mà khơng thơng báo với cơng ty thì cơng ty Chinfon Manulife phải
chứng minh được điều đó và huỷ hợp đồng. Cịn kiểm tra sức khoẻ mà bà Oanh
khơng biết được tình trạng bệnh tật của mình thì vẫn thuộc trường hợp sự kiện
bảo hiểm đã xảy ra nhưng bên mua bảo hiểm khơng biết về sự kiện bảo hiểm đó
xảy ra thì hợp đồng bảo hiểm vẫn có hiệu lực.
Nhưng ở đây, công ty Chinfon Manulife đã căn cứ vào việc không khai
báo của khách hàng để huỷ hợp đồng là khơng hợp lý. Hơn nữa chính bà Oanh
đã u cầu công ty kiểm tra sức khoẻ (hoặc không yêu cầu như ơng Tổng giám
đốc đã nói) thì thủ tục thẩm định sức khoẻ cho khách hàng vẫn phải được tiến
hành và bác sỹ của công ty phải biết được tình trạng sức khoẻ của khách hàng
khi ký kết. Khơng thể nói như ơng Tổng giám đốc của cơng ty “Nếu như chúng
tôi được cho biết lẽ ra đã ảnh hưởng quan trọng đến quyết định chấp thuận bảo
hiểm của chúng tơi đối với đơn mua bảo hiểm”. Vì đây là công việc mà DNBH
phải làm trước khi ký hợp đồng để đảm bảo cho quyền lợi của chính mình (họ là
đội ngũ bác sỹ với nhiệm vụ kiểm tra chứ khơng phải làm nhiệm vụ theo lời nói
của khách hàng).
Khi tranh chấp xảy ra ảnh hưởng đến thời gian, vật chất và đặc biệt là ảnh
hưởng đến uy tín của DNBH, làm giảm lòng tin ở khách hàng. Trong việc cạnh
tranh của thị trường ngày nay đòi hỏi các DNBH phải nâng cao chất lượng dịch
vụ, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng để tránh tranh
chấp xảy ra, có như vậy mới đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi DNBH.
2.2. Tranh chấp do việc xác định sự kiện bảo hiểm
Đây là vụ tranh chấp kéo dài, với nhiều tình tiết phức tạp. Trong khi
Prudential cho rằng đây là hành vi trục lợi bảo hiểm từ phía khách hàng, vậy mà
cả phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm Prudential đều thua kiện. Vụ việc như sau:
Ơng Vũ Quang ng là bên mua bảo hiểm đồng thời là người được bảo
hiểm của 04 HĐBH nhân thọ được Prudential phát hành vào các ngày 21-3-2001
và ngày 26-3-2001. Các hợp đồng này đều do anh Vũ Trung Thành - con trai ông
Uông đồng thời là đại lí bảo hiểm của Prudential tư vấn. Ngồi ra ơng ng cịn
tham gia bảo hiểm tại cơng ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội và Bảo Minh CMG với
số tiển bảo hiểm có tổng mệnh giá lên tới 3.6 tỉ
Theo trình bày của ơng Vũ Quang ng - giáo viên nghỉ hưu: tối ngày 233-2002, tại phố Giẽ xã Tân Trường, Cẩm Giàng, Hải Dương do tránh ôtô đi
cùng chiều, đường mưa trơn, ông bị ngã, chân trái bị gãy. Ông được người đi
đường mang đi cấp cứu tại bênh viện Cẩm Giàng. Sau đó gia đình ông đưa ông
tới điều trị tại nhiều bệnh viện khác nhau ở Hải Dương và Hà Nội. Ngày 6-22002, tại bệnh viện Quân Y 107 ông bị cắt cụt 1/3 cẳng chân trái do nhiễm trùng
hoại tử phần mềm. Sau khi bị tai nạn, ông yêu cầu công ty bảo hiểm trả tiền theo
thoả thuận đã ký. Prudential không chấp nhận vì cho đây là “màn kịch” của ơng
ng từ việc mua bảo hiểm tới việc cưa chân…Không thoả thuận được với nhau
ơng ng khởi kiện ra tồ án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Cuối tháng 6 vụ kiện được đưa ra xét xử sơ thẩm:
Tại phiên toà sơ thẩm, luật sư Prudential thắc mắc tại sao có một cái chân
đau mà ơng ng phải qua nhiều bệnh viện, có bệnh viện xác nhận vết đau ở
chân ông đã thuyên giảm, hẹn tái khám mà khơng tái khám…Ngay sau đó luật sư
của ông Uông đã bênh vực: “Theo Điều 22 pháp lệnh bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
người bệnh có quyền tuỳ ý lựa chọn cơ sở chữa bệnh, cũng như thầy thuốc,
lương y, bác sĩ mà khơng có gì hạn chế, cũng khơng cần đưa ra lí do nào”.
Để bảo vệ cho khẳng định của mình luật sư Prudential đã hỏi ơng ng
về nguồn thu nhập mà có thể tham gia bảo hiểm với số tiền lớn như vậy.
Một điều vơ lí là biết ơng ng có bệnh giun chỉ ở chân trái (theo thông
tin mà ông Uông đã cung cấp) công ty Prudential vẫn chấp nhận cả 4 HĐBH
nhân thọ cho ơng và ơng cịn phải đóng thêm tiền cho sản phẩm bổ trợ chết và
tàn tật kèm theo các hợp đồng này. Suốt từ tháng 3-2001 ơng ng và gia đình
vẫn đều đặn đóng phí và thực hiện đầy đủ cam kết…thì lúc đó tại sao công ty
Prudential không đề cập đến chuyện nghi ngờ nguồn tiền ở đâu ra mà vẫn nhận
tiền đều đặn. Khi ông Uông gặp tai nạn rồi yêu cầu bảo hiểm công ty mới bắt
đầu cố ý nghi vấn tại sao…?. Và luật sư của ơng ng đã nói “luật nào bắt
người tham gia bảo hiểm phải chứng minh thu nhập”.
Không dừng lại ở đó Prudential cho rằng: Anh Vũ Trung Thành con trai
của ơng ng (cũng là đại lí của Prudential) thơng báo về tình trạng của bố
mình cho cơng ty quá muộn (khoảng nửa năm sau ngày ông Uông bị ngã). Điều
này không vi phạm hợp đồng cũng như bất cứ các quy định nào của Prudential,
bởi theo điều khoản chung của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: trong trường hợp
người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ và vĩnh viễn thì “thời hạn yêu cầu
giải quyết quyền lợi bảo hiểm là trong vòng 1 năm kể từ ngày có kết luận của cơ
quan y tế về tình trạng thương tật của người được bảo hiểm”.
Đại diện viện kiểm sát và hội đồng xét xử toà án nhân dân tỉnh Hải Dương
đã nhất trí cao trong kết luận công ty bảo hiểm Prudential phải bồi thường cho
ông giáo cụt chân 750 triệu đồng và chịu toàn bộ án phí (theo đúng chương 7:
giải quyết tranh chấp Phú Tích Luỹ An Khang của Prudential).
Cho rằng bản án không thoả đáng Prudential chống án. Ngày 16-12 phiên
toà phúc thẩm được mở. Phần tranh lụân tại phiên toà diễn ra căng thẳng. Bà
Nguyễn Thị Thuỳ Hương - đại diện bị đơn cho rằng có nhiều mâu thuẫn trong lời
khai của các nhân chứng và kết luận của cơ quan công an giao thơng tỉnh Hải
Dương khơng được tơn trọng, thậm chí đây có thể là một vụ trục lợi bảo hiểm
“tồ phúc thẩm hãy tuyên huỷ án sơ thẩm để giao hồ sơ cho cơ quan công an xác
định lại đây có phải là vụ tai nạn giao thơng hay khơng”. Tuy nhiên chủ toạ
phiên toà đã “dội gáo nước lạnh” vào đề nghị này: “Đó là cách hiểu của người
làm kinh doanh, còn tai nạn ở đây là xảy ra trên đường, là tai nạn giao thơng…
chẳng có ai lại tự cắt bỏ một phần thân thể của mình để nhận bồi thường cả”.
Luật sư của Prudential nhấn mạnh những mâu thuẫn trong lời khai của
nạn nhân là: ông ng lúc thì khai buồn ngủ bị ngã xe, lúc thì khai xe đâm vào
dải phân cách, lúc thì con ông Uông khai ông bị ô tô đè lên…Rồi việc chuyển
viện liên tục và “tha thiết” đề nghị cưa chân của ơng ng khi vẫn cịn khả năng
cứu chữa.
Về phía nguyên đơn anh Vũ Trung Thành (con trai ông) nhắc lại yêu cầu
đòi bồi thường 750 triệu đồng theo các hợp đồng hai bên kí trước đây và phần
lãi phát sinh yêu cầu lên tới 190 triệu đồng.
Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm, đồng thời chấp nhận một
phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc Prudential phải trả thêm 120 triệu đồng là
khoản lãi phát sinh từ số tiền mà bị đơn phải bồi thường theo phán quyết của toà
án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Quan điểm của Prudential Việt Nam về trường hợp ông vũ Quang Uông là
sẽ đề nghị để vụ việc được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm. Prudential cho
rằng cả hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều chưa đánh giá một cách khách
quan bản chất của sự việc, do đó đã đưa ra phán quyết khơng cơng bằng về mặt
pháp lí. Prudential ln tơn trọng phán quyết của tồ án và pháp luật Việt Nam,
nhưng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và quan trọng hơn là đấu tranh
với những hành vi vi phạm pháp luật nhằm trục lợi bảo hiểm, góp phần bảo vệ
sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Để đảm bảo sự công
bằng cho mọi khách hàng tham gia bảo hiểm Prudential kiên quyết ngăn chặn
mọi trường hợp trục lợi bảo hiểm. Rất tiếc là những hậu quả nghiêm trọng mà
những hành vi trục lợi bảo hiểm có thể gây ra chưa được xã hội cũng như pháp
luật đánh giá một cách đúng mức. Trước một sự việc có nhiều tình tiết đáng ngờ
như trường hợp tai nạn giao thơng của ơng Vũ Quang ng, tồ án nhân dân ở
cả hai cấp xét xử cần xem xét kỹ lưỡng hơn trước khi ra phán quyết bằng cách
trưng cầu giám định của cơ quan điều tra.
Ngay sau khi kết thúc phiên tồ ơng Nguyễn Đức Chương - phó tổng giám
đốc Prudential cho biết: “các bằng chứng của Prudential bị bác bỏ một cách vơ
lí, cơng ty sẽ có khiếu nại đề nghị giám đốc thẩm vụ này”. Ngoài ra Prudential sẽ
cân nhắc khả năng kiến nghị xử lí hình sự hành vi mà cơng ty cho là: “lừa gạt để
chiếm đoạt tiền bảo hiểm của ông Vũ Quang Uông”.[26]
Qua vụ án nêu trên chúng ta thấy được tính phức tạp của vụ việc bởi đã
qua cấp xét xử phúc thẩm mà Prudential vẫn không đồng ý với phán quyết của
tồ và cho rằng có nhiều tình tiết cần xem xét. Về phía ngun đơn ơng Vũ
Quang ng - giáo viên nghỉ hưu thì thật khó có thể tham gia bảo hiểm với số
tiền lớn như vậy và hơn nữa việc cắt bỏ chân trái của ông không phải là biện
pháp cuối cùng. Về phía bị đơn Prudential không thể đưa ra những bằng chứng
xác thực để chứng minh hành vi trục lợi của ông Vũ Quang Uông mà chỉ đưa ra
những câu hỏi như “Tại sao ông lại chuyển qua nhiều viện…” hoặc “tại sao lại
có số tiền lớn như vây…?”. Đó là những câu hỏi thiếu sức thuyết phục,
Prudential không thể chứng minh trước toà rằng đây là vụ trục lợi bảo hiểm
(mặc dù tình tiết và sự việc diễn ra có thể khiến mọi người hiểu như vậy). Vì thế
qua hai cấp xét xử Prudential không phải là bên thắng kiện và yêu cầu đưa vụ án
xét xử theo trình tự giám đốc thẩm.
Cũng từ vụ việc này thấy được các quy định chi tiết của luật đồng thời sự
trung thực của khách hàng khi cung cấp thông tin là yếu tố hạn chế tranh chấp
xảy ra. Từ đó tạo nên mơi trường pháp lý lành mạnh, tạo lòng tin của người dân
khi tham gia bảo hiểm. Đó cũng là mục tiêu mà mỗi người và cả xã hội quan
tâm
2.3. Tranh chấp do nội dung của hợp đồng không rõ ràng
Anh Nguyễn Văn Hợp - chồng chị Hà mua bảo hiểm nhân thọ cho con là
Nguyễn Hải Linh - sinh năm 1982 thời hạn là 15 năm, mỗi năm anh đóng
2.966.600 đồng. Sau khi anh mất, gia đình anh làm đơn xin được nhận lại số phí
mà anh đã đóng trong một năm qua, nhưng bị phía cơng ty bảo hiểm từ chối với
lí do chị Ngơ Thu Hà có đủ điều kiện về thừa kế (quy định ở Điều 1.1.1) nên chị
phải tiếp tục đóng phí thay cho chồng. Do chồng mới mất và anh là lao dộng
chính trong gia đình nên chị không thể tiếp tục nghĩa vụ thừa kế của anh. Thế là
công ty liền huỷ hợp đồng.
Nếu xem xét kỹ thì phía cơng ty bảo hiểm khơng sai. Hợp đồng có ghi
“trong trường hợp chủ hợp đồng khơng phải là người được bảo hiểm, khi chủ
hợp đồng chết trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực, người thừa kế
hợp pháp của chủ hợp đồng có quyền thừa kế toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đến hợp đồng này với điều kiện người thừa kế hợp pháp của chủ hợp đồng
hội tụ các điều kiện quy định. Nếu các điều kiện trên đây không được đáp ứng,
HĐBH sẽ mất hiệu lực và công ty bảo hiểm sẽ trả cho người thừa kế hợp pháp
của chủ hợp đồng giá trị nào cao hơn của toàn bộ phí bảo hiểm đã thu, hoặc giá
trị giải ước tại thời điểm chủ hợp đồng chết”.[14]
Khi đọc đến điều khoản này khách hàng sẽ an tâm ngay, nếu chủ hợp
đồng chết…thì sẽ được nhận lại “tồn bộ chi phí bảo hiểm đã thu hoặc giá trị
giải ước tại thời điểm chủ hợp đồng chết”. Tuy nhiên các vế khác của điều
khoản này nằm ở đâu, với những điều kiện gì ví dụ như là điều kiện để được
nhận giá trị giải ước là như thế nào? và những hợp đồng nào có giá trị giải ước
để thơng tin đến khách hàng trước khi ký kết
Đây là tình trạng chung của hợp đồng bảo hiểm, nổi lên nhiều điểm
không rõ ràng của các từ ngữ sử dụng trong hợp đồng làm cho quyền lợi và
nghĩa vụ của hai bên ký kết có thể dễ dàng bị suy diễn theo chiều hướng có lợi
cho phía nhà khai thác. Các điều khoản về quyền lợi của bên mua bảo hiểm
thường được quy định rất rõ ràng nên có thể hấp dẫn người mua. Trái lại nghĩa
vụ bên mua bảo hiểm thường được quy định bằng những khái niệm quá rộng.
Mặt khác trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bên mua lại quá lớn một khi vi phạm
vào những khái niệm quá rộng đó. Khi ký kết, người mua thường bị hấp dẫn bởi
những quyền lợi rõ ràng mà không đủ kinh nghiệm để nhận thấy mình có trách
nhiệm thực thi những nghĩa vụ phức tạp mà hậu quả của nó rất lớn. Khi tiếp thị
mời mua bảo hiểm, nhân viên thường đem những điều khoản có lợi nói cho
khách hàng nghe còn những điều bất lợi cho khách hàng thường được “vơ tình”
bỏ qua để khách hàng tự hiểu.