Khoa Quản Trị
Lớp Quản Trị - Luật 44B2
BÀI TẬP THÁNG THỨ HAI
(TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ)
Bộ môn: Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế
Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hồng Hải
Nhóm: 02
Thành viên:
1
Ngơ Huỳnh Ngọc Trâm
1953401020242
2
Bùi Thị Đoan Trang
1953401020250
3
Trần Thị Thanh Trang
1953401020255
4
Nguyễn Võ Nhã Trúc
1953401020267
5
Nguyễn Doãn Thanh Uyên
1953401020283
6
Trần Ngọc Thu Uyên
1953401020285
7
Đỗ Thị Kiều Vương
1953401020288
8
Nguyễn Lê Thanh Xuân
1953401020296
9
Võ Thị Bạch Yến
1953401020303
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 5 năm 2020
1
VẤN ĐỀ 1:
HÌNH THỨC SỞ HỮU
1.1. Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2005? Nêu rõ các hình
thức sở hữu trong BLDS.
Theo BLDS năm 2005, có 6 hình thức sở hữu (từ Điều 200 đến Điều 232) bao
gồm:
(1) Sở hữu nhà nước: từ Điều 200 đến Điều 207.
Theo Điều 200: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai,
rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn
nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và
vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, cơng trình
thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định.”
(2) Sở hữu tập thể: từ Điều 208 đến Điều 210.
Theo Điều 208: “Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức
kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác
sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ,
theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng hưởng lợi.”
(3) Sở hữu tư nhân: từ Điều 211 đến Điều 213.
Theo Điều 211:
- Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình.
- Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư
nhân.
(4) Sở hữu chung: từ Điều 214 đến Điều 226.
Theo Điều 214:
- Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.
- Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
- Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung.
(5) Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội: từ Điều 227 đến
Điều 229.
Theo Điều 227: “Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội là sở
hữu của tổ chức đó nhằm thực hiện mục đích chung quy định trong điều lệ.”
2
(6) Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp: từ Điều 230 đến Điều 232.
Theo Điều 230: “Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp là sở hữu của cả tổ chức đó nhằm thực hiện mục
đích chung của các thành viên được quy định trong điều lệ.”
1.2. Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2015? Nêu rõ các hình
thức sở hữu trong BLDS.
Theo BLDS năm 2015, có 3 hình thức sở hữu (từ Điều 197 đến Điều 220) bao
gồm:
(1) Sở hữu toàn dân: từ Điều 197 đến Điều 204.
Theo Điều 197: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở
vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý.”
(2) Sở hữu riêng: Điều 205 và 206.
Theo khoản 1 Điều 205: “Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một
pháp nhân.”
(3) Sở hữu chung: từ Điều 207 đến Điều 220.
Theo khoản 1 Điều 207: “Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài
sản.”
1.3. Suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi về hình thức sở hữu giữa hai
Bộ luật.
Theo nhóm em, những thay đổi về hình thức sở hữu của BLDS năm 2015 là
hợp lý. Vì nếu theo hướng phân chia hình thức sở hữu dựa vào tính chất, chức năng,
nhiệm vụ của các chủ thể như BLDS năm 2005 thì sẽ phát sinh những vấn đề như
sau:
- Thứ nhất, Việc liệt kê chủ thể như BLDS năm 2005 là chưa khoa học vì sự
liệt kê có thể chưa đầy đủ vì có thể có nhiều loại hình tổ chức, các nhóm người phát
sinh. Nếu như có một thành phần kinh tế mới xuất hiện trong xã hội thì BLDS lại
phải sửa, như vậy tính ổn định của BLDS không cao. Và việc chỉnh sửa, bổ sung
thêm Điều luật là rất tốn thời gian.
3
- Thứ hai, Nội dung của một số hình thức sở hữu được quy định trong BLDS
năm 2005 là không có sự khác biệt ngoại trừ chủ thể sở hữu, vì vậy khơng có ý
nghãi về mặt pháp lý khi không chỉ ra được sự khác biệt cơ bản giữa các hình thức
sở hữu.
- Thứ ba, Theo quy định BLDS năm 2005 thì sở hữu tập thể là một hình thức
sở hữu độc lập nhưng về cơ bản, đây chỉ là sở hữu của pháp nhân là hợp tác xã.
4
VẤN ĐỀ 2:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
Tóm tắt Quyết định số 382/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008
Nguyên đơn là bà Dương Thị Thu Nga (là con nuôi của người để lại di sản là
ơng Bình và bà Như), bị đơn là ông Trương Cẩm Truyền (cháu coi người để lại di
sản là cậu mợ) về “Tranh chấp đòi tài sản” là căn nhà số 8/7 bic Nguyễn Trãi,
phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên. Theo vụ án, ông Bình mất không để lại
di chúc, và sau này bà Như lập di chúc (và di chúc được xem là hợp pháp vì lúc lập
bà Như vẫn minh mẫn) để lại toàn bộ tài sản cho cho vợ chồng ơng Truyền và bà
Hằng. Nhưng theo Tịa dân sự thì di chúc của bà Như chỉ hợp lý một phần vì đối với
phần di sản của bà, cịn phần di sản của bà Nga thì bà Như khơng được định đoạt
(do ơng Bình mất khơng để lại di chúc nên phần di sản của ơng Bình được chia theo
pháp luật). Bên cạnh đó theo Viện kiệm sát bà Nga đã có hành vi vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản, nhưng theo Tòa dân sự khơng có cơ
sở để khẳng định việc vi phạm của bà Nga. Do đó Tịa dân sự giao lại hồ sơ vụ án
cho Tịa sơ thẩm xét xử lại.
Tóm tắt Quyết định số 545/2009/DS-GĐT ngày 26/10/2009 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
2.1. Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người làm di chúc khơng minh
mẫn thì di chúc có giá trị pháp lý khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người làm di chúc không minh mẫn thì di
chúc khơng có giá trị “nhưng Bộ luật Dân sự không cho biết khi nào cá nhân “minh
mẫn, sáng suốt”1.
Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 về Di chúc hợp pháp:
“Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép”.
BLDS quy định một di chúc hợp pháp khi người lập di chúc “minh mẫn, sáng
suốt”. Từ đó có thể suy ra, nếu người lập di chúc khơng minh mẫm thì di chúc sẽ
khơng hợp pháp, tức là khơng có giá trị pháp lý.
1
Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 35-37, Tập 1, tr.340.
5
2.2. Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Tòa phúc thẩm,
khi lập di chúc năm 2005 cụ Như có minh mẫn khơng? Vì sao Tịa phúc thẩm
đã quyết định như vậy?
Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di
chúc năm 2005 cụ Như không minh mẫn. Đoạn 3 phần xét thấy cho câu trả lời: “[...]
Tòa án cấp sơ thẩm và Tịa án cấp phúc thẩm khơng cơng nhận di chúc của bà Như
lập ngày 1/1/2005 là di chúc hợp pháp vì lý do Bệnh xá Cơng an tỉnh An Giang
khơng có chức năng khám sức khỏe để lập di chúc”.
Tòa phúc thẩm đã quyết định như vậy do Tịa cho rằng Bệnh xá Cơng An tỉnh
An Giang khơng có chức năng khám sức khỏe để lập di chúc. Có ý kiến cho rằng:
“Cách lập luận này rất lạ vì, điểu pháp luật u cầu khơng phải ai là người khám sức
khỏe mà là cần quan tâm tới yếu tố minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc; yếu
tố này có thể xác định bằng mọi phương tiện”2.
2.3. Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm
2005 cụ Như có minh mẫn khơng? Vì sao Tịa giám đốc thẩm đã quyết định
như vậy?
Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ
Như có minh mẫn. Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy vì Tịa căn cứ vào xác
nhận của người viết hộ, người làm chứng để xác định người lập di chúc minh mẫn,
sáng suốt.
Đoạn 3 phần Xét thấy, theo Tòa giám đốc thẩm: “Trong q trình giải quyết
vụ án ơng On, ông Kiếm và ông Hiếu đều có lời khai xác nhận tại thời điểm và Như
lập di chúc, trạng thái tinh thần của và Như vui vẻ, minh mẫn. Ông On, ông Kiếm
và ông Hiếu không phải là người được hưởng thừa kế, khơng phải là người có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến nội dung di chúc, nên có cơ sở xác định di chúc
của bà Như nêu trên đã thể hiện đúng ý chí của bà Như khi lập di chúc. Do đó, theo
quy định tại các Điều 655, 656, 657 và 659 của Bộ luật Dân sự năm 1995 thì có đủ
cơ sở để xác định di chúc của bà Như lập ngày 1/1/2005 là di chúc hợp pháp”.
2
Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 35-37, Tập 1, tr.342.
6
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa giám đốc
thẩm.
Theo nhóm em, hướng giải quyết trên của Tịa án giám đốc thẩm là hợp lý. Vì
tịa án đã căn cứ vào xác nhận của người viết hộ, người làm chứng tại thời điểm lập
di chúc cụ Như vẫn minh mẫn. Bên cạnh đó, căn cứ vào kết luận của bá sĩ Hiền về
tình trạng sức khỏe và tinh thần của bà Như được ghi trong giấy chứng nhận khám
sức khỏe ngày 26/12/2004, trước ngày bà Như lập di chúc 5 ngày không mâu thuẫn
với lười khai xác nhận của người viết hộ và người làm chứng. Vì vậy có có sở để
khẳng định bà Như minh mẫn trong lúc lập di chúc.
Bộ luật Dân sự chưa nêu rõ xác định trạng thái minh mẫn của người lập di
chúc vào thười điểm mào. Tuy nhiên việc quy định “người lập di chúc” phải minh
mẫn, sáng suốt cho phép suy luận rằng Bộ luật Dân sự theo hướng xác định trạng
thái minh mẫn, sáng suốt của cá nhân vào thười điểm lập di chúc. Do đó, nếu ở thời
điểm lập di chúc cá nhân minh mẫn, sáng suốt nhưng sau đó khơng cịn khả năng
này thì di chúc vẫn có thể có giá trị pháp lý.
Vì vậy, theo lời của mọi người có mặt trong lúc làm chứng cho di chúc thì lúc
lập di chúc bà Như vẫn minh mẫn, do vậy di chúc của bà Như vẫn hợp pháp, cho dù
sau đó bà khơng cịn minh mẫn. Vì vậy, nhóm em cùng ý kiến với quyết định của
Tòa giám đốc thẩm.
2.5. Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm,
khi lập di chúc năm 2001 cụ Biết có minh mẫn khơng? Vì sao Tòa phúc thẩm
đã quyết định như vậy?
Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di
chúc ngày 3/1/ 2001 cụ Biết không minh mẫn. Tòa án phúc thẩm đã quyết định như
vậy vì Tịa án cho rằng:
- Cụ Biết lập di chúc ngày 3/1/2001 đã 84 tuổi. Dựa vào đây có thể hiểu ý của
Tòa, người lập di chúc đã cao tuổi và có những ứng xử, hành vi mâu thuẫn với nhau
hay khơng đúng thực tế do đó khơng có cơ sở để cho rằng người này còn minh mẫn,
sáng suốt nếu khơng có chứng cứ khác.
- Bên cạnh đó, trước ngày lập di chúc, vào tháng 11, 12 năm 2000 cụ Biết phải
nhập viện điều trị với triệu chứng theo chuẩn đoán là “thiếu máu cơ tim, xuất huyết
não, cao huyết áp”; cụ Biết lập di chúc ngày 3/1/2001 thì ngày 14/1/2001 cụ biết
chết. Do đó, Tịa phúc thẩm cho rằng cụ Biết lập di chúc trong tình trạng thiếu minh
mẫn, sáng suốt.
7
2.6. Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm
2001 cụ Biết có minh mẫn khơng? Vì sao Tịa giám đốc thẩm đã quyết định
như vậy?
Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc, khi lập di chúc ngày 3/1/ 2001 cụ
Biết vẫn minh mẫn. Tòa án phúc thẩm đã quyết định như vậy vì Tịa án đã căn cứ
các lời khai của có người có liên quan, như:
- Các lời khai của ơng Dầm (người chứng kiến quá trình lập di chúc) ngày
7/2/2002 và của ông Thắng (người viết hộ di chúc) ngày 1/4/2002 đều xác nhận khi
lập di chúc, cụ Biết là người minh mẫn và đọc (nói) nội dung di chúc cho ơng
Thắng viết.
- Bên cạnh đó, theo lời khai của bà Mỹ (người thuê vườn cây của cụ Biết)
ngày 11/3/20002 thì trước ngày ký hợp đồng một tuần, cụ Biết có gọi bà Mỹ đến để
thỏa thuận về việc thuê vườn cây và khi cụ biết điểm chỉ vào bản hợp đồng thì cụ
Biết là người minh mẫn, cịn chỉ dẫn cho bà Mỹ cách chăm sóc vườn cây. Và được
biết ngày bà Mỹ và cụ Biết ký hợp đồng thuê vườn cây là ngày 4/1/2001.
Vì vậy, dựa vào các lời khai trên, Tòa giám đốc thẩm cho rằng cụ Biết vẫn
minh mẫn trong lúc lập di chúc ngày 3/1/2001.
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa giám đốc
thẩm.
2.8. Di tặng là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
BLDS năm 2005 (Điều 671) và BLDS năm 2015 (Điều 646) đều có quy định
về di tặng và về cơ bản các quy định trong các Bộ luật khơng có sự thay đổi. Theo
khoản 1 Điều 646 BLDS năm 2015: “Di tặng là việc người lập di chúc dành một
phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc”.
2.9. Để có giá trị pháp lý, di tặng phải thỏa mãn những điều kiện gì? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di tặng là một dạng di chúc đặc biệt nên chịu sự điều chỉnh chung của di chúc.
Vì vậy điều kiện để di tặng có giá trị pháp lý:
8
- Thứ nhất, di tặng chỉ có hiệu lực “sau khi người có tài sản di tặng chết” 3 vì
“di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế” (khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2015).
- Thứ hai, tài sản được di tặng phải là tài sản của người di tặng vì “di chúc là
sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
chết” (Điều 624 BLDs năm 2015).
- Thứ ba, người được di tặng là người thừa kế theo di chúc nên các quy định
về người thừa kế theo di chúc cũng được áp dụng như “người được di tặng là cá
nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời
điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp
người được di tặng khơng phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”
(khoản 2 Điều 646 BLDS năm 2015).
2.10. Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng cho ai? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng tài sản riêng và chung cho ba
cháu ngoại là ông Hùng, bà Diễm và ơng Hồng. Theo lời khai của bị đơn tại trang
2 bản án cho câu trả lời:
Ngoài ra, bà Thuyết còn khai như sau: Ngày 20/9/1997 cụ Biết đã lập tờ
truất quyền hưởng thừa kế, có nội dung: Cụ Biết được cụ Kiệt giao quyền
định đoạt tài sản theo tờ ủy quyền ngày 16/7/1997, cụ Biết truất quyền hưởng
thừa kế của bà Nguyệt cùng chồng và con nuôi của bà Nguyệt đối với những
tài sản chung và riêng của cụ Kiệt, cụ Biết tại ấp Bình Phước. Cụ Biết di tặng
tài sản riêng và chung cho ba cháu ngoại là ơng Hùng, bà Diễm và ơng
Hồng. Tờ truất quyền do cụ Biết ký tên và lăn tay.
2.11. Di tặng có được Tịa án chấp nhận khơng? Đoạn nào của Quyết định
cho câu trả lời?
Di tặng không được Tịa án chấp nhận vì Tịa án khơng cơng nhận tờ di chúc
có nội dung di tặng được lập ngày 20/9/1997 của cụ Biết.
Đoạn 3 phần Xét thấy cho câu trả lời: “[...]. Tịa án cấp sơ thẩm khơng cơng
nhận “Tờ truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997 và “Tờ di chúc” ngày
15/9/2000 bởi các văn bản này không phù hợp với quy định của pháp luật cả về nội
dung và hình thức văn bản là có căn cứ”.
3
Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên): Bình luận khoa học BLDS năm 2015, Nxb. Tư pháp 2016, tr.947.
9
2.12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến di tặng.
2.13. Truất quyền thừa kế là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Truất quyền thừa kế là người lập di chúc có quyền không cho người thừa kế
theo pháp luật được hưởng thừa kế mà không cần phải nêu rõ lý do. Truất quyền
thừa kế là việc người để lại di sản xác định rõ trong di chúc về việc không cho ai
được hưởng di sản của mình.
Căn cứ thao khoản 1 Điều 626 về Quyền của người lập di chúc:
“ Người lập di chúc có quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.”
2.14. Trong Quyết định số 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của ai?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định số 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của bà Nguyệt cùng
chồng và con nuôi của bà Nguyệt. Theo lời khai của bị đơn tại trang 2 bản án cho
câu trả lời:
Ngoài ra, bà Thuyết còn khai như sau: Ngày 20/9/1997 cụ Biết đã lập tờ truất
quyền hưởng thừa kế, có nội dung: Cụ Biết được cụ Kiệt giao quyền định đoạt tài
sản theo tờ ủy quyền ngày 16/7/1997, cụ Biết truất quyền hưởng thừa kế của bà
Nguyệt cùng chồng và con nuôi của bà Nguyệt đối với những tài sản chung và riêng
của cụ Kiệt, cụ Biết tại ấp Bình Phước.
2.15. Truất quyền trên của cụ Biết có được Tịa án chấp nhận không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Truất quyền trên của cụ Biết khơng được Tịa án chấp nhận vì Tịa án khơng
cơng nhận tờ di chúc được lập ngày 20/9/1997 của cụ Biết.
Đoạn 3 phần Xét thấy cho câu trả lời: “[...]. Tịa án cấp sơ thẩm khơng công
nhận “Tờ truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997 và “Tờ di chúc” ngày
15/9/2000 bởi các văn bản này không phù hợp với quy định của pháp luật cả về nội
dung và hình thức văn bản là có căn cứ”.
10
2.16. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến truất quyền thừa kế.
2.17. Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài sản nào?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài sản nhà và đất vườn
cây ăn trái diện tích 6.278m2.
Dựa vào lời khai của bị đơn cho câu trả lời: “Ngày 03/01/2001 cụ Biết lập di
chúc có nội dung: Sau khi cụ qua đời thì bà Thuyết được hưởng phần tài sản là nhà
và đất vườn cây ăn trái diện tích 6.278m 2. Nội dung di chúc do cụ Biết đọc cho ông
Nguyễn Văn Thắng viết, cụ Biết lăn tay có ơng Thắng và ơng Lương Văn Dầm làm
chứng ký tên”.
2.18. Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp
lý phần nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp lý một
phần đó là phần di sản của cụ Biết, còn phần di sản của cụ Kiệt phải chia theo pháp
luật.
Đoạn 5 trong phần Xét thấy cho ta câu trả lời về nhận định của Viện kiểm sát
và Tòa dân sự: “[...] giao hồ sơ vụ án cho Tịa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử
phúc thẩm lại theo hướng công nhận di chúc của cụ Biết lập ngày 03/01/2001 là hợp
pháp phần di sản của cụ Biết, phần di sản của cụ Kiệt chia theo pháp luật”.
2.19. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát và
Tòa dân sự.
2.20. Sự khác nhau giữa “truất quyền thừa kế” và “không được hưởng di
sản” trong chế định thừa kế. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối tượng áp dụng:
- Truất quyền thừa kế: chỉ áp dụng đối với người thừa kế theo pháp luật
- Không được hưởng di sản: áp dụng cho cả người thừa kế theo pháp luật và
thừa kế theo di chúc.
Căn cứ áp dụng:
11
- Truất quyền thừa kế: Di chúc hợp pháp nói rõ khơng cho hưởng di sản (do ý
chí của người để lại di sản quyết định). Được quy định tại khoản 1 Điều 626 BLDS
năm 2015.
- Không được hưởng di sản: Pháp luật quy định không cho hưởng di sản (do ý
chí của nhà làm luật quyết định). Được quy định tại Điều 621 BLDS 2015.
Lý do áp dụng:
- Truất quyền thừa kế: Khi truất quyền, người lập di chúc khơng cần nêu lý
do. Vì theo Điều 624 BLDS 2015 thì di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân, nên
người để lại di sản muốn quyết định ai là người thừa kế di sản sản của mình và ai bị
truất quyền thừa kế đó là theo ý chí của họ.
- Khơng được hưởng di sản: Do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS
năm 2015.
Hậu quả pháp lý và trường hợp ngoại lệ:
- Truất quyền thừa kế: Khơng có quyền hưởng di sản trừ trường hợp người
thừa kế đó thuộc diện thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc theo Điều 644
BLDS năm 2015 thì họ có thể được hưởng thừa kế không phụ thuộc nội dung di
chúc.
- Không được hưởng di sản: Khơng có quyền hưởng di sản trừ trường hợp
người đó được người để lại di sản cho hưởng thừa kế theo di chúc, sau khi đã biết
về hành vi tái pháp luật của họ (khoản 2 Điều 621 BLDS năm 2015).
Tư cách thừa kế:
- Truất quyền thừa kế: Vẫn là một nhân suất thừa kế để tính 1 suất thừa kế
theo pháp luật khi chia thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc.
- Không được hưởng di sản: Khơng coi là một nhân suất khi tính 1 suất thừa
kế theo pháp luật để chia thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc.
2.21. Trong Quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, bà
Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng ơng Bình khơng?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát, bà Nga có hành vi vi phạm
nghiêm trọng nghãi vụ ni dưỡng ơng Bình. Đầu trang 5 của Quyết định cho câu
trả lời: “Bà Nga là con nuôi nhưng đã không cấp dưỡng bố mẹ khi tuổi già dẫn đến
Hội chữ thập đỏ phải cung cấp thức ăn. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 646
12
Bộ luật dân sự năm 1995, điểm b khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự năm 2005 người
vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản không được hưởng
di sản. Nên cần xác định bà Nga không được hưởng di sản mới hợp đạo lý và đúng
pháp luật”.
Cịn theo Tịa dân sự, chưa có cơ sở xác định bà Nga đã có hành vi bạc đãicha
mẹ, nên cũng khơng có cơ sở để xác định bà Nga đã có hành vi vi phạm nghiêm
trọng nghãi vụ ni dưỡng ơng Bình. Đoạn 2 Phần xét thấy cho thấy nhận định của
Tòa án: “Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì chưa có cơ sở xác định bà Nga đã có
hành vi bạc đãi cha mẹ, nên cũng khơng có cơ sở để xác định bà Nga đã có hành vi
vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng ơng Bình”.
2.22. Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ ni dưỡng ơng Bình thì bà Nga có được hưởng thừa kế di sản của
ơng Bình khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
ni dưỡng ơng Bình thì bà Nga khơng được hưởng thừa kế của ơng Bình. Căn cứ
theo điểm b khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 (điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS
năm 2005) về Người không được quyền hưởng di sản: “Người vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”.
Nhưng bà Nga vẫn được hưởng di sản của ơng Bình, nếu ơng Bình đã biết
hành vi của bà Nga, nhưng vẫn cho bà Nga hưởng di sản theo di chúc (khoản 2 Điều
621 BLDS năm 2015).
2.23. Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về hướng giải quyết trên của Tòa án
liên quan đến hành vi của bà Nga.
13