Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.96 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU: Thông tin chung về sáng kiến.
1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
2
TĨM TẮT SÁNG KIẾN
3
MƠ TẢ SÁNG KIẾN
7
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến………………………………………
7
2. Cơ sở lý luận ………………………………………………………
8
2.1. Giai thích một số khái niệm……………………………………..
8
2.2. Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn……………………………………..
8
2.3. Vai trò của hoạt động khởi động………………………………………..
9
2.4. Những hạn chế của hoạt động khởi động trong phương pháp dạy học
truyềnthống………………………………………………………………………
10

3. Thực trạng tổ chức hoạt động khởi động trong giờ học Ngữ văn hiện 11
nay…………………………………………………….
4. Hoạt động khởi động trong dạy học Văn………………………
15
4.1. Quan niệm về hoạt động khởi động
15
………………………………………


4.2. Yêu cầu khi vận dụng các biện pháp khởi động………………………..
16
4.3. Một số hình thức tổ chức tăng cường hiệu quả cho hoạt động khởi
động………………………….
20
5. Thiết kế minh họa hoạt động khởi động trong một số bài học
…………………………………………………….
22
6. Quá trình thực nghiệm và kết quả……………………………………
25
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ………………………………………. 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..

1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong phần
Văn học lớp 11 môn Ngữ văn nhằm phát huy tính tích cực của học sinh”
2. Lĩnh vực áp dụng:
Đối tượng: Học sinh trung học phổ thơng - chương trình cơ bản.
Phạm vi nghiên cứu: Trong chương trình Ngữ văn lớp 11 - chương trình cơ bản.
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Cúc

Giới tính: Nữ

Ngày sinh: 13 tháng 12 năm 1991
Trình độ chun mơn: Đại học
Đơn vị cơng tác: Trường THPT Tuệ Tĩnh

Điện thoại: 0976235286
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THPT Tuệ Tĩnh
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THPT Tuệ Tĩnh
Điện thoại: 0320.3780.213
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Người áp dụng là giáo viên trường THPT.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: năm học 2018-2019.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Thu Cúc

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Từ mơ tả

Sở GD&ĐT

Sở Giáo dục và Đào tạo

HS

Học sinh


GV

Giáo viên

THPT

Trung học phổ thông

SGK

Sách giáo khoa

PPCT

Phân phối chương trình

SK

Sáng kiến

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

GVBM

Giáo viên bộ mơn

TĨM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:

3


Theo quan điểm đổi mới mơ hình tổ chức dạy học theo tiến trình hoạt động
của HS thì tiến trình dạy học gồm 5 bước (5 hoạt động): hoạt động khởi động (trải
nghiệm/ tạo tình huống xuất phát), hoạt động hình thành kiến thức, hoạt động
luyện tập, hoạt động ứng dụng/vận dụng và hoạt động mở rộng, bổ sung, phát triển
ý tưởng sáng tạo.
Hoạt động khởi động đóng vai trị quan trọng trong giờ học. Nó là hoạt
động khởi đầu nên có tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người học trong toàn tiết
học. Nếu tổ chức tốt hoạt động này sẽ tạo ra một tâm lí hưng phấn để cuốn hút HS
vào giờ học. Hơn nữa, nếu càng đa dạng thì sẽ ln tạo nên những bất ngờ thú vị
cho HS. Vì thế người học sẽ khơng cịn cảm giác mệt mỏi, nhàm chán, giờ học
cũng bớt sự căng thẳng, khô khan. Nhưng thực tế dạy học lại cho thấy rất nhiều
GV khó tìm kiếm được một cách khởi động để cho tiết học sinh động, hấp dẫn
hoặc có tổ chức nhưng hiệu quả khơng cao do hình thức tổ chức nhàm chán, rời
rạc. Bên cạnh đó, phần lớn GV hướng đến việc đổi mới trong hoạt động hình thành
kiến thức là chủ yếu, chưa quan tâm đúng mức tới hoạt động khởi động…
Từ những lí do trên, tôi đã nghiên cứu và đưa ra đề tài “Một số hình thức tổ
chức hoạt động khởi động trong phần Văn học lớp 11 mơn Ngữ văn nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: từ tháng 9 năm 2018
- Đối tượng áp dụng: HS lớp 11-THPT, chương tình cơ bản
- Điều kiện: phòng học, đồ dùng học tập, phương tiện dạy học
3. Nội dung sáng kiến:
* Về tính mới, tính sáng tạo:
SKKN đã làm nổi bật được những điểm mới sau:
- SKKN đã đưa ra được cách thức để tạo hứng thú cho HS khi học môn Ngữ văn
THPT

- SKKN đi sâu vào phương pháp dạy học nhưng không sa vào phân tích lý luận mà
chủ yếu nhấn mạnh vào những điểm cốt yếu cần chú ý nhất khi sử dụng các
phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực của HS trong giờ học
4


- SKKN đã chú trọng rèn luyện cho HS các kĩ năng quan trọng mà từ trước tới nay
các em cịn rất ít được biết đến trong q trình dạy học đó là hệ thống các kĩ năng:
kĩ năng đọc sách, kĩ năng ghi chép, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng tự học, tự tìm
hiểu…
* Về khả năng áp dụng, tính khả thi của sáng kiến: Việc đổi mới giáo dục THPT
dựa trên đường lối, quan điểm chỉ đạo của Nhà nước bằng nhiều văn bản. Sở GD&
ĐT cũng đã cho GV tập huấn và chỉ đạo các trường tổ chức xây dựng phương
pháp, kĩ thuật tổ chức hoạt động học theo nhóm và hướng dẫn HS tự học. Kết quả
điều tra ban đầu về cơ sở vật chất, định hướng chỉ đạo dạy học... cũng đã khẳng
định tính khả thi và hiệu quả của việc đổi mới dạy học.
Sáng kiến được thực hiện từ năm học 2018-2019 và có thể thực hiện trong
những năm tiếp theo.
* Về giá trị, hiệu quả của sáng kiến.
Thứ nhất: Giúp HS có cảm hứng hơn khi bắt đầu các tiết học Ngữ văn
Thứ hai: Phát huy được tính tích cực của HS trong giờ học giúp hình thành
nhân cách cho học sinh. Việc tự học, tự rèn luyện giúp học sinh hình thành thói
quen độc lập suy nghĩ, đọc lập giải quyết vấn đề khó khăn, giúp học sinh tự tin
hơn.
Thứ ba: Sáng kiến khẳng định vai trị của bộ mơn Ngữ văn trong việc phát triển
năng lực tự học, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Qua quá trình thực nghiệm đã chứng tỏ tính khả thi và hiệu quả của hoạt động
khởi động. Tạo hứng thú học tập cho học sinh là góp phần tích cực hóa hoạt động
học tập, phát huy năng lực của học sinh một cách hiệu quả nhất.

5


5. Đề xuất và khuyến nghị.
Đối với giáo viên: Hiểu rõ bản chất của đổi mới dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của HS qua hoạt động khởi động, từ đó có kế hoạch xây dựng bài
giảng hấp dẫn, sinh động. GV có thể tham gia vào trường học trực tuyến để trao
đổi và rút kinh nghiệm cùng các đồng nghiệp.
Đối với tổ nhóm chun mơn: Đổi mới sinh hoạt, tích cực thảo luận hướng dẫn
HS học tập theo hướng phát huy tính tích cực của HS để trao đổi, rút kinh nghiệm và
học tập đồng nghiệp.
Đối với các cấp quản lí: Chỉ đạo sát sao cơng tác đổi mới dạy học, tổ chức tập
huấn, hội thảo trao đổi rút kinh nghiệm giữa các nhà trường và giáo viên.

MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
6


Như chúng ta đã biết, trong đổi mới giáo dục mục tiêu của phương pháp giáo
dục phổ thông là phải phát huy được tính tích cực, chủ động của người học, phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho HS. Đây là định hướng cơ bản, thiết thực đối với mỗi giáo
viên, cũng là yếu tố quyết định hiệu quả của một giờ dạy. Trong đó, văn học là một
mơn học đặc biệt, đòi hỏi người dạy, người học phải say mê, suy ngẫm, phải hào
hứng khi tiếp cận thì chúng ta mới hiểu, mới làm rõ được vấn đề. Nhưng dạy văn,
học văn là một nghệ thuật. Nó vốn khơng ưa lặp lại nhàm chán mà cần đến sự sáng
tạo, linh hoạt.
Thực tế hiện nay chúng ta thấy rằng tình yêu Văn học trong học sinh đã

giảm sút rất nhiều. Một phần do Văn học là mơn học khó chiếm lĩnh, dù các em
thích văn nhưng khơng phải em nào cũng có khả năng tiếp thu dễ dàng. HS có
năng khiếu học văn không nhiều. Phần khác, do xu hướng phát triển của thời đại
khoa học, nhu cầu của xã hội, yêu cầu của nghề nghiệp, sự định hướng của gia
đình… ảnh hướng khơng nhỏ đến việc lựa chọn mơn học của các em. Chính vì vậy
việc xem nhẹ, xa lánh môn Văn là điều dễ hiểu
Song môn Văn vẫn là một mơn học quan trọng, có vị trí lớn trong trường
phổ thơng, nó giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm… cho HS, giúp các em tự
hồn thiện mình hơn trong mối quan hệ xã hội. Là môn học thuộc nhóm cơng cụ,
mơn Văn cịn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Văn sẽ
tác động, hỗ trợ tích cực đến các mơn học cịn lại. Vì vậy người giáo viên dạy Văn
cần phải đánh thức ở học sinh niềm đam mê văn chương, khơi dậy ở các em tính
sáng tạo và làm chủ kiến thức. Để làm được điều đó trong mỗi giờ dạy GV cần tạo
được một tâm lí thoải mái, một sự tự tin, một cảm hứng, một tâm hồn văn chương
thì mới có thể đi vào tìm hiểu, khám phá được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn
chương.
Bước khởi động được cho là bước tiên phong, có tác dụng đặt nền móng, giúp
các em HS có hứng thú học tập, đam mê môn học, tạo khởi đầu tốt,đảm bảo cho
tiến trình dạy học được “đầu xi đi lọt”.Hoạt động khởi động tạo ra những tình
huống có vấn đề; ở đó người học cần được huy động tất cả các kiến thức cũ, những
kinh nghiệm, vốn sống của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo cách
riêng của mình và cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thơng tin để giải quyết. Từ dó,
hoạt động khởi động sẽ dẫn vào bài học, nối liền bài cũ với bài mới, gợi ý nội dung
7


mới, kích thích hứng thú HS, làm rõ mục đích CĐ, tạo được khơng khí học tập tích
cực, sơi nổi ở học sinh.
Hoạt động khởi động đóng vai trị quan trọng trong giờ học. Nó là hoạt động
khởi đầu nên có tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người học trong toàn tiết học.

Nếu tổ chức tốt hoạt động này sẽ tạo ra một tâm lí hưng phấn để cuốn hút HS vào
giờ học. Hơn nữa, nếu càng đa dạng thì sẽ ln tạo nên những bất ngờ thú vị cho
HS. Vì thế người học sẽ khơng cịn cảm giác mệt mỏi, nhàm chán, giờ học cũng
bớt sự căng thẳng, khô khan. Nhưng thực tế dạy học lại cho thấy rất nhiều GV khó
tìm kiếm được một cách khởi động để cho tiết học sinh động, hấp dẫn hoặc có tổ
chức nhưng hiệu quả khơng cao do hình thức tổ chức nhàm chán, rời rạc. Bên cạnh
đó, phần lớn GV hướng đến việc đổi mới trong hoạt động hình thành kiến thức là
chủ yếu, chưa quan tâm đúng mức tới hoạt động khởi động…
Từ những lí do trên, tơi đã nghiên cứu và đưa ra đề tài “Một số hình thức tổ
chức hoạt động khởi động trong phần Văn học lớp 11 mơn Ngữ văn nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh”.
2. Cơ sở lí luận:
2.1. Giải thích một số khái niệm:
- Tính tích cực của học sinh: có nhiều cách hiểu khác nhau về tính tích cực
của học sinh; có thể là tích cực trong học tập, trong hoạt động trải nghiệm sáng tạo
hay cả trong các hoạt động vui chơi… Với nội dung của đề tài, tơi xin được đề cập
tới khái niệm tích cực của học sinh trong nhận thức học tập. Theo GS.TSKH Thái
Duy Tiên (Viện khoa học giáo dục): “Tính tích cực nhận thức biểu hiện sự nỗ lực
của chủ thể khi tương tác với đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu; thể
hiện sự nỗ lực của hoạt động trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm
lí (như hứng thú, chú ý, ý chí…) nhằm đạt được mục đích đặt ra với mức độ cao”.
- Khởi động: theo Từ điển Tiếng Việt, khởi động được hiểu là: “thực hiện
những động tác nhẹ trước khi bắt đầu”. Như vậy, hoạt động khởi động được hiểu
là một hoạt động nhằm thực hiện những thao tác cơ bản, nhẹ nhàng trước khi bắt
đầu thực hiện một công việc cụ thể nào đó.
2.2. Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn:
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển với nhiều thời cơ và
thách thức; đề thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước thì nguồn lực con người đóng vai trị quan trọng hàng đầu. Do đó, Đảng và
nhà nước ta luôn quan tâm và ưu tiên hàng đầu cho đổi mới trong giáo dục. Một

8


trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới trong giáo dục là chuyển từ
chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Để
đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương
pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng
kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Bên cạnh đó, để
học sinh tiếp thu kiến thức, rèn luyện kĩ năng hiệu quả thì việc tạo tâm thế hứng
thú học tập là rất quan trọng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực.Chuyển từ học
chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đấy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học”.
Đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới tồn diện trong GD-ĐT, Bộ GD-ĐT
có cơng văn số 5555/ BGDĐT – GDTrH ngày 8 tháng 10 năm 2014 hướng dẫn và
cụ thể hóa những yêu cầu trong đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh: “hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích
thích được hứng thú học tập của học sinh”.
Ngoài ra, yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học cịn được cụ thể
hóa trong các văn bản chỉ đạo về việc thực hiện nhiệm vụ năm học hàng năm của
Bộ GD-ĐT; hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Sở GD-ĐT; kế hoạch năm
học của nhà trường và kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của mỗi giáo viên.
2.3. Vai trò của hoạt động khởi động
Hoạt động khởi động bài học thường chỉ chiếm một vài phút đầu giờ nhưng

có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kích hoạt sự tích cực của người học.
- Trước hết, hoạt động khởi động có vai trị tạo hứng thú học tập cho HS.
“Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một hiện tượng nào đó vừa
có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình
học tập”. Khơng phải bất cứ HS nào đều có sẵn niềm say mê, u thích đối với
mơn học. Vì vậy, nhiệm vụ của hoạt động khởi động là khơi gợi hứng thú đối với
bài học và hơn thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình u lâu
bền đối với mơn học. Dạy học trị khơng có hứng thú cũng chỉ như “đập búa trên
sắt nguội” mà thôi. Bởi vậy, người thầy trước hết phải là người “thắp lửa đam mê”.
9


Đặc biệt đối với mơn học Ngữ văn, chỉ có niềm đam mê mới đưa các em khám phá
đến tận cùng vẻ đẹp của những tác phẩm văn chương.
- Vai trò thứ hai của hoạt động khởi động là huy động vốn tri thức, kĩ năng
nền tảng của học sinh. Bởi dạy học là một quá trình kiến tạo. Nếu ví tri thức, kĩ
năng học sinh tiếp nhận được như ngơi nhà thì nền móng sẽ xuất phát từ những tri
thức, kĩ năng vốn có, nền tảng của người học. Quan điểm dạy học kiến tạo đặc biệt
chú ý đến việc huy động kiến thức, kĩ năng, hệ giá trị nền tảng của cá nhân người
học tạo tiền đề cho việc tiếp nhận kiến thức mới. Vì vậy, một khởi động bài học
hiệu quả nên tạo cơ hội cho các em tự làm sống lại những kiến thức nền đã có, cần
thiết cho việc học bài mới. Việc thiết kế chương trình Ngữ văn theo các cấp thực
chất là một vòng tròn đồng tâm, cấp học sau là sự mở rộng, nâng cao, đào sâu hơn
những tri thức đã được trang bị từ cấp học trước. Đó là một tiền đề để giáo viên
thiết kế hoạt động khởi động.
Ví dụ học sinh lớp 10 đến với ca dao, truyện cổ tích bằng những kí ức tuổi
thơ, cùng những tri thức về văn học dân gian từ bậc THCS. Trước khi đến với
truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, các em đã biết đến nhà văn Nam Cao với
truyện ngắn “Lão Hạc”. Đến với “Tây Tiến” của Quang Dũng, đề tài người lính đã
để lại dấu ấn sâu sắc trong các em với bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ

về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật… Khi thiết kế hoạt động khởi
động, giáo viên cần kết nối và khơi gợi lại trong HS những tri thức nền tảng ấy.
- Vai trò thứ ba của hoạt động khởi động là tạo ra mâu thuẫn nhận thức cho
người học.
Học tập là một quá trình khám phá. Quá trình ấy bắt đầu bằng sự tò mò, nhu
cầu cần được hiểu biết và giải quyết mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều muốn
biết. Một khởi động thành công cần khơi gợi trong học trị mong muốn được tìm
hiểu, khám phá bằng những hoạt động tiếp theo trong giờ học, thậm chí là sau giờ
học. Muốn như vậy, hoạt động khởi động cần tạo ra mâu thuẫn trong nhận thức cho
học trò. Đây là tiền đề thực hiện một loạt các hoạt động tìm tịi, giải quyết vấn đề.
Muốn như vậy, giáo viên phải là người có ý tưởng, biết gieo vấn đề để kích thích
trí tị mị của học sinh.
2.4. Những hạn chế của hoạt động khởi động trong phương pháp dạy
học truyền thống
Trong phương pháp dạy học truyền thống, chúng ta thường thấy những lời
vào bài mượt mà với câu từ bay bổng, trau chuốt của giáo viên. Để có được lời vào
bài đầy tính nghệ thuật như vậy địi hỏi giáo viên phải có sự am hiểu sâu sắc tác
10


giả, tác phẩm, nội dung bài học cùng những vấn đề có liên quan rồi chuyển hóa
thành câu từ kết hợp với giọng đọc hay, nói diễn cảm, thuyết phục.
Tuy nhiên, lời vào bài có hay đến đâu cũng chỉ là hoạt động khởi động cho
giáo viên là chủ yếu. Bởi học sinh vẫn đóng vai trị thụ động lắng nghe, được “ru
vỗ” bằng những lời có cánh. Cịn cảm xúc, hứng thú chỉ là sự “lây lan” từ giáo viên
sang học sinh chứ khơng phải được khơi dậy, hình thành từ sự hoạt động của học
sinh.
3. Thực trạng tổ chức hoạt động khởi động trong giờ học Ngữ văn hiện
nay
3.1. Thực trạng về phía giáo viên

Trước những định hướng đổi mới của Đảng, Nhà nước và của ngành về dạy
học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh, cơ bản giáo viên trường THPT
Tuệ Tĩnh nói chung và giáo viên bộ mơn Ngữ văn nói riêng đã có tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích
cực của các em. Tuy nhiên sự quan tâm đổi mới chưa nhiều, chưa thực sự đi vào
chiều sâu, đôi khi cịn hình thức. Việc thực hiện tiết dạy của một số giáo viên vẫn
cịn theo hình thức cũ: nặng về lí thuyết, thiếu đi tính hấp dẫn, lơi cuốn học sinh
ngay từ hoạt động vào bài; giáo viên còn xem nhẹ việc dẫn dắt vào bài mà chủ yếu
dành thời gian cho việc tìm hiểu kiến thức mới dẫn đến tiết học khơ khan, học sinh
giảm hứng thú tìm hiểu, tiếp nhận kiến thức.
Một tiết dạy thu hút được sự chú ý, kích thích được sự tị mị, tìm hiểu của
học sinh phải xuất phát ngay từ đầu tiết dạy để tạo nên hứng thú học tập cho học
sinh trong suốt quá trình diễn ra tiết học. Tuy nhiên trên thực tế, cá nhân tôi (ở các
năm học trước) và nhiều giáo viên khi thiết kế hoạt động dạy học thường chỉ làm
theo hình thức giới thiệu qua một chút để vào bài, như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều
thời gian dành cho hoạt động khai thác kiến thức mới, không lo lắng nhiều về vấn
đề thiếu thời gian, cháy giáo án…Do đó ngay từ bước vào bài học sinh đã có tâm lí
thụ động chờ GV dẫn dắt nội dung và truyền thụ một chiều, từ đó sẽ khó tạo tâm lí
để các em sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ một cách tích cực ở các hoạt động tiếp theo
của bài học.

3.2. Thực trạng về phía học sinh
11


Thực tế dạy học trong nhà trường cho thấy trong một lớp học khả năng tiếp
thu của mỗi em là khác nhau cho nên hứng thú của mỗi em cũng sẽ khác. Nhiều
HS hào hứng đón nhận giờ Văn, các em tìm thấy ở đây những cảm xúc thẩm mĩ,
những bài học cuộc sống giúp các em trưởng thành, hoặc các em cảm thấy nhẹ
nhõm, thoải mái hơn so với các tiết học tự nhiên khác. Bên cạnh đó, có rất nhiều

HS có thói quen thụ động trong học tập. Các em khơng thích học, khơng đọc tác
phẩm, khơng quan tâm nhiều đến hành trình tự khám phá mà cơ bản là ghi chép,
dựa vào các tài liệu có sẵn để làm bài kiểm tra. Nhiều HS cịn có biểu hiện uể oải,
mệt mỏi trong giờ học. Thói quen lười vận động, lười tư duy, học tập hời hợt,
không hứng thú đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập.
Qua q trình tìm hiểu và nghiên cứu, tơi nhận thấy vai trò của việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy tính sáng tạo của HS là rất
quan trọng và việc đổi mới cần quan tâm, chú trọng thực hiện ngay từ khâu vào bài
để bài học hấp dẫn, sinh động và lôi cuốn hơn.
4. Hoạt động khởi động trong dạy học Ngữ văn
4.1. Quan niệm về hoạt động khởi động
Khởi động là hoạt động đầu tiên, hoạt động này nhằm giúp HS huy động
những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên
quan đến bài học mới. Hoạt động khởi động sẽ kích thích tính tị mò, sự hứng thú,
tâm thế của HS ngay từ đầu tiết học.
Hoạt động khởi động thường được tổ chức thông qua hoạt động cá nhân
hoặc hoạt động nhóm sẽ kích thích sự sáng tạo, giúp HS hình thành năng lực hợp
tác, tinh thần học hỏi, giúp đỡ nhau khi thực hiện nhiệm vụ. Chuẩn bị phần khởi
động như thế nào cho hiệu quả phải dựa vào nội dung bài, đối tượng HS và cả điều
kiện của GV.
Như vậy có thể hiểu, hoạt động này chưa đòi hỏi sự tư duy cao, không quá
coi trong về vấn đề kiến thức mà chủ yếu là tạo tâm thế tốt nhất cho các em nhập
cuộc, lơi kéo các em có hứng thú với các hoạt động phía sau đó.
4.2. u cầu khi vận dụng các biện pháp khởi động:
1. Với phương pháp dạy học truyền thống, khởi động chỉ bằng một vài câu
dẫn nhập nên khơng mất nhiều thời gian. Với hình thức đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực của HS ngay từ hoạt động khởi động, do đó
khởi động cần tổ chức thành hoạt động để HS trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng
thời gian nhiều hơn. Do đó khi xây dựng kịch bản cho hoạt động khởi động giáo
12



viên cần lưu ý không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, thiết kế
phần khởi động sao cho bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp GV biết được
HS đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để khai thác sâu vào những nội
dung chưa biết
2. Khởi động cần ngắn gọn, khái quát cao, lời gọn ý sâu, lấy ít gợi nhiều chứ
khơng dài dịng, tùy tiện. Nội dung cần khái quát, cô đọng nhưng phải phong phú.
Về ngôn ngữ cần trong sáng, tinh tế, súc tích.
3. Tùy vào từng bài dạy mà GV có thể vận dụng và chú ý từng yêu cầu
riêng, gây hứng thú cho HS và đảm bảo:
- Làm nổi bật tính mũi nhọn của bài dạy
- Làm nổi bật tính thú vị mang tính nghệ thuật của hoạt động dạy học
- Làm nổi bật tính đơn giản, dễ hiểu của ngơn ngữ
- Làm nổi bật tính khái quát, tập trung, nâng cao gợi ý.
Bởi vậy hoạt động khởi động cần kết hợp nhiều biện pháp sinh động, nhiều ý
tưởng sáng tạo.
4.3. Một số hình thức tổ chức tăng cường hiệu quả cho hoạt động khởi
động
4.3.1. Khởi động bằng tổ chức trò chơi:
Trò chơi là hoạt động được các học sinh thích thú tham gia. Vì vậy nó có
khả năng lơi kéo sự chú ý và khơi dậy được hứng thú học tập. Rất nhiều trị chơi
ngồi mục đích đó cịn có thể ơn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt
động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trị chơi
giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực
tâm lí do tiết học trước gây ra.
Trước khi chơi cần chuẩn bị đồ dùng, phương tiện cần thiết, tạo hiệu ứng, hệ
thống câu hỏi liên quan đến bài mới, dự kiến tình huống xảy ra và cách xử lí tình
huống, kết quả đạt được qua trị chơi. Để có những trị chơi hấp dẫn, giáo viên phải
sáng tạo khơng ngừng đồng thời khuyến khích các em tham gia nhiệt tình.

4.3.1.1. Trị chơi “Đuổi hình bắt tác phẩm”
Đây là trị chơi mang tính chất nhận diện. Nó phù hợp cho những tiết dạy
học ôn tập hoặc những tiết dạy chủ đề. Trị chơi này có những ưu thế nhất định
như:
13


Có khả năng lơi kéo số đơng học sinh tham gia
Phát huy trí tưởng tượng của học sinh
Rèn luyện khả năng phản ứng nhanh
Trong thời gian ngắn có thể giúp học sinh nhớ lại những tác phẩm đã học
Cách tổ chức:
GV chuẩn bị những bức hình khác nhau treo (hoặc trình chiếu) lên bảng. Mỗi hình
có những điểm gợi ý. HS nhìn vào hình để đốn tên tác phẩm. Ai đốn nhanh và
đốn đúng sẽ có điểm.
Ví dụ: Khi dạy bài Ôn tập văn học dân gian trong sách Ngữ văn 10- tập 1, GV lần
lượt trình chiếu từng hình ảnh và nêu câu hỏi: Đây là tác phẩm nào? Thuộc thể loại
gì của văn học dân gian?
HS sẽ quan sát hình và dễ dàng nhận ra hình 1: Truyện AN Dương Vương và MỊ
Châu – Trọng Thủy -> thể loại truyền thuyết
Hình 2: Bài ca dao: Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngồi thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
-> Thể loại Ca dao.

Hình 1

14



Hình 2
4.3.1.2. Trị chơi “Chiếc hộp may mắn”
Điểm đặc biệt của trị chơi này là ở tính bất ngờ cho HS. GV chuẩn bị một
chiếc hộp nhỏ, trong đó có các mảnh giấy ghi những phần quà thú vị, đa dạng. HS
thực hiện tốt yêu cầu sẽ được nhận quà trong chiếc hộp.
Cách thực hiện:
GV trình chiếu hệ thống câu hỏi trên máy chiếu. Quy ước trả lời đúng 4-5
câu sẽ nhận được một phần quà đặc biệt trong hộp bằng cách tự bốc
4.3.1.3. Trị chơi “Ơ chữ bí mật”
Hình thức: HS giải những ơ chữ hàng ngang rồi tìm từ khóa trong ơ hàng
dọc… Mỗi ơ chữ có lời gợi ý và nội dung ơ chữ có liên quan trực tiếp đến bài học.
Mục đích: củng cố, nhắc lại kiến thức về tác giả, tác phẩm đã học hoặc gợi
mở cho HS đã tìm hiểu về kiến thức bài mới ra sao?
Cách thực hiện:
GV giới thiệu qua ô chữ gồm có bao nhiêu ơ hàng ngang, mỗi ơ hàng ngang
sẽ có một từ chìa khóa tạo nên nội dung ô hàng dọc, sau đó GV lần lượt đọc từng
câu hỏi gợi ý để HS xung phong giải ô chữ. Nếu bạn nào trả lời đúng thì ghi dịng
chữ đó vào ô chữ và sẽ được cộng điểm hoặc tuyên dương, cịn nếu trả lời sai thì sẽ
nhường cơ hội cho các bạn cịn lại. Ai tìm ra ơ từ khóa chính xác và nhanh nhất sẽ
là người chiến thắng.
Sau khi phổ biến thể lệ cuộc chơi GV treo ô chữ (hoặc trình chiếu ơ chữ) lên
bảng và tiến hành đặt câu hỏi.
Ví dụ: Khi dạy tiết 2 của bài thơ “Vội vàng” (Xuân Diệu), GV có thể cho HS chơi
giải ô chữ để củng cố kiến thức tiết trước, tạo tâm thế cho tiết tiếp theo.
1) Đây là quê nội của thi sĩ Xuân Diệu
2) Xuân Diệu là nhà thơ “… trong các nhà thơ mới”
15



3) Quê mẹ của thi sĩ Xuân Diệu ở…
4) Đây là tên một tác phẩm văn xuôi của Xuân Diệu
5) Xn Diệu có một giọng thơ sơi nổi và…
6) Đây là tên một tập thơ ra đời năm 1960 của Xuân Diệu
7) Câu thơ sau trích trong bài thơ nào của Xn Diệu:
u là chết ở trong lịng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu…
H A T I N H
M O I

H Â

T

Đ I

N

H

T H Ô
A Y

N G

V

A N

G


R

I

G C

H

U N

G

Y

Ê U

B
P H Â N
Đ Ă M S

I

N

N H

Ê N

HS có thể tìm ra ngay từ khóa: Tình yêu

GV dẫn vào bài, tiếp tục tìm hiểu một hồn thơ đắm say, rạo rực, yêu cuộc
sống tha thiết.
4.3.2. Khởi động bằng hình thức thư giãn, giải trí
Đây là hình thức khởi động nhẹ nhàng so với HS. Nó phù hợp cho những
giờ dạy địi hỏi khơng khí sâu lắng hoặc cũng có thể vận dụng cho những giờ dạy
tác phẩm văn học. Việc đưa HS du lịch qua màn ảnh hay để các em chìm lắng vào
trong những giai điệu âm nhạc thiết tha, trữ tình sẽ là một cách thú vị để các em
thăng bằng cảm xúc, tạo những rung động thẩm mĩ.
Cách thực hiện: GV có thể sử dụng tranh ảnh, video hoặc nghe một bài hát
có liên quan đến bài học để tạo sự sinh động, hấp dẫn cho phần khởi động.
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” có thể trình chiếu cho HS xem
một trích đoạn phim
Hay khi dạy bài “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” của Hồng Phủ Ngọc Tường
có thể cho HS nghe giai điệu, hình ảnh bài hát “Dịng sơng ai đã đặt tên”, sáng tác
Trần Hữu Pháp.
4.2.3. Khởi động bằng các bài tập hay câu hỏi tình huống
16


Tạo tình huống nghĩa là giúp các em tưởng tượng ra một tình huống cụ thể
nào đó gần với nội dung bài học để các em trải nghiệm, tưởng tượng. Từ đó, dẫn
dắt vào bài.
Khi xây dựng tình huống học tập Ngữ văn địi hỏi GV phải tìm được tình
huống thú vị, khơi dậy sự ham thích học tập, tính chủ động, sáng tạo của người học
Ví dụ: Khi dạy tiết 2 của “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” GV có thể đưa ra
tình huống cho HS thảo luận: Hãy tưởng tượng mình là Trương Ba, phải sống trong
thân xác hàng thịt, hồn Trương Ba có suy nghĩ gì? Từ đó HS nêu những ý tưởng và
suy nghĩ của bản thân, GV sẽ dựa vào đó dẫn dắt vào nội dung bài học.
5. Thiết kế minh họa hoạt động khởi động trong một số bài học:
Với mỗi hoạt động khởi động đều cần làm rõ được bốn vấn đề sau:

a. Mục tiêu
b. Phương pháp tổ chức và hình thức hoạt động
c. Phương tiện dạy học
d. Cách thức tiến hành
e. Tiến trình dạy học
Tuy nhiên trong báo cáo này của tác giả, phương pháp tổ chức, phương tiện
dạy học về cơ bản giống nhau ở bài. Do đó tác giả thống kê chung PP tổ chức,
phương tiện dạy học tại đây mà không nhắc lại chi tiết ở mỗi bài nữa.
* Phương pháp tổ chức và hình thức hoạt động
- Phát hiện tình huống có vấn đề, nảy sinh nhu cầu cần giải quyết nó.
- Lấy các tình huống đời thường để dẫn dắt vào kiến thức mới một cách tự nhiên
- Thảo luận, trao đổi nhóm, phản biện giữa các nhóm, cá nhân HS.
- Quan sát trực quan (hình ảnh, video minh họa), phát hiện vấn đề
- Chia lớp thành các nhóm nhóm: Mỗi nhóm đều nhận nhiệm vụ như nhau hoặc
khác nhau (tùy từng nội dung). Các thành viên tự trao đổi, nghiên cứu tài liệu,
thảo luận tìm kiến thức phù hợp trong SGk để giải quyết nhiệm vụ GV giao cho.
- Nhóm trưởng có nhiệm vụ tổng hợp lại ý kiến của các thành viên và trình bày ý
kiến của nhóm trước lớp. Sau đó các nhóm sẽ phản biện nhau để hiểu rõ hơn kiến
thức mình tự tìm hiểu và khắc sâu, nâng cao phần kiến thức mới đó. (Trước đó,
GV đã yêu cầu các nhóm chuẩn bị câu hỏi phản biện).
17


* Phương tiện dạy học: SGK, máy chiếu, máy tính, và các thiết bị kết nối có liên
quan.
Dưới đây tơi đề xuất một cách khởi động ở một số bài trong chương trình
Ngữ văn lớp 11 phần Văn học:
5.1. Khởi động bài “Chí Phèo”
a. Mục tiêu: Tạo động cơ, kích thích HS hứng thú tìm hiểu về tác phẩm. Từ đó HS
có thể tự học, tự đọc, tự khám phám phá ý nghĩa tác phẩm

- GVđề xuất vấn đề để HS nhớ lại kiến thức cũ đã học, gợi mở kiến thức mới sắp
học để gợi trí tị mị cho học sinh tìm hiểu
b. Cách thức tiến hành: Kết hợp hình thức thư giãn giải trí và câu hỏi bài tập
c. Tiến trình hoạt động:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Thời gian: 7 phút
- GV trình chiếu cho HS xem một
trích đoạn trong phim “Chị Dậu”
(cảnh chị Dậu bán cái Tí cho nhà Nghị HS quan sát video
Quế)

Và một trích đoạn trong phim “Lão
Hạc” (cảnh lão Hạc bán cậu Vàng)

18


HS suy ngẫm, trả lời:
Vấn đề: Số phận người nông dân trong
XH Việt Nam giai đoạn 1930-1945
- GV nêu câu hỏi: Đoạn video đặt ra
vấn đề gì?

- GV nêu tiếp: Số phận của những
người nơng dân trong XH cũ đó liệu
đã là bi kịch cuối cùng?
GV trình chiếu 1 số hình ảnh về nhân
vật Chí Phèo trong phim “làng Vũ Đại
ngày ấy” để dẫn vào bài:


Nỗi khổ của chị Dậu, lão Hạc vẫn HS vào bài học
chưa là bi kịch cuối cùng mà người
nơng dân cịn phải chịu bi kịch đau
đớn hơn đó là: bi kịch bị tha hóa và bi
kịch bị từ chối quyền làm người.
19


Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu tác phẩm
“Chí Phèo” để thấy rõ.
5.2. Khởi động bài “Vội vàng”
a. Mục tiêu: Tạo động cơ, kích thích HS hứng thú tìm hiểu về tác phẩm. Từ đó HS
có thể tự học, tự đọc, tự khám phám phá ý nghĩa tác phẩm
- GVđề xuất vấn đề để HS liên hệ từ chính thực tế bản thân, quá đó dễ dàng nhập
tâm, khơi gợi cảm xúc khi tìm hiểu tác phẩm.
b.Cách thức tiến hành: Khởi động bằng câu hỏi tình huống
c. Tiến trình hoạt động:
Hoạt động của GV
Thời gian: 5 phút
GV: Nêu câu hỏi tình huống để HS
cùng chia sẻ:
Đã bao giờ em nhận thấy thời gian
dường như khơng chờ đợi mình?
Cảm xúc và hành động của em khi
đó ra sao? Hãy chia sẻ bằng lời về
điều này.

- GV lắng nghe, định hướng
- GV nhận xét và từ đó dẫn vào bài:

Với Xuân Diệu, là một nghệ sĩ ơng
có sự nhạy cảm và ám ảnh thời gian
mạnh mẽ hơn rất nhiều và ơng có
cách ứng xử ra sao?Chúng ta cùng
tìm hiểu bài thơ “Vội vàng”

Hoạt động của HS
(Dự kiến trả lời)
1 HS chia sẻ:
Khi em đứng trước 1 thời điểm quan
trọng: thi chuyển cấp, khi chuẩn bị kiểm
tra học kì
-> Cảm xúc lo lắng, hồi hộp; hành động:
tự giục giã mình cố gắng hơn
HS khác chia sẻ:
Em nhận ra thời gian gấp gáp hơn khi
người thân yêu của em bị bệnh nặng, bác
sĩ nói thời gian sống không được bao lâu
nữa
Cảm xúc: sợ thời gian trôi nhanh; hành
động: động viên, an ủi người thân
1 số HS khác tiếp tục bày tỏ quan
điểm

20


5.3. Khởi động bài “Chữ người tử tù”
a. Mục tiêu: Tạo động cơ, kích thích HS hứng thú tìm hiểu về tác phẩm. Từ đó HS
có thể tự học, tự đọc, tự khám phám phá ý nghĩa tác phẩm

- HS có thể vận dụng những hiểu biết thực tế để bước đầu hịa mình vào khơng
gian trong tác phẩm
b.Cách thức tiến hành: Khởi động bằng hình thức phiếu học tập
c. Tiến trình hoạt động:
Hoạt động của GV
Thời gian: 6 phút
- GV chia lớp thành 6 nhóm và phát phiếu
học tập cho từng nhóm
Nêu câu hỏi:
Qua việc tìm hiểu bài ở nhà, hãy ghi lại ngắn
gọn hiểu biết của anh/chị về nghệ thuật thư
pháp?................................................................
.........................................................................
.........................................................................
.........................................................................
.........................................................................
.........................................................................
.
GV gọi nhóm khác nhận xét, bổ sung
GV định hướng:
Thư pháp là nghệ thuật viết chữ bằng bút
lông, thể hiện qua nét chữ những tâm tình và
gửi gắm của người viết. Viết Thư Pháp khơng
chỉ địi hỏi chữ đẹp, mà bố cục cịn phải hài
hịa, đơi khi phải hợp phong thủy.
Thư Pháp vốn xuất thân từ Trung Hoa. Do
nét chữ tượng hình đặc trưng, Thư Pháp
Trung Quốc phát triển rực rỡ với nhiều dạng
chữ như chữ Triện, Lệ, Chân, Hành, Thảo.
Nghệ thuật Thư Pháp ảnh hưởng và lan rộng

qua các nước láng giềng như Hàn Quốc (Thư
21

Hoạt động của HS

HS trao đổi hoạt động nhóm
trong vịng 3 phút, thống nhất ý
kiến

Nhóm trưởng trình bày ý kiến
của nhóm


Nghệ), Nhật Bản (Thư Đạo).
Ở Việt Nam, Thư Pháp chữ Hán – Nôm đã
từng rất phổ biến, hiện nay thi thoảng vẫn
được sử dụng. Về sau, cùng với sự phát triển
và phổ biến của chữ Quốc Ngữ, Thư Pháp
Việt ra đời vừa mang tính đổi mới với việc sử
dụng chữ La tinh, vừa đậm nét truyền thống
với phong cách nghệ thuật cổ xưa.
Để viết Thư Pháp, cần đến Văn phòng tứ
bảo, tức là bốn món bảo vật trong thư phịng. Các nhóm tự bổ sung kiến thức
Những món ấy gồm: bút lông, mực, nghiên
mực và giấy viết.
GV dẫn vào bài, giới thiệu về tác giả và tác
phẩm.
6. Quá trình thực nghiệm và kết quả:
Để khảo nghiệm tính khả thi của đề tài, tác giả đã phối hợp cùng với tổ chuyên
môn tiến hành lấy phiếu điều tra về hiệu quả thực tế đối với HS khi tác giả thực

hiện các biện pháp đổi mới hình thức khởi động theo hướng phát huy tính tích cực
của HS.
Dựa trên kết quả khảo sát sự hứng thú của học sinh
* Nhận xét chung
Kết quả thực tiễn cho thấy với lớp áp dụng SK HS rất hào hứng vì HS khơng
bị gị bó vào kiểu dạy truyền thống. HS ln tị mị, mong muốn tìm hiểu và giải
quyết tình huống, cố gắng để nhóm có những thảo luận, phản biện và báo cáo tốt
nhất.Với những lớp khơng áp dụng SK thì HS học uể oải, miễn cưỡng, đối phó
hoặc phần lớn là khơng chú ý vào bài học.
* Xét tiêu chí số lượng HS quan tâm chú ý; chủ động tìm tịi kiến thức và thực
hành vận dụng:
Tỉ lệ HS chú ý, hăng hái tìm hiểu
và thảo luận

Đối tượng
Năm học: Khơng áp dụng SK

35 %
22


Năm học: Áp dụng SK

74%

Với lớp không áp dụng SK: HS bị động, ngồi im ắng trong cả giờ học, thái độ mệt
mỏi. Khơng hoặc rất hiếm có cánh tay phát biểu, cả cơ, trị đều thấy oải, mệt mỏi
khi trải qua 45p trong mỗi giờ lên lớp.
* Kết quả phiếu thăm dò ý kiến HS sau khi áp dụng SK:
- Kết quả thống kê với lớp áp dụng SK

Ý kiến trả lời
Tiêu
chí

1

Nội dung khảo sát
Hồn tồn Đồng ý Phân
đồng ý
vân

Khơng
đồng ý

Cách khởi động chủ đề có hứng thú
giúp HS tự học và định hướng đến
hình thành kiến thức mới của bài
học.

62%

33%

5%

0%

Các câu hỏi, tình huống trong bước
khởi động hay, kích thích sự tị mị,
muốn tìm hiểu kiến thức mới.


80%

17%

3%

0%

3

Khơng khí lớp vui, tị mị, chờ đợi,
thích thú khám phá kiến thức mới.

85%

13%

2%

0%

4

HS được đặt trong tình huống có vấn
đề dẫn dắt đến nhu cầu phải học kiến
thức mới để giải quyết tình huống đó.

80%


15%

5%

0%

5

HS được tranh luận, phản biện để
làm rõ kiến thức tự học.

83%

10%

7%

0%

6

Cuối mỗi hoạt động khởi động HS
đều có yêu cầu sản phẩm rõ ràng.

80%

15%

5%


0%

7

Một số cách mô phỏng hoạt động

90%

8%

2%

0%

2

23


khởi độngcho kiến thức khó nhưthuật
tốn tìm max, sắp xếp rất thu hút và
dễ hiểu.
- Với lớp không áp dụng SK: Vẫn dùng mẫu phiếu thăm dò trên:

Ý kiến trả lời

Tiêu
chí

Hồn tồn đồng ý


Đồng ý

Phân vân

Khơng đồng ý

1

22%

28%

35%

15%

2

40%

27%

23%

10%

3

25%


23%

40%

12%

4

30%

15%

30%

25%

5

33%

20%

27%

20%

6

40%


35%

20%

5%

7

20%

22%

28%

30%

Kết quả cho thấy: Với lớp không áp dụng SK, mặc dù là lớp chọn ý thức tốt
hơn, tự giác hơn nhưng mức độ hứng thú, sự hài lòng, niềm vui trong học tập lại
thấp hơn lớp đầu vào thấp hơn.
* Phân tích số liệu khảo sát:
a. Ưu điểm:
Hình thức khởi động: tổ chức thành các hoạt động, đa dạng về hình thức tổ
chức, thu hút được sự chú ý và tham gia của HS; thông qua việc các em được trực
tiếp tham gia vào hoạt động, được học tập tích cực và kích thích sự sáng tạo bằng
24


các hình thức “có vấn đề” giúp các em chú ý hơn vào bài học, học tập một cách
chủ động và tích cực hơn trong tiết học.

b. Hạn chế:
Trong số các hoạt động đã xây dựng dù ít những vẫn có hoạt động HS ít tích
cực trong tiết học, q trình thực hiện cần tiếp tục điều chỉnh hoạt động đa dạng và
hấp dẫn hơn để phát huy tối đa tính tích cực của HS.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sáng kiến đã triển khai kịp thời tinh thần đổi mới trong việc tiếp cận dạy học
theo tiến trình hoạt động của HS gồm 5 hoạt động: Khởi động, hình thành kiến
thức, luyện tập, vận dụng và tìm tịi, mở rộng. Với đề tài “Một số hình thức tổ chức
hoạt động khởi động trong môn Ngữ văn nhằm phát huy tính tích cực của HS”, SK
đã làm được:
- Nghiên cứu lí thuyết và tiên phong áp dụng dạy học theo tiến trình 5 bước
hoạt động mới nhất hiện nay. Thực tế nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, cách
xây dựng và triển khai theo tiến trình 5 bước như vậy thực sự phát huy được tính
tính cực, tự học và đưa HS làm trung tâm của quá trình dạy học.
- Với những đề xuất khởi động trên, mỗi bài học được tiếp cận một cách tự
nhiên, nhẹ nhàng, kích thích sự ham học hỏi, tự nghiên cứu và giải quyết vấn đề từ
HS. Thực tế cho thấy, HS rất hứng thú với các cách khởi động này và các em mong
muốn được triển khai các tiết học khác đều có nhiều hoạt động khởi động như vậy.
- Tác giả đã dùng các câu hỏi “mở” để khuyến khích HS nêu các câu hỏi
phản biện, các giải pháp… khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Khơng cần trả
lời, khơng cần khẳng định đúng sai ngay trong các tình huống có vấn đề, rồi từ đó
GV cùng HS lựa chọn những câu hỏi, giải pháp muốn được/cần được trả lời, khẳng
định.
- Thực nghiệm cho thấy, với lớp áp dụng SK, HS ln thích thú, chủ động,
tự nghiên cứu kiến thức mới khiến cho việc học trở lên nhẹ nhàng ‘vừa học vừa
25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×