Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.93 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề tài:

MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Học viên: ĐỖ THỊ THU HẰNG
Mã số học viên: FF200017
Lớp: Hoàn chỉnh Cao cấp lý luận chính trị K71 - C01

HÀ NỘI - 2020
1


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...............................................................................................................
B. NỘI DUNG.............................................................................................................
1.CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH
TẾ VÀ CHÍNH TRỊ.....................................................................................................
1.1. Khái niệm kinh tế và chính trị..............................................................................
1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị......
2. NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................
2.1. Quan điểm mang tính định hướng của Đảng về đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam.....................................................................................................
2.2. Nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt nam
3. Kết quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị:


ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
3.1. Ưu điểm trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
3.2. Hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
3.3. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị
4. Những vấn đề đặt ra về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
C. KẾT LUẬN............................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................

2


A. MỞ ĐẦU
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác động
trực tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như q trình phát triển
của lồi người. Mèi quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan
hệ biện chứng và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Không có một chế độ nào mà hoạt động kinh tế lại độc lập với
hoạt động chính trị, hình thái kinh tế quyết định tới chế độ
chính trị, nhng ngợc lại chính trị cũng có tác động to lớn tới kinh
tế. Sự ổn định về chính trị là tiền đề, là điều kiện để phát
triển kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển mạnh mẽ và ổn
định đòi hỏi phải có sự ổn định về chính trị.
C.Mỏc và Ph.Ăngghen đã bàn đến khá nhiều vấn đề kinh tế, chính trị và mối
quan hệ của chúng. Việc nghiên cứu quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị là cơ sở phương pháp luận để xem xét việc giải
quyết mối quan hệ này ở Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ
được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nhìn lại thực

tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước, có thể thấy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ngày càng trở thành nội dung quan trọng trong các quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để nhận thức và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ này không chỉ là khâu đột phá mà còn giúp giải quyết những
vấn đề cơ bản nhất của thực tiễn đất nước đang đặt ra. Chính vì vậy, học viên đã lựa
chọn đề tài: " Mèi quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
cụng cuộc đổi míi ë níc ta hiƯn nay" để làm rõ thêm thực trạng
của nền kinh tế, chính trị của đất nớc v hớng phát triển của nền
kinh tế trong tơng lại.

3


ồng thời qua đó cũng cho thấy những chính sách hết sức
đúng đắn của Đảng, Nhà nớc trong việc hoạch ®Þnh ®ỉi míi
nỊn kinh tÕ ®Êt níc.

4


B. NỘI DUNG
1. CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm kinh tế và chính trị
Kinh tế là tổng hịa các mối quan hệ lợi ích giữa người và người trong một
nền sản xuất xã hội, đồng thời là cơ sở quy địnhquan hệ giữa người và người trong
mội phương diện của đời sống xã hội và cung đồng thời là cơ sở động lực cho mỗi
cá nhân và cho cả xã hội phát triển.
“Người ta không thể sản xuất được nếu khơng kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất

được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan
hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những
mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”2
“Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật
chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... mâu thuẫn với
những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát
triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội”1.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là cơ sở quy định nội dung trong
mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các đảng phái, giữa các dân tộc, giữa các quốc
gia có liên quan đến vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
“Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức
là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính
trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”4.

5


“Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, chính trị là thái độ của giai cấp
vơ sản đang đấu tranh tự giải phóng mình, chống giai cấp tư sản tồn thế giới”5.
“Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch
hướng cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của nhà nước”1.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị
1.2.1. Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị
Trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph. Ăngghen đã nghiên
cứu một cách sâu sắc mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng –
thực chất của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

Kinh tế là nền tảng của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị, tương
ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế là một trình độ phát triển nhất
định về chính trị. Nói cách khác, cơ cấu thể chế chính trị bao giờ cũng tương ứng
với một cơ sở kinh tế nhất định. Do đó, khi giải thích mọi sự biến đổi về chính trị,
cần phải xuất phát từ căn nguyên kinh tế. Sự biến đổi, phát triển kinh tế là nguồn
gốc sâu xa của mọi sự biến đổi về xã hội và đảo lộn về chính trị. Khi kinh tế phát
triển thì chính trị tiến bộ, ngược lại khi kinh tế khủng hoảng, chính trị cũng sẽ ảnh
hưởng thậm trí có thể bị khủng hoảng theo.
1.2.2. Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế
- Chính trị có quy luật vận động “riêng”
Tính độc lập tương đối của chính trị thể hiện ở chỗ, bản thân “chính trị có
logic khách quan của nó, khơng phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân khác, của
đảng này hay đảng khác”. Hơn nữa, chính trị với tư cách là biểu hiện tập trung của
kinh tế, do vậy chính trị là quyền lực nhà nước – cũng là một tiềm lực kinh tế.
Tính độc lập tương đối theo quy luật riêng của chính trị trên cơ sở của sự tác
động qua lại giữa hai lực lượng không giống nhau: một bên là của sự vận động kinh
6


tế, cịn bên kia là của lực lượng chính trị mới đang vươn tới tính độc lập càng lớn
càng tốt và một khi nó bắt đầu hoạt động thì nó cũng có sự vận động riêng của nó.
Sự vận động kinh tế nói chung và nhìn tổng thể thì sẽ tiện mở đường cho mình,
nhưng nó cũng sẽ chịu sự tác động ngược lại của sự vận động chính trị mà chính nó
tạo ra và có tính độc lập tương đối.
- Chính trị tác động trở lại kinh tế
Chính trị là nhân tố lãnh đạo kinh tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo ra nhứng
điều kiện chính trị và xã hooijcho kinh tế phát triển. Do đó, Chính trị không thể
không giữ địa vị hàng đầu so với kinh tế, khơng có một lập trường chính trị đúng
thì một giai cấp nhất định nào đó, khơng thể nào giữ được sự thống trị của mình, và
do đó, cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất.

Chính trị đã được thiết chế hóa thành hệ thống của các bộ máy mà biểu hiện
tập trung là nhà nước. Chính trị tác động trở lại kinh tế như là sức mạnh kinh tế và
sự tác động này có thể theo các hướng:
Một là, cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó, chính trị có vai trị tích
cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là một vật cản,
kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, chính trị có khả năng hạn chế phần nào phạm vi tác động những
khuynh hướng phát triển này, hoặc có thể đẩy mạnh tác dụng của khuynh hướng
phát triển khác trong một chế độ kinh tế nhất định.
2. NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ
ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan điểm mang tính định hướng của Đảng về đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở Việt Nam
- Đổi mới

7


Khái niệm "đổi mới" được Đảng xác định là sự thay đổi về chất trong tư duy,
nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và quần
chúng nhân dân về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đổi mới "nhằm kế thừa
và phát huy những thành quả và giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, thay đổi,
uốn nắn những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa được xác định hoặc
hiện nay khơng phù hợp với tình hình mới; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm,
đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những giải pháp đúng, phù hợp với
cuộc sống để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một giai đoạn mới”[1].
Đổi mới bắt đầu từ tư duy. “Đổi mới tư duy khơng có nghĩa là phủ nhận những
thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại,

chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”[2].
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta khơng ngừng tìm tịi từ thực tiễn đất nước và thời
đại, xác định ngày càng rõ và đầy đủ hơn về nội hàm và mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị.
- Nội hàm đổi mới kinh tế
Đổi mới kinh tế là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao
cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố; chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép
kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, nhằm kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển kinh tế.
Trên quan điểm định hướng của Đại hội VI, Đại hội lần thứ VII của Đảng
tiếp tục khẳng định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới
kinh tế trên các mặt: sắp xếp và củng cố các đơn vị kinh tế, từng bước hình thành
và mở rộng đồng bộ các thị trường, đổi mới và hồn thiện các cơng cụ quản lý vĩ
mô của Nhà nước. Đại hội khẳng định, sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ
8


nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách
quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mơ hình tổng qt, là đường lối
chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà
nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách; sử
dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. “Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân”[3].

Đại hội X (2006), Đảng ta tiếp tục chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức; nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà
nước theo hướng quản lý bằng pháp luật, hạn chế tối đa can thiệp hành chính vào
hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, với nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Đáng chú ý là Đại hội X cịn đưa ra chủ trương
khơng xem kinh tế tư nhân gắn với chủ nghĩa tư bản, mà lãnh đạo kinh tế tư nhân
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa X -3/2008), Đảng ta đã khẳng định, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân
theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực
để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
xác định là mơ hình kinh tế phù hợp với đặc điểm đất nước.

9


Đại hội XII, đổi mới kinh tế tiếp tục được tập trung vào hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản xuất xã hội;
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ; “bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây
dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh
tế -xã hội”[4].
- Nội hàm đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị được xác định bao gồm đổi mới tư duy chính trị về chủ
nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị,

trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) Đảng ta bắt đầu dùng khái niệm “hệ
thống chính trị”. Khái niệm này cho thấy việc nhận thức rõ hơn về tính hệ thống,
tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành, bao gồm Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và 5 đoàn thể nhân dân là thành viên của hệ thống chính
trị.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) nhấn
mạnh: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị,
khơng để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không
coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa
nguyên về kinh tế”[5].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội thông qua tại Đại hội VII (1991) đã xác định rõ mục tiêu tổng quát của hệ thống
10


chính trị: “Tồn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai
đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”[6].
Trong Cương lĩnh (1991), lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn chỉnh
về phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng về chính sách và chủ trương”[7], “Đảng liên hệ mật thiết với
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật”[8]. Lần đầu tiên Đảng ta xác định: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[9].
Tại Hội nghị Đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu tiên Đảng
ta đưa ra khái niệm “Nhà nước pháp quyền”. Đó là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất
nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đồn kết
tồn dân, lấy liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo.
Năm 1998, tại Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng ta mở cuộc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí;
chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Năm 1999, tại Hội nghị
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng ta mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; chống suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp sửa đổi (năm 2001) khẳng định: Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
11


mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ
trí thức.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh đổi mới chính trị ở ba yếu tố cơ bản, trọng
yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng
đầu.

Tiếp nối tinh thần Đại hội XI, Đại hội XII tập trung sắp xếp, kiện toàn tổ
chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác
của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp
hơn[10]. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được
đổi mới. Vai trị, tính chủ động tích cực, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức
trong hệ thống chính trị nhất là vai trị của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc được
phát huy[11].
2.2. Nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt nam
Thời kỳ trước đổi mới, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị khơng đúng đắn, chúng ta đã nhấn mạnh q mức vai trị của chính
trị đối với kinh tế và các lĩnh vực của đời sống xã hội; vi phạm quy luật kinh tế
khách quan; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị;
nhận thức một cách đơn giản về tác động của chính trị đối với kinh tế; chính trị can
thiệp q sâu vào các q trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh
hành chính, chủ quan của các cơ quan quản lý.
Đại hội VI của Đảng xác định phải đổi mới từ kinh tế đến đổi mới chính trị
và các lĩnh vực khác. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội
nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VI) đã chỉ rõ: "Chúng ta tập trung sức
làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
12


động của các tổ chức chính trị. Khơng thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một
cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, khơng có mục
tiêu cụ thể và khơng đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị,
gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới"[12].
Đại hội VII tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế đồng thời từng
bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Chủ trương

này tiếp tục được các Đại hội Đảng thực hiện. Tuy nhiên, từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII Đảng ta đưa ra chủ trương: "Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng
bước đổi mới chính trị”[13], với tinh thần phải “đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế
thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy
đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”[14]. Đại hội XI
nhấn mạnh: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích
hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương”[15].
Tổng kết 30 năm đổi mới, nhất là tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội XI, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”[16], trong đó có thành
tựu về giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, Đại
hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi
mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm
nhiệm vụ”[17]. Trên tinh thần đó, Đại hội XII đề mục tiêu chung “đổi mới mạnh
mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế

13


và chính trị”[18]. Đại hội XII xác định trong điều kiện hiện nay cần tập trung đổi
mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị.
Về đổi mới thể chế kinh tế, tập trung vào đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế; thực hiện có hiệu quả tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa; tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước;
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đổi mới thể chế chính trị, tập trung vào xây dựng Đảng về đạo đức và
khắc phục một số hạn chế của công tác cán bộ: tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đổi mới bộ máy
đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành.
Sự đồng bộ trong đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị nhằm tạo ra sự
nhịp nhàng, ăn khớp, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát
triển. Đây là điểm nhận thức mới sâu sắc trong quan niệm của Đại hội XII của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị.
Tóm lại, Nội hàm của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ biện
chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng được nhận thức đầy đủ,
sâu sắc hơn. Khơng cịn tư duy tuyệt đối hóa, xơ cứng, máy móc và siêu hình, nhấn
mạnh một chiều về vai trị của đổi mới về kinh tế hoặc chính trị. Tư duy, nhận thức
về mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng đầy
đủ hơn, phù hợp với thực tiễn sống động của đời sống kinh tế và đời sống xã hội,
mang “hơi thở” của cuộc sống.
Tuy nhiên, Quá trình nhận thức mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị cịn chậm, thậm chí cịn có biểu hiện của sự trì trệ ở một số
lĩnh vực, khía cạnh, dẫn đến hạn chế sự phát triển đột phá. Tính sáng tạo trong việc
14


nhận thức quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chưa cao.
Vẫn cịn những biểu hiện thiếu quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể
trong việc nhận thức quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Đơi khi cịn có biểu hiện chính trị hóa một số vấn đề kinh tế cụ thể.

3. Kết quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị: ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
3.1. Ưu điểm trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị
Tư duy mới về kinh tế và chính trị đã làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế
và đời sống chính trị, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế và sự ổn định về
chính trị của đất nước.
Trong đổi mới kinh tế, Đại hội XII đánh giá: “Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục
được hồn thiện. Vai trị, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư, kinh doanh
được cải thiện, bình đẳng và thơng thống hơn. Các yếu tố thị trường và các loại thị
trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế”

[1]

.

“Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày
càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy động và phân bổ
các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã
từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh”[2].
Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn đã
giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy kinh tế của nước ta tăng trưởng
vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau hơn 30 năm đổi
mới chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước
thoát khỏi khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung

15



bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền
kinh tế.
Trong đổi mới chính trị, Đại hội XII đánh giá: Tổ chức bộ máy các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được
sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ
cơng tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù
hợp hơn[3]. “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục
được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình cơng tác để thực
hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trị, tính
chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là
vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc” [4]. “Quan điểm và thể chế về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ
bản”[5]. “Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản
lý xã hội ngày càng được đề cao” [6]. Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hồn thiện” [7]. Chính
phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết
những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước
đầu đạt kết quả tích cực[8]. Quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh
tế và chính trị được phát huy tốt hơn[9].
3.2. Hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị
Thứ nhất, đổi mới chính trị vẫn cịn chậm hơn so với đổi mới kinh tế, chưa
theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua vẫn còn nhiều chính sách chưa phù hợp với cuộc sống,
gây cản trở sự phát triển kinh tế. Một số cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa nhất
qn, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi, nhiều cấp nhiều ngành chưa thay
thế, sửa đổi những quy dịnh về quản lý nhà nước khơng cịn phù hợp, chưa bổ sung

16


những cơ chế, chính sách mới có tác động giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất,
khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các
doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội. Có những chính sách bị biến dạng qua
nhiều tầng nấc hành chính quan liêu. Việc ban hành các văn bản pháp quy hướng
dẫn thi hành luật rất chậm.
Đổi mới của khu vực kinh tế nhà nước cũng còn chậm, chưa đáp ứng được
yêu cầu đề ra, xảy ra nhiều tham nhũng, tiêu cực, tạo ra sự e ngại từ phía các nhà
đầu tư vào các khu vực kinh tế nhà nước, giảm khả năng đóng góp khả năng, trí tuệ
và kinh nghiệm của các nhà đầu tư vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước; chưa
có chính sách phù hợp để thúc đẩy kinh tế khu vực ngoài quốc doanh; nhận thức về
vai trò của kinh tế tư nhận chậm thay đổi nên việc phát triển đảng trong khu vực
kinh tế tư nhân còn rất chậm; mối quan hệ nhà nước - thị trường chưa được giải
quyết thỏa đáng vơ hình trung tạo ra kẽ hở một cách "hợp pháp" cho các hoạt động
kinh tế ngầm lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế nói chung, gây ra những hệ quả
chính trị - xã hội khơng nhỏ.
Độ vênh trong quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nhiều thành
phần còn thể hiện ở mức độ cung cấp vốn, phân bổ dự án đầu tư thiếu tập trung,
hoặc nếu tập trung thì lại tập trung quá mức. Do quản lý vừa bng lỏng, vừa hình
thức nên hiệu quả không đáng kể so với đầu tư. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng
của Chính phủ xử lý nhiều vấn đề chưa nhạy bén, thiếu linh hoạt và cịn quan liêu
nên đơi khi đưa ra những quy định trái ngược nhau, gây xáo trộn ở một số lĩnh vực
và tâm lý bất ổn trong dư luận nhân dân.
“Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách chưa hồn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp
ứng được u cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu nền kinh tế, thực hiện ba
đột phá”[10]. “Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo đột phá lớn trong huy động, phân bổ, sử dụng

hiệu quả các nguồn lực phát triển”[11]. “Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn
17


trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thơng thống, bảo đảm
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa,
dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường”[12]…
Thứ hai, tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn tồn tại, có nơi
có diễn biến phức tạp. Hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội có xu hướng
hành chính hóa và bộ máy cồng kềnh.
Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về những hạn chế trong đổi mới
chính trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm” [13]; “Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh
tế và quản lý đất nước”[14]; “cơng tác xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, yếu kém,
chậm được khắc phục” [15].
Thứ ba, đổi mới trong bản thân lĩnh vực chính trị cũng cịn những hạn chế.
Ý chí của quyền lực chính trị chưa được coi trọng và tuân thủ một cách nhất quán.
Chủ trương của Nhà nước và các địa phương không đồng bộ, thậm chí trái ngược
nhau. Việc coi thường kỷ cương đang làm sức mạnh của hệ thống chính trị chậm
được tăng cường và có phần bị suy giảm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức
kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách của Nhà nước, báo cáo khơng trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống hoặc bị vận
dụng sai lệch.
Chủ trương của Nhà nước và các địa phương khơng đồng bộ, thậm chí trái
ngược nhau. Việc coi thường kỷ cương đang làm giảm đi sức mạnh của hệ thống
chính trị vốn rất hiệu quả trước đây. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật

và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng, chính sách
của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
18


làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống. Nhiều chủ trương đã đề
ra hoặc bị rơi vào quên lãng, hoặc thiếu tính khả thi do lối tư duy nóng vội, duy ý
chí và khơng có tinh thần trách nhiệm đã không được thực hiện nghiên túc, đầy đủ.
Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý
nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con
người chính trị - chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ
thống chính trị.
Đại hội XII chỉ rõ: “Chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân cơng,
phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế
hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm
chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo,
vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống
nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật
thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền, cịn chồng chéo; tính cơng khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế.
Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi cơng vụ cịn nhiều yếu kém. Cải
cách hành chính cịn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành
chính cịn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã
hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển” [16].
“Việc triển khai một số nhiệm vụ tư pháp cịn chậm; vẫn cịn tình trạng nhũng
nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lột tội phạm. Công tác phịng, chống tham nhũng, lãng
phí chưa đạt u cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiệm trọng [17]. “Hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa
sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, cịn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thiết

thực, hiệu quả”[18]. “Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thể chế hóa đường
lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
19


cịn thiếu và chưa đồng bộ”[19]. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và
kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều
nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm[20]…
Đại hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ
với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa
ngang tầm nhiệm vụ”[21], đã cản trở q trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm
kinh tế phát triển và cải thiện đời sống nhân dân.
3.3. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị
- Ngun nhân ưu điểm: Vai trị lãnh đạo của Đảng vẫn luôn được khẳng
định là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nói chung
cũng như nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị. Bên cạnh đó, sự ổn định cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội với tốc độ
tăng trưởng cao, tạo tiền đề vật chất đặc biệt quan trọng, làm “bệ đỡ” để đổi mới
chính trị.
- Nguyên nhân hạn chế: Ở một số khía cạnh, vấn đề đổi mới chính trị chưa
thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và phân định dứt khoát chức
năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Rất nhiều trường
hợp, ở nhiều lĩnh vực, cán bộ lãnh đạo đường lối tham gia vào công việc của cán bộ
quản lý một cách quá sâu nên dễ dẫn đến hai tình huống: hoặc khơng đạt được kết
quả như chủ trương do trình độ và chun mơn khơng đúng tầm, khi đó khơng xác
định được ai sẽ là người chịu trách nhiệm; hoặc là do bất đồng ý kiến, khơng tìm
được tiếng nói chung trong việc tiến hành công việc dẫn đến công việc bị bê trễ, lơ
lửng kéo dài mà cũng không thể quy trách nhiệm cho cụ thể cá nhân nào. Việc nhất
thể hóa các chức danh lãnh đạo là một chủ trương đúng, song ở một số chủ thể cụ

thể, bản thân người lãnh đạo hoặc do hạn chế về năng lực, hoặc chưa có nhận thức
đúng về u cầu, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, chưa phân định rạch ròi giữa lãnh

20


đạo và quản lý, dẫn đến chồng chéo, thiếu thống nhất, hiệu lực và hiệu quả lãnh
đạo, quản lý thấp.
4. Những vấn đề đặt ra về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị
Thứ nhất, về chính trị, mặc dù đã có những thành tựu bước đầu, nhưng hiện
cịn nhiều vấn đề bức thiết đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết như: xây dựng Nhà
nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - với tư cách là môi trường pháp
lý và động lực cho phát triển kinh tế chưa được thực hiện một cách đúng mức; việc
đấu tranh phịng chống tham nhũng, cải cách hành chính cịn hạn chế; trong nhiều
mối quan hệ, chính trị chưa mở đường cho kinh tế phát triển mà đơi khi, cịn kìm
hãm sự phát triển.
Xét trên phương diện quy luật, dân chủ hóa các hoạt động kinh tế phải đi đơi
với dân chủ hóa chính trị. Dân chủ hóa kinh tế có nghĩa các chủ thể tham gia hoạt
động kinh tế (người dân, doanh nghiệp) có tiếng nói trong hoạch định chính sách
phát triển kinh tế; giảm thiểu, dẫn tới xóa bỏ mọi hình thức độc quyền, lấy thị
trường làm căn cứ quan trọng nhất để phân bổ các nguồn lực phát triển; xác lập cơ
chế đảm bảo môi trường cạnh tranh cơng bằng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh
tế. Từ đó, cũng đặt ra các yêu cầu cho đổi mới chính trị như: nhất quán định hướng
chính trị trong phát triển kinh tế thị trường; xác lập được vị thế, vai trị, tiếng nói
của người dân trong hoạch định chính sách; Nhà nước hoạt động theo chuẩn mực
của nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, bản thân Nhà nước cũng
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư
pháp… Có những yếu tố của thị trường trước đây chúng ta không thừa nhận, không
cho phép tồn tại, giai đoạn đổi mới đã thừa nhận, thậm chí khuyến khích phát triển

như: thị trường tài chính, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán…, vậy,
những yếu tố của nền dân chủ hiện đại như: xã hội dân sự, tự do báo chí, quyền lập
hội…có được chấp nhận khơng, chấp nhận và vận dụng ở mức độ nào cũng cần
phải được nhận thức và giải quyết trên phương diện lý luận.
21


Thứ hai, về mặt lý luận, một số vấn đề trong mối quan hệ giữa “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa” chưa được làm rõ, chưa tạo ra sự thống nhất trong
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong khi kinh tế là cái quyết định chính trị,
kinh tế mới ở mức “định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhưng chính trị là cái phản ánh
kinh tế lại là “xã hội chủ nghĩa”. Có nghĩa là cái phản ánh ở trình độ cao hơn cái
được phản ánh; cái bị quyết định cao hơn cái quyết định. Nhận thức như vậy liệu có
phù hợp với quy luật khách quan. Chính nhận thức như vậy đã tạo ra những sự lúng
túng, khiên cưỡng nhất định trong xây dựng các chính sách đổi mới chính trị.
Thứ ba, nhận thức về vai trị của kinh tế tư nhân cịn có biểu hiện chưa thống
nhất.
Về kinh tế tư nhân, Nghị quyết Đại hội XII nêu: “Hoàn thiện cơ chế, chính
sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các
ngành, lĩnh vực, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế” [22]. Để kinh tế
tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW (ngày 3 tháng 6
năm 2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, về quan điểm, Đảng ta
cho rằng, phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu
cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây được coi là
một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để

kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả
về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP. Điều đặc biệt
quan trọng là, phải xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, nhất là những định kiến về chính
trị, để thực sự tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hơn nữa phát triển kinh tế tư
nhân. Bởi trong thực tế đã có lúc chúng ta đã có những định kiến với thành phần
22


kinh tế này. Như vậy, tuy kinh tế tư nhân đã được xác định là một động lực quan
trọng của nền kinh tế ở nước ta, nhưng ở một số địa phương, ở một số chủ thể
chính trị, chưa có nhận thức thống nhất, nên việc xử lý những vấn đề liên quan đến
kinh tế tư nhân chưa nhất quán, thậm chí có sai phạm, chưa tạo động lực cho kinh
tế tư nhân phát triển mạnh mẽ và hiệu quả.
Thứ tư, việc đổi mới nhận thức về sở hữu đã thực sự tạo điều kiện để giải
phóng sức sản xuất xã hội. Tuy nhiên, quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề
này trong những năm qua cịn có nội dung chưa đủ rõ, chưa được hiểu thống nhất.
Chẳng hạn, trong Cương lĩnh (1991) ghi là xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ công hữu, đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) lại ghi là xây dựng
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Việc hiểu nội hàm khái niệm “tiến bộ phù hợp”
cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất cao. Điều này dẫn đến sự thiếu thống nhất
trong nhận thức và giải quyết thực tiễn vấn đề sở hữu trong lĩnh vực kinh tế, nhất là
đối với kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

23


c. KÕt ln
Cã thĨ nãi, mèi quan hƯ gi÷a kinh tế và chính trị là đại
diện tiêu biểu cho mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thợng tầng. Một đất nớc chỉ có thể có cơ sở hạ tầng

vững chắc khi có một nền kinh tế phát triển và ổn định. Trên
cơ sở hạ tầng đó sẽ hình thành một kiến trúc thợng tầng tơng
ứng gồm: chính trị, pháp luật, tôn giáo.... do đó, kiến trúc thợng
tầng muốn ổn định thì đòi hỏi hạ tầng cơ sở phải vững chắc.
Qua đó có thể thấy vai trò quyết định của kinh tế đối với
chính trị. Mỗi hình thái kinh tế sẽ hình thành nên một thể chế
chính trị tơng ứng. Khi mà hình thái kinh tế ®ã thay ®ỉi th×
tÊt u sÏ kÐo theo sù thay ®ỉi cđa thĨ chÕ chÝnh trÞ. Mét nền
kinh tÕ cã ổn định và phát triển thì mới có sự ổn định về
chính trị. Ngợc lại, chính trị cũng có tác động to lớn đối với kinh
tế. Ngày nay các nớc trên thế giới đều gắn liền hoạt động chính
trị của đất nớc với hoạt động kinh tế, không có một nớc nào để
hoạt động chính trị tách rời khỏi hoạt động kinh tế. Sự ổn định
về chính trị là điều kiện cần thiết nhất để phát triển nền kinh
tế của đất nớc. Nhà nớc không chỉ đơn thuần là giữ trật tự mà
còn phải tham gia điều tiết từ bên trong nỊn kinh tÕ.
ë ViƯt Nam hiện nay, nhờ có đường lối chính trị đúng đắn với chủ trương
kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, mà chúng ta đã đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị và
khối đại đồn kết tồn dân tộc được củng cố và tăng cường, chính trị xã hội ổn
24


định; quốc phòng và an ninh được giữ vững, vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo
ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.


25


×