Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học_kỹ năng lãnh đạo quản lý kỹ năng tư duy của nhà lãnh đạo quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.79 KB, 32 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kỹ năng tư duy là vấn đề liên quan đến tư tưởng và nguồn lực trí tuệ
của con người, khơng chỉ được nghiên cứu dưới góc độ triết học mà cịn ở
cả góc độ khoa học quản lý. Tư duy và trí tuệ của con ngừơi đặc biệt là ở
người lãnh đạo, quản lý có tác dụng lớn đến hoạt động thực tiễn của họ và
thơng qua đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đó
là một tiềm lực, nguồn lực to lớn của dân tộc trong phát triển, nhất là đối
với thời đại ngày nay.
Đặc biệt, Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã
đi vào chiều sâu. Với việc đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề phát
triển kỹ năng tư duy và trình độ tri thức nhằm phát huy những mặt mạnh,
khắc phục những mặt yếu để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững là một
vấn đề bức thiết.
Thực tiễn, đó đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi đội ngũ cán
bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý phải có khả năng nhận thức
đúng đắn các quy luật phát triển của đất nước phù hợp với thời đại và ý chí
nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, có khả năng quản lý, điều hành quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, đề ra được những giải pháp đúng đắn đưa
đất nước vững bước đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Với cách đặt vấn đề trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Kỹ năng tư duy
của nhà lãnh đạo quản lý” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kỹ năng tư duy của người lãnh đạo quản lý đã và đang được nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều dạng khác nhau và ở những cấp độ
khác nhau. Trong các cơng trình nghiên cứu về kỹ năng lãnh đạo quản lý thì
vấn đề tư duy được coi là một phần quan trọng góp phần làm nên thành
cơng của người lãnh đạo.
Một số các cơng trình nghiên cứu về kỹ năng tư duy của người lãnh
đạo quản lý gần đây đáng chú ý là các cơng trình như:




1. GS.PTS Nguyễn Trọng Chuẩn: Vấn đề tư duy trong triết học
Hêghen.
2. Nguyễn Ngọc Long: Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy
3. Lưu Tường Vũ - Trường Đồng Toàn – Lý Thắng Quân – Thạch Tân:
Nghề tổng giám đốc.
Các cơng trình kể trên đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm
sáng tỏ nhiều phương diện cụ thể về vấn đề tư duy trong quá trình lãnh đạo
quản lý, đặc biệt là tư duy lý luận trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
*.Mục đích:
Làm rõ tầm quan trọng của kỹ năng tư duy trong quá trình lãnh đạo
quản lý. trên cơ sở đó góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách cần
được giải quyết nhằm cung cấp luận cứ khoa học về tư duy cho các nhà
lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay.
*.Nhiệm vụ:
-Khảo lược một số vấn đề chung về kỹ năng tư duy trong hoạt động
lãnh đạo quản lý.
-Làm rõ kỹ năng tư duy trong thực tiễn hoạt động lãnh đạo quản lý
- Đưa ra những luận cứ khoa học cho việc nâng cao hiệu quả tư duy
trong hoạt động lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở
phương pháp luận định hướng cho quá trình phát triển nhận thức về kỹ năng
tư duy của người lãnh đạo quản lý trong giai đoạn hiện nay.
Tiểu luận sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, so sánh, phân
tích và tổng hợp, logic và lịch sử.
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận

*.Về mặt lý luận
- Tiểu luận góp phần làm rõ thêm một số phương diện về kỹ
năng tư duy của người lãnh đạo quản lý.
*. Về mặt thực tiễn


- Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu về kỹ năng lãnh đạo quản lý, dùng làm tài kiệu tham khảo cho
các nhà hoạt động thực tiễn trong việc xây dựng đường lối chủ trương chính
sách của Đảng và nhà nước…v v
6. Kết cấu của tiểu luận
Kết cấu của tiểu luận bao gồm các phần: Phần mở đầu, phần nội dung,
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung gồm: 3 chương, 9 tiết và 10 tiểu tiết.


B PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KỸ NĂNG TƯ DUY
CỦA NHÀ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
1.1.Nguồn gốc và bản chất của năng lực tư duy
1.1.1 Các quan niệm cơ bản về tư duy
Để hiểu về kỹ năng tư duy của người lãnh đạo quản lý, trước hết
chúng ta phải hiểu đầy đủ lý luận về năng lực tư duy dưới ánh sáng khoa
học hiện đại.
Theo từ điển từ và ngữ hán việt: “ Tư là suy nghĩ, duy là sự liên kết. Tư
duy là quá trình phản ánh tích cực và có tính khái qt thế giới hiện thực
khách quan vào trong ý thức của con người, thông qua hoạt đông của một
thứ vật chất hữu cơ đặc biệt tức là bộ óc và trên cơ sở những tài liệu của
cảm giác, tri giác, biểu tượng, thu nhận được nhờ sự tác động của các giác
quan, của những sự vật và hiện tượng bên ngoài” (1).

Trong sách từ điển triết học có viết “ tư duy sản phẩm cao nhất của cái
vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là não bộ, quá trình phản ánh tích
cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đốn, lý luận…..tư duy
xuất hiện trong q trình hoạt động, sản xuất xã hội của con người và đảm
bảo phản ánh hiện thực một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ một
cách thực tại” (2) .
Trong sách Tâm lý học đại cương, định nghĩa “ tư duy là một q
trình nhận thức, phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ,
quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó ta chưa biết”
(3) .

1. Nguyễn Lân: Từ điển Từ và Ngữ Hán Việt, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr794.
2. M. Rôđentan ( chủ biên): Từ điển Triết học, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr.634.
3. Đại học Quốc gia Hà Nội: Tâm lý học đai cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr.107

Hay tư duy là q trình phân tích, tổng hợp, khái quát những thành tựu đã
thu được qua nhận thức lý tính để rút ra cái chung, cái bản chất của sự vật.
Tư duy là trình độ cao và phức tạp của sự phản ánh, trong đó tạo ra sản
phẩm tinh thần một cách gián tiếp bằng những phương thức trừu tượng hóa,
khát qt hóa trong phân tích và tổng hợp. Đó là q trình vận dụng các


khái niệm theo quy luật logic và cả trực giác để đạt tới chân lý. Đó là q
trình khơng ngừng bổ sung tìm tịi, cải tạo thế giới hiện thực của tư duy
trong óc người và sử dụng những kết quả ấy làm cơ sở giải quyết những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Nhờ hoạt động thực tiễn và sức mạnh của tư duy mà con người tiến
xa hơn con vật. Theo Ăngghen và Hêghen đồng nhất quan điểm chỉ có tư
duy biện chứng mới có lý tính. Tư duy gồm cả lý trí và lý tính.
Hoạt động của tư duy là hoạt động sử dụng, vận dụng những khái

niệm, phạm trù mới để phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật của thế
giới khách quan. Hoạt động tư duy cũng đồng thời là quá trình vận dụng tri
thức vào đời sống hiện thực, soi sáng hoạt động của con người, từ đó mà tư
duy phát triển khơng ngừng.
Tư duy khơng chỉ phản ánh thế giới bên ngồi mà cịn phản ánh nhu
cầu và lợi ích của con người, những quan hệ của con người với thế giới.
Nhu cầu là lợi ích là động lực thúc đẩy con người nhận thức và hành động
giải quyết những tình huống, những mâu thuẫn của cuộc sống.
Theo Mác, vấn đề tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là vấn đề lý luận mà là
vấn đề thực tiễn.
Tư duy của con người khơng phải là bất biến mà nó cũng có quá
trình biến đổi và phát triển ngày càng cao. Trong nền văn minh hái lượm và
nền văn minh nông nghiệp, tư duy con người cịn giản đơn, thơ sơ, cịn
mang tính chất phát, phiến diện chủ quan máy móc. Thời kỳ này trong giới
trí thức đã xuất hiện tư duy lý luận, nhưng mắc phải bệnh không tưởng, giáo
điều tư biện.
Thời đại công nghiệp mở ra một khả năng mới cho tư duy đi sâu
vào bản chất sự vật hiện tượng. Tuy nhiên tư duy siêu hình vẫn thống trị, và
sau này mới được khắc phục bởi tư duy biện chứng. Tư duy biện chứng duy
vật là đỉnh cao của tư duy và trí tuệ phát triển của xã hội lồi người. Tư duy
đó đang được bổ sung, phát triển trong điều kiện bước vào nền văn minh trí


tuệ. Tư duy con người có tính độc lập tương đối, có sức mạnh riêng của nó.
Sức mạnh đó được thể hiện tập chung ở kỹ năng tư duy.
1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy
Năng lực tư duy bao hàm cả mặt tự nhiên xã hội ,sinh học và tinh
thần. Do đó năng lực tư duy mạnh về loại hình nào, cao hay thấp, được phát
triển như thế nào phụ thuộc vào nhất nhiều điều kiện, yếu tố phức tạp của

từng người và môi trường đời sống xã hội mà họ hoạt động.
Năng lực tư duy phụ thuộc vào đặc tính bẩm sinh do cấu tạo của hệ
thần kinh trung ương, tâm lý của từng người. Khoa học đã xác định sự
thông minh của con người có cơ sở từ huyết thống, đặc điểm hệ thần kinh,
từ gen di truyền.
Phương thức sản xuất, môi trường văn hóa, xã hội với tư cách là
những yếu tố tạo nhu cầu cho sự phát triển của tư duy và thể hiện trình độ
của tư duy mà con người đã đạt được. Năng lực tư duy phải được phát triển
trong mơi trường xã hội dân chủ phát triển cá tính, cung cấp nhiều chiều
thơng tin, có tình huống mâu thuẫn phức tạp cần phải giải quyết, mới làm
bộc lộ và rèn rũa năng lực tư duy.
Trình độ khoa học và cơng nghệ mà lồi người đạt được trong q
trình sáng tạo và sử dụng. Đồng thời năng lực tư duy phụ thuộc trực tiếp
vào hoạt động giáo dục, đào tạo, tiếp thu tri thức một cách tự giác và suy
ngẫm, thử nghiệm vận dụng tri thức. Tính độc lập tương đối và tính năng
động của tư duy được tạo ra trực tiếp của nhân tố trí tuệ trong giáo dục đặc
biệt là công nghệ đào tạo.
Hoạt động thực tiễn là nguồn gốc của mọi năng lực, đặc biệt là năng
lực tư duy. Thông qua hoạt động, va chạm, thử thách trong thực tiễn mà tư
duy phản ánh được phương thức, quy luật tồn tại của sự vât, hiện tượng,
nội dung mới trong năng lực tư duy và rèn luyện cho tư duy một năng lực
phát triển, giải quyết vấn đề.
Nhu cầu, lợi ích, động cơ, cảm xúc, tâm sinh lý của chủ thể cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến động cơ hoạt động để hình thành, rèn luyện và nâng


cao năng lực tư duy. Đây là động lực bên trong rất quan trọng, quyết định
nhân cách của con người cả về mặt đạo đức, bản lĩnh và tư duy.
Trong các nhân tố nói trên, nhân tố xã hội và rèn luyện của bản thân
giữ vai trò quyết định. Nhân tố bẩm sinh rất quan trọng nhưng chỉ là khả

năng. Khơng có mơi trường thực tiễn, khơng học tập phấn đấu thì khả năng
sẽ mai một dần. Nhờ hoạt động xã hội trong quá trình tiếp thu, luyện tập
nâng cao trình độ trí tuệ và phương pháp tư duy khoa học trong học tập và
kinh nghiệm thực tiễn đã biến khả năng bẩm sinh của năng lực tư duy thành
hiện thực. Đồng thời nhân tố tinh thần cũng tạo thành một cơ sở mới của
năng lực tư duy. Yếu tố tự nhiên, sinh học và yếu tố xã hội thực tiễn là yếu
tố trực tiếp và chủ yếu tạo thành nguồn gốc của năng lực tư duy.
Mác đã nói, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Tri thức cao
hay thấp, nhiều hay ít ở mỗi người là do năng lực tư duy cao hay thấp tiếp
thu, sử dụng nó mà có.
Muốn nâng cao năng lực tư duy, trước hết phải nâng cao trình độ tri
thức. Để tạo nền cho năng lực tư duy, phải nâng cao trình độ hiểu biết khoa
học, hiểu biết cuộc sống. Tư duy lý luận, nhất là tư duy lý luận triết học và
thơng qua đó giải quyết những vấn đề thực tiễn đã được tổng kết.
Ăngghen cho rằng: Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học, thì khơng thể khơng có tư duy lý luận.
Thực tiễn đa dạng, phức tạp, biến đổi nhanh và thông tin, chất xám,
khoa học ngày càng có vai trị quan trọng ,trong cuộc sống thử thách, đọ sức
cạnh tranh trí tuệ. Điều đó địi hỏi dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam,
nhất là những người tiên phong nòng cốt và lãnh đạo quản lý xã hội phải tự
giác, nỗ lực để nâng cao năng lực tư duy, phát triển trình độ trí tuệ. Đó là
một yêu cầu khách quan của lịch sử đương đại.
1.2 Năng lực tư duy và tư duy sáng tạo
1.2.1 Những đặc trưng cơ bản của năng lực tư duy
Theo từ điển Tiếng việt và từ điển triết học. Năng lực là khả năng,
điều kiện khách quan sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực


của con người là tổng hợp những phẩm chất tâm sinh lý, tạo cơ sở và khả
năng hoàn thành một hoạt động nào đó ở mức độ cao.

Năng lực tư duy là một khả năng, một phẩm chất tâm sinh lý của óc
người, vừa là cái tự nhiên bẩm sinh “ sẵn có ” vừa là sản phẩm của lịch sử.
Năng lực tư duy mang bốn đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: yếu tố thấp của năng lực tư duy là năng lực ghi nhớ, tái
hiện, vận dụng những hình ảnh do cảm tính mang lại hoặc tiếp thu một cách
trực tiếp. Khơng có năng lực này thì khơng có cơ sở cho sự tư duy và suy
nghĩ nói chung. Trí nhớ ở trình độ cao đã được khoa học thừa nhận là một
trong những năng lực thể hiện trí thông minh, phẩm chất quan trọng của
nhân tài.
Thứ hai: năng lực cơ bản của tư duy là trừu tượng hóa, khái quát hóa.
Trừu tượng hóa được coi như là năng lực tinh thần cơ bản nhất của tư duy
con người.
Thứ ba: liên tưởng, tưởng tượng, suy luận là một loại năng lực bậc
cao của tư duy. Nhờ đó, tư duy tìm được mối liên hệ bản chất đi từ cái chưa
biết đến biết, có khả năng vạch ra cái mới, dẫn đến những phát hiện và
khám phá, lựa chọn và sử lý các tình huống nhận thức và hành động. sức
tưởng tượng phong phú, có tiềm lực là một phẩm chất thông minh. Năng
lực này gắn liền với cảm xúc, tạo ra sức sáng tạo, đặc biệt trong lĩnh vực
khoa học nghệ thuật.
Thứ tư: trực giác và linh cảm, lóe sáng tức thời, từ chiều sâu trí tuệ vơ
thức tinh thần là sản phẩm của q trình tích lũy, chiêm nghiệm trong quan
sát và nghiên cứu. Năng lực này không ở trình độ tâm lý thơng thường
mà ở trình độ nhận thức bậc cao như sự thăng hoa. Ngày nay cần hiểu
năng lực trực giác trong vô thức tiềm thức là một năng lực tư duy tiềm
tàng rất quan trọng. Thiếu điều này sẽ không hiểu đầy đủ được cơ chế
sáng tạo trong tư duy.
Tất cả yếu tố trên không tách rời nhau mà nằm trong tổng thể như
một quá trình bao hàm nhau, chuyển hóa lẫn nhau, tạo thành năng lực, sức
mạnh của tư duy ở trình độ chính xác và sáng tạo.



Năng lực tư duy còn là cơ sở của “ năng lực lao động trí tuệ ” của con
người. Đó là khả năng nghệ thuật và sử dụng cả tri thức, thông tin và
phương pháp một cách đúng quy luật. Do đó phải rèn luyện mài dũa, phải
thơng qua thực hành biến tri thức và phương pháp thu nhận được trở thành
phẩm chất, sức mạnh vốn có của tư duy, tạo ra sự nhạy cảm minh mẫn,
chính xác, linh hoạt như một nghệ thuật trong suy nghĩ và hành động
Năng lực tư duy của từng người, từng lĩnh vực nghành nghề, từng
loại hình có những đặc thù khác nhau nhưng chúng đều có chung phẩm chất
duy và trực giác mà nhờ đó tư duy mới có thể hoạt động một cách sáng tạo.
1.2.2 Năng lực tư duy sáng tạo
Trong quá trình nhận thức và hoạt động của con người, ln luôn cần
cả tư duy bắt chước và tư duy sáng tạo, nếu xét về lâu dài thì tư duy sáng
tạo là chủ đạo. Ngày nay khi loài người bước vào nền kinh tế tri thức thì
càng địi hỏi cao tư duy sáng tạo.
Tư duy sáng tạo có nhiều cấp độ, hình thức. Mức thấp của sự sáng
tạo là cách chứng minh mới với kết luận cũ hoặc do vận dụng vào cuộc
sống mà có những cải biên, cải tiến so với cái cũ. Mức cao nhất là do những
khám phá mới, mở ra một khuynh hướng mới, một bước ngoặt trong khoa
học, văn hóa , chính trị-xã hội.
Những điều kiện cho sự sáng tạo là có động cơ đúng, trong sáng, vì
sự tiến bộ của xã hội và con người, phải tích lũy nhiều kiến thức, kinh
nghiệm, cập nhật thơng tin, luôn luôn suy nghĩ, mài sắc tư duy, kiên chì chí
hướng đã chọn, có bản lĩnh tìm ra chân lý, bảo vệ chân lý, có mơi trường
học tập, lao động dân chủ, khuyến khích cá nhân, khuyến khích sáng tạo.
Để có sáng tạo trong q trình lao động trí óc, chủ yếu là nhờ học tập
trong sách vở và thực tiễn, tuy nhiên khơng thể phủ nhận vai trị của tư duy
bẩm sinh.
Thực tiễn xã hội ngày càng phát triển, vấn đề đặt ra là làm sao để
phát huy được tư duy sáng tạo của con người, vừa có tính năng động sáng

tạo vừa có tính xã hội. Tư duy của con người một mặt phụ thuộc vào môi
trường sống, mặt khác phụ thuộc vào lợi ích, tâm sinh lý nhân cách của


từng người, nhận thức vừa có tính vượt trước vừa có tính lạc hậu hơn so với
thực tiễn.
Vì vậy, muốn có sáng tạo phải khắc phục cản trở tâm lý như: thái độ
bi quan, chủ nghĩa thất bại, sức ép quá lớn về tâm lý, không để giả thuyết
đánh lừa, tránh sai lầm về logic…

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TƯ DUY CỦA CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Những ưu điểm trong kỹ năng tư duy của cán bộ lãnh đạo quản lý
ở nước ta hiện nay
2.1.1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay đã có tư duy
độc lập.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đưa ra đường lối
đổi mới toàn diện - từ đổi mới tư duy kinh tế là chủ yếu phải đi đến đổi mới
tư duy trên các mặt khác.
Đại hội đã xác định dứt khoát phải từ bỏ những nhận thức sai lầm,
những quan điểm lạc hậu, lỗi thời về chủ nghĩa xã hội, phải căn cứ vào
những điều kiện lịch sử mới của nước ta và của thời đại để vận dụng sáng
tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng của Mác –lênin.
Tư duy đổi mới của Đảng ta thể hiện trên mọi mặt của đời sống từ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại…v v
Đảng coi đổi mới tư duy là “ việc cấp bách, đồng thời là việc thường xuyên
lâu dài” và các văn kiện của của đại hội lần thứ VI mới chỉ là sự “ thể hiện
bước đầu sự đổi mới tư duy của Đảng”



Đến đại hội VII Đảng tiến hành trong lúc Liên Xô vẫn tồn tại. Dù
công cuộc cải tổ của Liên Xơ có nhiều lệch lạc, sai lầm, dẫn đến tình trạng
khủng hoảng toàn diện ngày càng trầm trọng, nhưng đến giữa năm 1991
chúng ta vẫn nghĩ rằng Liên Xô sẽ không đổ vỡ như các nước Đông Âu.
Đại hội khẳng định “ trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với
Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt – Xô
nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước” (1). Nhưng sau đó khơng lâu, Liên Xơ
sụp đổ và tan rã. Tình hình ấy đã tác động sâu sắc đến nước ta làm cho đông
đảo cán bộ và nhân dân lo lắng. Trước tình hình ấy, Đảng nhận thức được
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ, phải vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –lênin.Sang Đại hội VIII Đại hội đã đề ra
những mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo và phấn đấu từ nay đến năm 2020,
ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Qua hơn 20 năm đổi mới, đất nước đã vượt qua thời kỳ khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng kéo dài và đạt được nhiều thành tựu trên
mọi lĩnh vực, thế và lực đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta chuyển sang
thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thành cơng của đất nước khơng thể có nếu khơng có sự chung vai
góp sức của nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Họ là những
người đi đầu trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước và
họ cịn thực hiện sáng tạo những chủ trương theo hướng phù hợp với thục
tiễn đật nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Đó chính là biểu hiện
của tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta.
Chúng ta có thể thấy nhiều điển hình tiên tiến trong cuộc sống lao
động, ở đó thể hiện rõ tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo của cán bộ lãnh đạo,
quản lý.
(1)

Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn Kiện Đại Hội Đảng thời ký đổi mới, NXB. Chính Trị Quốc Gia, Hà nội,

2005, tr.294.


Với các chương trình truyền hình đã phát hiện và khẳng định những
tấm gương trong xã hội như: Người đương thời, hay hàng năm chúng ta đều
tổ chưc trao danh hiệu Sao vàng đất việt cho những doanh nhân tiêu
biểu….v v
Bên cạnh đó chúng ta có nhiều nhà lãnh đạo dám đi đầu trong việc
vạch ra và thực hiện những chính sách mới. Họ đã gặp khơng ít những khó
khăn trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Bằng thời gian và thực
tiễn đã chứng minh tính sáng tạo của họ. Trước thời kỳ đổi mới đã có những
điển hình như ơng Kim Ngọc, ngun bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, và nhiều
nhà lãnh đạo ở các tỉnh, huyện khác.
Chuyển sang thời kỳ đổi mới, có rất nhiều tấm gương điển hình cho
tư duy tự chủ, sáng tạo như: Giám đốc công ty Bemes - ông Bạch Minh Sơn
là một đảng viên ưu tú, người đảng viên đầu tiên được làm kinh tế tư nhân,
ông Nguyễn Văn Hải, giám đốc cơng ty trách nhiêm hữu hạn Ngọc Bích…
Cịn có nhiều điển hình cho tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo, thiết thực
và cụ thể của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đổi mới. Họ là
những nhà lãnh đạo trên lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội hay đó là những
nhà quản lý kinh tế giỏi, tài ba. Với trí tuệ và tài năng. Bằn tư duy mạnh
dạn, tụ chủ, sáng tạo, họ là kiến trúc sư cho mơ hình quản lý mới ở nước ta.
2.1.2 Tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta đã xuất phát
từ thực tiễn, lấy thực tiễn là cơ sở để hoạch định và thực thi đường lối
chính sách của Đảng.
Nước ta trong những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX đã lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng:
Về công nghiệp: hệ thống các nhà máy ở miền Bắc sau chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ đã trở nên rệu rã…,sau “cải tạo” xã hội chủ nghĩa,
hệ thống các nhà máy ở miền Nam do quản lý kém và quy trình cơng nghệ

lạc hậu đã cho ra đời những sản phẩm vừa kém chất lượng, vừa đắt, không
đủ số lượng cung cấp cho nhu cầu thiết yếu của nhân dân.


Về nông nghiệp: hệ thống hợp tác xã miền Bắc trở thành hình thức
trói buộc người nơng dân…nhiều nơng dân bỏ ruộng đi buôn trở thành phổ
biến, sản lượng cây công nghiệp và nông nghiệp giảm sút, nhà máy không
đủ nguyên, nhiên liệu để sản xuất, nhân dân không đủ cơm ăn, áo mặc và
các nhu yếu phẩm để tiêu dùng….
Trong khi Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội thì Liên
Xơ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và tất cả các nước trong hệ thống
Xã Hội Chủ Nghĩa thế giới cũng lâm vào tình trạng tương tự. trước tình
hình ấy đặt ra vấn đề lớn phải nghiên cứu để giải quyết cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội ở nước ta.
Nhận thức được sự cấp thiết phải đổi mới, ngay từ những năm đầu
của thập kỷ 80 thế kỷ XX Đảng ta đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở tổng
kết và rút ra những bài học trong lịch sử, Đại hội đại biểu lần thứ VI của
Đảng cộng sản Việt Nam họp vào tháng 12 -1986 đã đưa ra đường lối đổi
mới tồn diện. Đó là biểu hiện của tư duy đổi mới trong Đảng ta mà đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tầm chiến lược cao nhất là lực lượng nòng
cốt trong việc đề ra đường lối chủ trương chủ trương lớn trong cả nước.
Bên cạnh đó Đảng ta đã đưa ra các chủ trương, đường lối đúng đắn
với thực tiễn đặt ra như: chủ trương làm cho sản xuất “bùng ra” của nghị
quyết trung ương 5 khóa IV, chủ trương khốn sản phẩm đến nhóm và
người lao động….
Đến hội nghị trung ương VI khóa 5 (7 -1984) vấn đề đổi mới tư duy
lý luận, mà đặc biệt là tư duy kinh tế mới trở thành một khâu đột phá để
Đảng ta làm cuộc thực tiễn có chiều sâu mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất
nước.

Sang Hội nghị trung ương lần thứ 7, 8, 9 và kết luận của bộ chính trị
khóa V tháng 8 - 1986 về ba quan điểm kinh tế lớn mới thực sự là cuộc
tổng kết có chiều sâu trên nhiều vấn đề lý luận cơ bản.


Bằng tư duy thực tiễn, Đại hội đã rút ra bốn bài học lớn:
Thứ nhất: lấy dân làm gốc.
Thứ hai: xuất phát từ thực tế và tôn trọng quy luật khách quan.
Thứ ba: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ tư: đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Bốn bài học ấy là cơ sở lý luận để Đại hội VI đột phá những quan
điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, mở ra bước ngoặt trong sự phát triển tư duy lý luận trong Đảng.
Sau đó đến Đại hội VII đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000
Bằng tư duy thực tiễn Đại hội VIII của Đảng đưa ra ba kết luận cực
kỳ quan trọng là:
Thứ nhất: thế và lực của đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất,
đó là cơ sở thực tiễn cho phép chúng ta nhận định rằng con đương đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng xác định rõ hơn
Thứ hai: nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng và kéo dài.
Thứ ba: nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội XI của Đảng (4 – 2001) Đại hội khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, phát huy đại đoàn kết dân tộc, thực hiện cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Đến Đại hội X của Đảng năm 2006 đã đưa ra nhiều quan điểm về
thành phần kinh tế, cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân…v v chúng ta

có thể kể ra tư duy điển hình cho tư duy ấy trong thực tiễn hôm nay như :
PGS, TS Nguyễn Chấn Hùng là một cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, là
thầy thuốc, nhà giáo, một nhà quản lý tài ba, một vị “thuyền trưởng” đang


chèo lái trung tâm ung bướu miền nam. Ông đã góp phần khơng nhỏ trong
việc gây dựng phát triển và đào tạo một đội ngũ bác sỹ vững vàng cho
chuyên ngành ung biếu.
Ngày 18 tháng 5 năm 2006 , PGS, TS. Nguyễn Chấn Hùng đã vinh dự
nhận danh hiệu “ anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”. đó là một điển hình
cho tư duy thực tiễn trong thời kỳ đổi mới. Ngồi ra cịn nhiều điển hình
khác về cán bộ lãnh đạo quản lý điển hình cho tư duy thực tiễn trong thời
kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, bước vào thế kỷ XXI, thì tầm tư duy lý luận của Đảng ta
vẫn còn bị hạn chế, chưa bắt kịp với nhịp độ đất nước và thời đại. Nghị
quyết Trung ương 5, khóa IX (2 – 2002) đã chỉ rõ:
“Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
mới dựng lại ở những nét khái quát chung, cịn khơng ít vấn đề cụ thể đặt ra
từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục…..
phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, cịn dừng lại ở trình độ
cảm tính ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng” (1).
Có thể nói, cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay đang dần xây
dựng cho mình phong cách tư duy độc lập tự chủ sáng tạo, luôn xuất phát từ
thực tiễn để đem lại hiệu quả thiết thực . Tuy nhiên, phong cách đó chỉ xuất
hiện ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, đa số còn lại bị hạn chế bởi tu
duy bao cấp, giáo điều, bảo thủ…v v nên ảnh hưởng không nhỏ tới sự thành
cơng của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hơn bao giờ hết cần xây
dựng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý phong cách tư duy mới, như
chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gương, đồng thời khắc phục những hạn chế
của họ.

2.2. Những hạn chế trong tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo quản lý ở
nước ta hiện nay.
2.2.1 tư duy lý luận, tư duy thực tiễn, logic khoa học của cán bộ ta còn yếu.


Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ chủ thể đáp
ứng yêu cầu phát hiện nhận thức nhanh, nhạy đúng đắn với hiện thực .
Năng lực tư duy được cấu thành từ những yếu tố cơ bản như: năng
lực ghi nhớ - tái hiện, năng lực trừu tượng - khái quát hóa là năng lực trí tuệ
cơ bản, các yếu tố này có quan hệ lẫn nhau.

(1). Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn Kiện Hội Nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.6

Sự yếu kém về năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong chỉ đạo tổ chức thực tiễn , một số cán bộ còn lúng túng bị động
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua thực tiễn hiện nay. Tư duy của
cán bộ còn nhiều hạn chế với những tư duy áng chừng, đại khái dẫn đến
chồng chéo tréo trong hoạch định chính sách
Quy hoạch phát triển kết cấu hal tầng cịn mang tính “ tình thế”,
“nhu cầu đến đâu phát triển đến đó, quy hoạch chưa gắn kết với khả năng
huy động vốn.
Tại Cần Thơ, Phó giám đốc sở kế hoạch và đầu tư Nguyễn Văn Xếp
kiến nghị “ để tránh dàn trải, lãng phí và đầu tư có hiệu quả, cơng tác quy
hoạch phải tính đến tầm nhìn cân đối vốn, dựa trên cơ sở khoa học, tránh
sửa đổi tùy tiện” .
Sự ra đời của văn bản quy định về đầu tư xây dựng cơ bản của các
cấp, ngành là một nguyên nhân trực tiếp gây chậm trễ khi tiến hành thủ
tục đầu tư. Theo ông điều mà nhiều người bức xúc nhất là văn bản quy
định về đầu tư xây dưng cở bản thay dổi liên tục, mỗi bộ quy định một

kiểu nên “ mỗi khi xử lý mottj công việc lại phải bày 3 – 4 văn bản trước
mặt để đối chiếu”.
Đây là một vấn đề đòi hỏi sự năng động, sáng tạo của mỗi chủ cơng
trình nhưng trước hết thuộc về cán bộ lãnh đạo quản lý có liên quan.


2.2.2. Cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta cịn tồn tại tư duy siêu
hình cực đoan, phiến diện, một chiều.
Tại đại hội VI của Đảng, cùng với sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã
tiến hành “đổi mới tu duy”, những yếu kém với căn bệnh chủ quan duy ý
chí, giáo điều, kinh nghiệm….trong tư duy của cán bộ ta nói chung đã từng
bước được hạn chế và khắc phục. nên cán bộ lãnh đạo, quản lý, ngành này
không nắm được, khơng hiểu được tình hình của ngành khác, địa phương
khác. Cho nên, những quyết định đưa ra thiếu đồng bộ.
Chúng ta thấy rõ những dẫn chứng trong thực tiễn hiện nay cho hạn
chế này. Thực trạng vấn đề ô nhiễm môi trường ở nước ta đang là một trong
những vấn đề nghiêm trọng như ô nhiễm môi trường ở sông Thị Vải, sông
Đồng Nai và đã được các nhà khoa học báo động từ lâu, nhưng chính quyền
các tỉnh hầu như khơng có phản ứng gì trước thực trạng này
Các tỉnh thành trong khu vực trọng điểm phía Nam từ 10 năm nay đã
chạy đua thu hút đầu tư, chạy đua phát triển công nghiệp nên xem nhẹ vấn
đề bảo vệ môi trường. Hậu quả,nước thải công nghiệp chưa qua xử lý, điều
đố giải thích vì sao hệ thống lưu vực sông Đồng Nai đang ngày càng ô
nhiễm nghiêm trọng, đe dọa nguồn nước nghiêm trọng của hơn 10 triệu dân.
Vụ án Vêđan chính là một điển hình cho thực trạng đó.
Đặc biệt, ở thủ đơ Hà Nội có khoảng 20 đến 30 sơng, hồ hầu hết đều
bị ô nhiễm. các con sông như: sông Hồng, sông Tô Lịch, Kim Ngưu hay Hồ
Tây, Hồ Hoàn Kiếm….v v là những biểu trưng của Hà Nội không tránh
khỏi sự ô nhiễm nghiêm trọng trong suốt nhiều năm qua.
Đây là vấn đề của toàn xã hội, nhưng trước hết là vai trò và trách

nhiệm của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là các nhà lãnh đạo quản lý
cấp tỉnh thành và trung ương. Do khơng có tầm nhìn xa, chỉ chạy theo lợi
ích trước mắt mà khơng thấy lợi ích lâu dài, lợi ích tồn cục nên khơng ít
cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ lãnh đạo bằng kinh nghiệm cá nhân, rập khuôn
cách làm, kinh nghiệm của các cấp, các ngành khác cịn biểu hiện nơn nóng


trong việc triển khai, thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội, có lúc cán
bộ lãnh đạo quản lý quá đề cao sự phát triển kinh tế, khơng chú ý tới vấn đề
an ninh quốc phịng, mơi trường, đạo đức, văn hóa…. Song, tư duy của một
số cán bộ lãnh đạo quản lý nước ta còn tư duy siêu hình, bệnh giáo điều,
chủ quan duy ý chí…cịn phổ biến ở nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý.

2.2.3 cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta còn tồn tại tư duy bao cấp, trì trệ, thụ
động, ỷ lại, sao chép, chủ quan hình thức, chạy theo thành tích, cá nhân
Hiện nay cịn tồn tại một thực trạng cơng trức nhà nước bỏ ra ngồi
và làm việc cho các công ty tư nhân hoặc mở công ty riêng. Tại sao lại như
vậy? đó là do chế độ, chính sách đãi ngộ quá thấp. mức thu nhập từ lương
của cán bộ, cơng chức cịn chưa đảm bảo đời sống bản thân và gia đình.
Ngồi ngun nhân trên cịn do nền nếp, kỷ cương làm việc bi buông
lỏng, viêc phân loại cơng chức chưa đảm bảo tính khoa học khách
quan…. Đó là ngun nhân gây nên tình trạng chán nản bất bình đối với
cán bộ có năng lực
Tình trạng trên gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ
quan nhà nước, nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn sẽ gây khó khăn cho việc
xây dựng được một đội ngũ cán bộ cơng chức có đủ trình độ nghiệp vụ đáp
ứng yêu cầu công cuộc đổi mới.
Điều này cho thấy những hạn chế trong tư duy của cán bộ lãnh đạo
quản lý của nước ta như kinh doanh thì vi phạm pháp luật, nhà lãnh đạo
quản lý muốn đống cửa nhưng chưa có quy trình. Thực trạng này tồn tại

phổ biến trong cả nước như: nhà máy giấy Việt Trì, lị gạch Vĩnh Phúc, xi
măng Hải Phịng….. Đều vi phạm luật bảo vệ mơi trường.
Chủ nghĩa hình thức, chạy theo hình thức được phổ biến rõ rệt trong
giáo dục – đào tạo ở nước ta. Qua hai năm thực hiện chương trình dổi mới
trong thi cử, nhất là đổi mới trung học phổ thông cho thấy, số học sinh trượt


tốt nghiệp là khơng nhỏ. Đặc biệt tình trạng tái mù chữ đang diễn ra ở nhiều
nơi, nhất là ở vùng xâu vùng xa. Tất cả đều là biểu hiện của bệnh thành tích
trong nhiều ngành, nhiều cấp học, nhất là trong ngành giáo dục.


2.2.4 tư duy của cán bộ ta còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân, tách tình
cảm đạo đức với lý trí khoa học ở một bơ phận cán bộ là nguyên nhân
của tệ quan liêu, tham nhũng bè cánh, cơ hội dối trá.
Hàng loạt dẫn chứng cho hạn chế trên của cán bộ ta như vụ bán đất
đai của cán bộ địa phương. Đây là thực trạng phổ biến của hầu hết cán tỉnh,
huyện, xã trong cả nước.
Thực tế, chuyện đất đai giao cho chính quyền cơ sở quản lý, nhưng tỉnh
nào

cũng có chuyện cấp xã bán đất ồ ạt. Rồi chính quyền giao đất cho

doanh nghiệp “ma” thậm chí giao đất cho người nhà hoặc giao đất cho
doanh nghiệp để doanh nghiệp giao cho người nhà …..
Tham nhũng đất đai dường như trở thành hệ thống từ xã lên huyện,
huyện lên tỉnh và trách nhiệm của tình trạng này trước hết là người đứng
đầu tỉnh. Bên cạnh vụ việc trên, mới đây cịn có hiện tượng “ qn 3 tỉ
đồng, 40 nghìn học sinh phải học chay” ở tỉnh Quảng Ngãi.
Cịn vơ vàn những dẫn chứng khác về tình hình tham nhũng, lãng phí,

những hạn chế khác của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta. Dường như đố
là vấn đề thường trực trong đời sống xã hội. Bên cạnh những điển hình tiêu
biểu cho những sáng tạo, sự dũng cảm, đức hy sinh, những chuẩn mực “
nhân - nghĩa - trí - dũng - tín” của người cán bộ thì những con sâu đi trái
ngược với những chuẩn mực ấy, lại càng rõ và nhiều hơn.
Hơn bao giờ hết chúng ta phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm
khơng ngừng nâng cao phẩm chất chính trị và trình độ chun mơn cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Muốn vậy phải xây dựng phong cách tư duy
khoa học cho đội ngũ này. Bởi phong cách tu duy có vai trị chi phối, chỉ
đạo các hoạt động của con người nó hình thành nên phong cách phong cách
sinh hoạt, phong cách làm việc và các phong cách khác.
2.3 nguyên nhân của thực trạng trên
Một là: ảnh hưởng của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và ý thức hệ
phong kiến thống trị đời sống tinh thần xã hội quá lâu, những thói quen lạc


hậu hình thành trong tâm lý làng xã. Trong tâm lý của mỗi người dân Việt
Nam bao đời nay còn tồn tại
Do ở việt nam chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, tơn ti trật tự
theo tinh thần nho giáo quá khắt khe làm thui chột bản tính tự nhiên và sáng
tạo của con người
Hai là: ảnh hưởng của cơ chế hành chính tập chung quan liêu, bao cấp
kéo dài ảnh hưởng khá nặng nề trong tư duy và hành động của cán bộ ta
Ngày nay, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, đã từng bước tạo ra tiền
đề mới cho sự tự do sáng tạo, năng động và nhạy bén trong tư duy cũng như
trong hành động của mỗi con người. song cơ chế thị trường lại dễ dãn con
người tới cực đoan đối lập, chỉ mưu cầu lợi nhuận, lối sống cá nhân, vị kỷ,
cơ hội….bên cạnh đó tinh thần dân chủ bị hạn chế, một bộ phận cán bộ bị
thối hóa, biến chất.....
Ba là: cơng tác cán bộ của Đảng và Nhà Nước còn nhiều hạn chế, công

tác quản lý, kiểm tra giáo dục, rèn luyện cán bộ nhiều nơi cịn yếu, chưa có
một cơ chế đầy đủ đảm bảo quyền thực sự của nhân dân trong việc giám
sát, bãi miễn đối với cán bộ.
Bốn là: sự yếu kém về công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận. công tác
giáo dục, bồi dưỡng lý luận là nhiệm vụ hàng đầu trong sự nghiệp lãnh đạo
đất nước của Đảng. Nhưng trong thời gian vừa qua “chất lượng và hiệu quả
đào tạo còn thấp”.
Năm là: sự yếu kém về trình độ tư duy lý luận cịn do nguyên nhân của
bản thân đội ngũ cán bộ.


CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KỸ
NĂNG TƯ DUY CỦA ĐỘI NGŨ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1 Đổi mới tư duy về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, Nhà
nước, công tác kiểm tra, giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng lý luận
đối với cán bộ
3.1.1 Đổi mới tư duy về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước.
Đảng ta không ngừng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ , nhưng sự
thay đổi còn chậm chạp, cầm chừng, thiếu tính triệt để, chất lượng đội ngũ
cán bộ vẫn chưa đáp ứng những yêu cầu mới.
ở văn kiện Đại hội VI khẳng định: “ đổi mới đội ngũ cán bộ có nghĩa là
đánh giá , lựa chọn, bố trí lại, đi đơi với đào tạo, bồi dưỡng để có một đội
ngũ cán bộ có đủ những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo quản
lý, ngang tầm nhiệm vụ”((1))
Vậy để đổi mới đội ngũ cán bộ một cách đúng đắn cần:
Thứ nhất: đổi mới quan điểm đánh giá cán bộ, phải lấy hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu,
nhiệm vụ làm căn cứ để bố trí cán bộ
Thứ hai: phải coi việc chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế tục là nhiệm vụ

thường xuyên của các tổ chức đảng và phải được tiến hành theo quy
hoạch. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tuân theo một quy trình chặt
chẽ. Đó là kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức ở trường học với rèn luyện
trong thực tiễn.
Thứ ba: cần có cơ chế quản lý cán bộ đúng với sự đánh giá cán bộ
mới chính xác, mới phát hiện và đề bạt được cán bộ tốt, thay đổi những
người xấu và yếu kém.
Thứ tư: cần chống tệ quan liêu cửa quyền trong cơng tác lựa chọn bố
trí cán bộ.
(1)

Đảng Cộng Sản Việt Nam: văn Kiện Đại Hội Đảng thời kỳ đổi mới, Sđđ,tr.140-141


Thứ năm: phải cải cách tồn diện cơng tác tư tưởng đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Thứ sáu: phải hoàn thiện và thực hiện tốt “quy chế công tác cán bộ”
của Đảng như thời hạn đảm nhiệm một chức vụ hay vấn đề luân chuyển cán
bộ…
3.1.2 Đổi mới tư duy về công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng lý luận
đối với cán bộ
Việc hình thành năng lực tư duy biện chứng và phong cách tư duy khoa
học ở người lãnh đạo, quản lý đòi hỏi phải vận dụng tổng thể những giải
pháp liên quan tới hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở nước ta, việc nâng cao năng lực tư
duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trên cơ sở đó xây dựng phong
cách tư duy khoa học cho họ đòi hỏi phải có giải pháp hữu hiệu và hiệu quả
giáo dục chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn vậy cần thực
hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất: quy hoạch lại hệ thống đào tạo và bồi dưỡng lý luận về chủ

nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như hệ thống bằng cấp trên
lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng mà không rơi vào chủ nghĩa hình
thức, thiếu thực chất.
Thứ hai: nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng
dạy chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cải thiện cơng tác của
các trường Đảng, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo và quản lý các cấp. Muốn vậy, cần quy hoạch lại hệ thống trường
lớp, đổi mới đội ngũ cán bộ giảng dạy, viết lại sách giáo khoa và đổi mới
phương pháp dạy và học. Quan tâm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về
cơ sở vật chất, về mức lương, điều kiện sống của cán bộ giảng dạy để họ
chuyên tâm vào công việc.
3.2 Cần tạo môi trường thực tiền để người cán bộ phát huy tư duy tự
chủ, sáng tạo, đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân được thực thi
quyền làm chủ trong việc quản lý và giám sát cán bộ


Một trong những hạn chế của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta là tư
duy bảo thủ, trì trệ, tư duy bao cấp, thụ động do nền kinh tế nơng nghiệp và
cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp kéo dài…..Muốn khắc phục
những tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản đó mới có thể hình thành đội ngũ
cán bộ sâu sát, gắn bó với quần chúng và am hiểu thực tiễn, tránh được
bệnh chủ quan, giáo điều, sách vở, hình thành được ở họ sự ham mê học tập
vì cơng việc, phục vụ cơng việc, tích cực chủ đọng sáng tạo trong động thực
tiễn. Để làm được điều đó cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất: các tổ chức phải khơi dậy ở họ lịng nhiệt tình sự hăng say,
nhiệt huyết cũng như tình cảm cách mạng, tinh thần vượt khó khơng ngại
gian khổ để cán bộ phấn đấu hết mình vì lợi ích của nhân dân, sự phát triển
của đất nước, tránh những cám dỗ của thời đại.
Thứ hai: cần đổi mới cơ chế chính sách cán bộ cho phù hợp để tạo ra
tính tích cực, chủ động hơn nhạy bén và sáng tạo hơn trong công việc cũng

như trong học tập của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đồng thời cần xây dựng
“quy chế dân chủ” để cán bộ lãnh đạo quản lý có một “biên độ” nào đó
giám nói thật, phản ánh đúng thực tế đang diễn ra.
Thứ ba: nâng cao dân trí, từ đó địi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
phải tự rèn luyện nâng cao trình độ. Bởi lẽ, ngồi việc nâng cao “quan trí”
cần quan tâm nâng cao “dân trí” để nhân dân có điều kiện tư duy, hiểu biết,
kiểm tra được đạo đức, khả năng của cán bộ.
Thứ tư: cán bộ lãnh đạo quản lý cần đi vào nhân dân để tìm hiểu đời
sống của dân, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nhằm đề ra các
chính sách đáp ứng đúng nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân,
chăm lo, cải thiện đời sống của nhân dân. Có vậy, dân mới thực sự hiểu
được quyền và trách nhiệm làm chủ đất nước của mình.
3.3 Người lãnh đạo, quản lý cần tự nâng cao tinh thần học tập, rèn
luyện phong cách tư duy của bản thân.
Việc xây dựng cách tư duy cho cán bộ lãnh đạo quản lý không thể tách
rời quá trình tự phấn đấu, tự học tập, tự trau dồi phương pháp tư duy biện
chứng của từng cá nhân cán bộ lãnh đạo quản lý.


Mọi giải pháp từ phía Đảng, nhà nước, đồn thể mới chỉ là điều kiện cần
để có ảnh hưởng tới việc hình thành phong cách tư duy cho cán bộ, lãnh
đạo, quản lý. Chính sự nỗ lực, cố gắng chủ động, tích cực, sáng tạo của mỗi
người mới đóng vai trị quyết định trong việc hình thành phong cách tư duy
khoa học của bản thân. Điều này phụ thuộc vào khả năng tư duy của mỗi
người.
Một là: công tác lãnh đạo và quản lý(người khác)
Hai là: phong cách làm việc của mỗi người(tức cách sử lý công việc của
mỗi người cán bộ)
Vậy bất cứ một người lãnh đạo quản lý nào cũng đều tham gia vào việc
hoạch định các chủ trương, đưa ra các quyết định có tác động đến nhiều

người tùy theo quy mô lớn, nhỏ khác nhau.
Cả hai hoạt động, lãnh đạo hoạc quản lý công việc và xử lý cơng việc
của người cán bộ đều cần có một phong cách tư duy khoa học.
Muốn vậy người lãnh đạo, quản lý phải:
Thứ nhất: người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần ý thức được sự cần thiết
phải gắn lời nói đi đơi với việc làm.
Thứ hai: Cần coi việc rèn luyện phong cách tư duy khoa học là một
nhiệm vụ thường xuyên, tự giác và bền bỉ suốt đời.
Thứ ba: đồng thời với xây thì cần chống lại những biểu hiện của tư duy
bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, gây cản trở quá trình phát triển của xã hội. hai
nhiệm vị này phải tiến hành song song, đồng thời.
Trong mọi giai đoạn của lịch sử, trước đây, hôm nay và cả ngày mai,
đất nước luôn cần những cán bộ lãnh đạo quản lý thực sự có phong cách tư
duy khoa học và cách mạng với những đặc điểm nổi bật mà chủ tịch Hồ Chí
Minh là một mẫu mực của phong cách tư duy ấy.
3.4 nghiên cứu lý luận tổng quan thực tiễn
Công tác đổi mới tư duy, phát triển trí tuệ khơng chỉ đơn giản là hoạt
động có tính kinh nghiệm hàng ngày mà chủ yếu là hoạt động tổng kết kinh
nghiệm, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Đó là những tri thức khái
quát, nắm được bản chất, tính tất yếu của q trình phát triển.


×