Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học công nghệ cầm quyền của đảng cộng sản trung quốc, đảng dân chủ tự do nhật bản, đảng xã hội pháp và những bài học gợi mở cho đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.82 KB, 31 trang )

0

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................1
Chương 1: CÔNG NGHỆ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.............................................................................3
1.1. Khái niệm cơng nghệ..........................................................................3
1.2. Khái niệm cơng nghệ chính trị...........................................................3
1.3. Cơng nghệ cầm quyền của đảng chính trị .......................................5
Chương 2: CƠNG NGHỆ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ Ở
CÁC NƯỚC TRUNG QUỐC, ĐỨC, PHÁP VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.........................................................................9
2.1. Cơng nghệ cầm quyền của đảng chính trị ở các nước Trung Quốc,
Đức, Pháp..............................................................................................................9
2.2. Những gợi mở cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền ............22
KẾT LUẬN...............................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................31


1

MỞ ĐẦU
Cơng nghệ cầm quyền của đảng chính trị là một trong những loại cơng
nghệ chính trị cơ bản. Sau khi giành được quyền lực chính trị (chủ yếu là quyền
lực nhà nước) giai cấp thống trị cần phá vỡ những trật tự chính trị - xã hội cũ để
xây dựng nên những trật tự chính trị - xã hội mới. Lúc này xuất hiện “đảng cầm
quyền” tức là Đảng có quyền lực chính trị, cụ thể ở việc “nắm chính quyền”.
Đảng cầm quyền phải thực hiện việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân
dân đi theo Đảng, đồng thời là đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý
nhà nước sao cho vừa bảo vệ được lợi ích giai cấp, thực hiện thắng lợi mục tiêu
giai cấp mà vẫn bảo đảm lợi ích cơ bản của số đông quần chúng. Để nhân dân tin
tưởng, ủng hộ và chấp hành đường lối, chủ trương của đảng mình, việc sử dụng


cơng nghệ chính trị vơ cùng cần thiết.
Trong q trình bảo vệ và thực thi quyền lực chính trị, các đảng cầm
quyền đã xây dựng và sử dụng nhiều loại cơng nghệ chính trị như: cơng nghệ
tun truyền, thuyết phục, cơng nghệ ra quyết định chính trị , cơng nghệ quản lý,
điều hành chính trị, cơng nghệ vận động hành lang, công nghệ sử dụng bạo lực,
công nghệ tiến hành cải cách, cơng nghệ xử lý các tình huống chính trị... Cơng
nghệ cầm quyền của đảng chính trị thường được biết đến do giai cấp tư sản trong
chế độ tư bản chủ nghĩa xây dựng nên, song các đảng cầm quyền ở xã hội chủ
nghĩa cũng cần sử dụng, đã và đang tiến hành nhiều loại cơng nghệ chính trị cần
thiết để bảo vệ cán cân quyền lực của mình, thuyết phục, vận động quần chúng
tuyệt đối tin tưởng, chấp hành đường lối, chủ trương trong giai đoạn tự do dân
chủ lên ngôi. Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Tự do dân chủ Nhật Bản và


2

Đảng Xã hội Pháp là những đảng cầm quyền dưới những chế độ khác nhau
nhưng có cùng điểm chung là những đảng cầm quyền lâu năm, đã sử dụng thành
công nhiều cơng nghệ chính trị trong thời gian cầm quyền đồng thời để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quý báu mà bất cứ đảng cầm quyền ở chế độ xã hội nào
cũng cần học tập.
Đối với Đảng ta, vấn đề xây dựng đảng cầm quyền luôn cũ và cũng luôn
mới. Cũ là bởi vì, vẫn cịn đó những ngun lý cơ bản, đúng đắn của học thuyết
Mác - Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản. Mới là bởi vì, học
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận mở, nghĩa là ln ln
được nạp thêm năng lượng mới từ cuộc sống, nhất là trong giai đoạn Đảng cầm
quyền ở nước ta hiện nay, có nhiều điểm rất mới được chế định từ giai đoạn đất
nước vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, tồn cầu hóa,
hội nhập quốc tế... Chưa bao giờ như trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề lý
luận và thực tiễn về công nghệ cầm quyền của đảng lại được quan tâm đến thế.

Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng nhận định rằng, trong nhiệm kỳ Đại
hội X, đối với công tác xây dựng Đảng, “công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền...”, do đó,
trong thời gian tới phải “tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm
sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền”. Bởi vậy, việc nghiên cứu công nghệ
cầm quyền của các đảng chính trị đã áp dụng thành cơng trên thế giới là rất cần
thiết. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Công nghệ cầm quyền của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Dân chủ tự do Nhật Bản, Đảng Xã hội
Pháp và những bài học gợi mở cho Đảng Cộng sản Việt Nam” cho tiểu luận
của mình.


3

Chương 1: CƠNG NGHỆ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm công nghệ
Công nghệ (technology) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, là tài nghệ học ,sự
khéo léo, tinh xảo, cách làm độc đáo, bí truyền để đạt tới sản phẩm có chất lượng
cao của các nghề thủ cơng lúc đó.
Hiện nay, thuật ngữ công nghệ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ giáo dục, cơng nghệ chiến
tranh, cơng nghệ chính trị… Công nghệ là một tổ hợp bào gồm các yếu tố: thông
tin, kiến thức, lao động, tay nghề, vật tư – thiết bị, quản lý – tổ chức trong một
quá trình gồm nhiều giai đoạn nhằm biến các tri thức khoa học thành hàng hóa
hoặc dịch vụ có sức cạnh tranh trên thị trường.
Cơng nghệ cịn được hiểu là phương pháp cải tiến nguyên liệu ban đầu, có
thể là con người, thông tin hoặc các nguyên liệu vật lý nhằm đạt được kết quả
mong muốn dưới dạng các sản phẩm hoặc dịch vụ.
1.2. Khái niệm cơng nghệ chính trị
Cơng nghệ chính trị là cơng nghệ thực hiện quyền lực chính trị. Đó là tồn

bộ những phương thức, thủ đoạn, các giải pháp hợp lý để thực hiện chức năng
của hệ thống chính trị, nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình chính trị và đạt
được mục tiêu chính trị. Do chính trị có tính đa dạng, phức tạp, cho nên xuất iện
nhiều cơng nghệ chính trị trong q trình giành, giữ và thực thi quyền lực chính
trị. Cơng nghệ chính trị bao gồm các phương thức đạt kết quả nhanh chóng, cục


4

bộ gọi là chiến thuât; còn các phương thức đạt được hiệu quả cơ bản lâu dài gọi
là chiến lược.
Cơ sở của cơng nghệ chính trị là khoa học chính trị, bao gồm các ngành
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu dự báo. Kết quả nghiên
cứu nhanh chóng được ứng dụng trong soạn thảo, ban hành điều chỉnh chính
sách, trong tổ chức bộ máy đào tạo nhân lực. Trong xu hướng phát triển khoa
học hóa, thực tiễn hóa hoạt động chính trị trong lãnh đạo, quản lý, việc chú ý
đúng mức tới lý luận và phương pháp chính trị, ứng dụng cơng nghệ chính trị
ngày càng trở nên cần thiết.
Việc sử dụng cơng nghệ chính trị này hay cơng nghệ chính trị khác tác
động trực tiếp đến hiệu quả quản lý chính trị, điều tiết các q trình chính trị,
tính ổn định của hệ thống chính trị và cả mơi trường cính trị. Cơng nghệ chính trị
phụ thuộc vào mức độ phát triển xã hội (quá trình tiến hóa, q trình cách
mạng…) và đặc điểm của chế độ chính trị (chế độ dân chủ, chế độ chun
chế…). Cơng nghệ chính trị có tính chính xác cao và duy nhất, nó đảm bảo sự
tác động qua lại giữa các lực lượng chính trị và các thiết chế chính trị nhằm giải
quyết các vấn đề chính trị. Tính đa dạng của quyền lực chính trị làm phát sinh
nhiều cơng nghệ chính trị nhằm giành và thực thi quyền lực chính trị. Ở góc độ
khác nhau, mỗi cơng nghệ chính trị đều đa phương diện – xét theo những điều
kiện thực hiện, thành phần của những người thực hiện, loại hình hoạt động chính
trị và các vấn đề cần được giải quyết.

Cơng nghệ đấu tranh giành quyền lực chính trị (chủ yếu là quyền lực nhà
nước) có tầm quan trọng đặc biệt đối với bất kỳ giai cấp nào, bởi vì nó sẽ phá vỡ
những trật tự chính trị - xã hội cũ để xây dựng lên những trật tự chính trị - xã hội


5

mới. Các phương thức đấu tranh giành quyền lực ở các chế độ chính trị - xã hội
khác nhau gắn liền với sự phát triển xã hội của loài người theo hướng từ thấp đến
cao, nhưng tựu chung lại là có hai hình thức phổ biến là con đường bạo lực và
con đường hịa bình.
Bên cạnh đó, cơng nghệ thực thi quyền lực chính trị cũng giữ một vai trị
đặc biệt quan trọng. Khi giai cấp thống trị đã giành được quyền lực, việc cần làm
là phải sử dụng quyền lực đó một cách có hiệu quả nhất bảo vệ cho lợi ích giai
cấp của mình, đồng thời cũng phải đáp ứng những nhu cầu chung của đại đa số
quần chúng nhân dân. Trong quá trình bảo vệ và thực thi quyền lực chính trị, các
giai cấp cầm quyền đặc biệt là giai cấp tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa, đã
xây dựng và sử dụng nhiều loại cơng nghệ chính trị như: cơng nghệ tun truyền,
thuyết phục, cơng nghệ ra quyết định chính trị, cơng nghệ quản lý, điều hành
chính trị, cơng nghệ vận động hành lang, công nghệ sử dụng bạo lực, công nghệ
tiến hành cải cách, cơng nghệ xử lý các tình huống chính trị…
1.3. Cơng nghệ cầm quyền của đảng chính trị
Trong lĩnh vực chính trị học, Đảng cầm quyền là một khái niệm được sử
dụng rộng rãi ở các nước phương Tây ngay khi xã hội bắt đầu hình thành các
đảng chính trị. V. Lê-nin cũng đề cập nhiều vấn đề liên quan đến đảng cầm
quyền. Theo V. Lê-nin, đảng cầm quyền được hiểu là “đảng nắm chính quyền”
bằng những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong
bộ máy nhà nước. Những cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước phải hoạt
động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người đại diện cho Đảng thực hiện việc
tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo Đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”, vừa

với tư cách là người đại diện cho Đảng, đồng thời là đại biểu của nhân dân thực


6

hiện công việc quản lý nhà nước, tức là hoạt động “cầm quyền”. Đảng cầm
quyền là khái niệm gắn với quyền lực. Tức là Đảng có quyền lực chính trị mà cụ
thể là ở việc “nắm chính quyền”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sớm về Đảng cầm quyền, tuy
nhiên, không nêu rõ khái niệm Đảng cầm quyền là như thế nào, và hầu như chỉ
có một lần trong Di chúc, Người mới nói rõ “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”;
nhưng qua những bài viết, bài nói, Người cho rằng “Đảng cầm quyền” là một
khái niệm khác với “Đảng lãnh đạo”, Đảng cầm quyền là khái niệm gắn với
quyền lực. Theo Người, Đảng cầm quyền cũng là Đảng nắm chính quyền, nghĩa
là Đảng có quyền lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng ta là đội tiên phong không
chỉ của giai cấp công nhân mà là của cả dân tộc. “Đảng là đảng của cả giai cấp
lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”; đồng thời những cán bộ, đảng viên của
Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ quản lý trong bộ máy nhà nước nhưng
đều chỉ là những người được nhân dân “ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân.
Người viết: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu
thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”. Có thể thấy, đây là một nét đặc thù của
Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay. Điều này khơng có được đối với đảng
cầm quyền ở nhiều nước trên thế giới, khi mà đảng cầm quyền chỉ là đại diện của
một lực lượng trong nhiều lực lượng khác nhau của các giai cấp, tầng lớp dân
chúng trong xã hội.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền
khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các
tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương



7

đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó
tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng
với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn
thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng
viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng khơng có điều kiện để
phát sinh, phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh, ức hiếp quần chúng.
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là cơng cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất
để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài
cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính
quyền (Nhà nước) thể chế hố đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện.
Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và thơng
qua chính quyền để nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Trong điều kiện
Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường
lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành
được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ sai lầm về
đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến
thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ơ, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ
cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.
Bởi vậy, bất kỳ đảng cầm quyền dù ở chế độ xã hội chủ nghĩa hay xã hội
tư bản đều cần sử dụng những công nghệ thực thi quyền lực chính trị nhằm
hướng đến mục tiêu cao cả nhất là bảo vệ lợi ích cho giai cấp, thực hiện thắng lợi
mục tiêu giai cấp mà đảng đó đại diện. Trên thế giới nhiều nước đã xây dựng và


8


sử dụng thành cơng nhiều cơng nghệ chính trị như: công nghệ tuyên truyền,
thuyết phục, công nghệ ra quyết định chính trị, cơng nghệ quản lý, điều hành
chính trị, cơng nghệ vận động hành lang, công nghệ sử dụng bạo lực, công nghệ
tiến hành cải cách, công nghệ xử lý các tình huống chính trị...


9

Chương 2: CƠNG NGHỆ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ Ở
CÁC NƯỚC TRUNG QUỐC, ĐỨC, PHÁP VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Công nghệ cầm quyền của đảng chính trị ở các nước Trung Quốc,
Đức, Pháp
2.1.1. Cơng nghệ cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc
Kể từ sau Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đến nay, sức mạnh
tổng hợp của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt, diện mạo của đất nước có nhiều thay
đổi lớn, chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc phát huy sức sống mới. Tất cả
những thay đổi này đều gắn liền với việc tiến cùng thời đại và đổi mới sáng tạo
trong phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Nói cách khác Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng và sử dụng
thành công công nghệ tiến hành cải cách trong q trình cầm quyền và lãnh đạo
đất nước.
Cải cách chính trị là sự cải tạo, thay đổi một vài mặt của một chế độ đang
tồn tại mà không phá vỡ cơ sở của chế độ ấy. Cải cách chính trị là một dạng hoạt
động chính trị có ý thức và có mục đích của một cá nhân hay một nhóm, một giai
cấp. Hoạt động này nhờ vào quyền lực chính trị có sẵn để điều chỉnh, thay đổi
quan hệ giữa các giai cấp, thay đổi một lĩnh vực nào đó (hay toàn bộ) của đời
sống xã hội, nhân danh việc bảo vệ trật tự xã hội hiện hành.
Những thay đổi của Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ yếu thể hiện ở chỗ:

Phù hợp với cách mở cửa và yêu cầu của thời đại; tính tiên tiến và năng lực cầm
quyền của Đảng không ngừng được nâng cao; lý luận cầm quyền và thực tiễn


10

cầm quyền của Đảng không ngừng được đổi mới; phương thức lãnh đạo và
phương thức cầm quyền của Đảng luôn tiến cùng thời đại.
2.1.1.1. Khơng ngừng nâng cao vai trị hạt nhân lãnh đạo và năng lực
cầm quyền của Đảng
Đảng Cộng sản Trung Quốc với tư cách là đảng cầm quyền lãnh đạo các
công việc của đất nước và các sự nghiệp khác chủ yếu về chính trị, tư tưởng.
Kiểu lãnh đạo này phải được thực hiện thông qua thể chế lãnh đạo và cơ chế cầm
quyền một cách khoa học.
Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh: “Đảng ủy phát
huy vai trò hạt nhân lãnh đạo trong các tổ chức cùng cấp, dựa trên nguyên tắc
chú trọng tồn cục, hài hịa các mặt, tập trung tinh lực nắm bắt đại cục, ủng hộ
các bên phụ trách độc lập, từng bước nhất trí triển khai cơng việc”.
Từ sau Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong thực tiễn quản
lý điều hành đất nước, thể chế lãnh đạo và cơ chế cầm quyền của Đảng từng
bước được chế độ hóa, quy phạm hóa, pháp chế hóa: Thơng qua việc hoạch định
phương châm chính trị lớn, Đảng Cộng sản Trung Quốc đề xuất, kiến nghị về lập
pháp, giới thiệu những cán bộ quan trọng, tiến hành tuyên truyền tư tưởng, phát
huy vai trò của tổ chức đảng và đảng viên, thực hiện lãnh đạo Nhà nước, thực
hiện trách nhiệm cầm quyền.
Đảng ủy các cấp tích cực thúc đẩy Chính phủ điều hành Nhà nước theo
pháp luật, nhanh chóng chuyển đổi chức năng, đi sâu cải cách thể chế hành
chính; thực hiện tách rời Chính phủ và doanh nghiệp, Chính phủ và tài chính,
chính sự; Chính phủ tập trung nguồn lực để làm tốt việc điều tiết kinh tế, quản



11

lý, giám sát thị trường, quản lý xã hội và dịch vụ cơng, xây dựng Chính phủ theo
kiểu phục vụ.
Giữ vững nguyên tắc Đảng quản lý cán bộ và Đảng quản lý nhân tài, tích
cực thúc đẩy cải cách chế độ tuyển dụng cán bộ, đảm bảo dân chủ, công khai,
cạnh tranh trong tuyển dụng cán bộ, thu hút nhân tài cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
2.1.1.2. Không ngừng nâng cấp năng lực cầm quyền khoa học của
Đảng
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XVI của Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần đầu tiên đã đưa ra ý tưởng cầm quyền một cách rõ ràng: Cầm
quyền khoa học, cầm quyền dân chủ và cầm quyền dựa vào pháp luật, đó là đổi
mới quan trọng phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng.
Cầm quyền khoa học trước tiên phải được chỉ dẫn bằng lý luận khoa học.
Đảng dẫn dắt nhân dân tìm tịi hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc trên cơ sở nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ thực tiễn, kiên trì và phát
triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông.
2.1.1.3. Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa đặc sắc
Trung Quốc
Bản chất cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc là lãnh đạo nhân dân
thực hiện quyền làm chủ. Kiên trì cầm quyền dân chủ, tức là cầm quyền vì nhân
dân, cầm quyền dựa vào nhân dân, kiên trì và đảm bảo nhân dân làm chủ.


12

Đảng đã đưa ra ý tưởng lấy dân làm gốc, cầm quyền vì dân, nắm vững đặc
điểm và quy luật của cơng tác quần chúng trong tình hình mới, kiên trì và làm

phong phú đường lối quần chúng của Đảng, đổi mới phương pháp, phương thức
trong công tác quần chúng, dân được hỏi về chính trị, nhu cầu, kế hoạch.
Lấy dân chủ trong Đảng dẫn dắt nhân dân làm chủ là một nhân tố quan
trọng giữ vững phương thức cầm quyền dân chủ của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ “Dân chủ trong Đảng là sinh mệnh của Đảng”.
2.1.1.4. Đảng lãnh đạo nhân dân quản lý Nhà nước theo pháp luật
Hội nghị Ban chấp hành Trung ước 4 khóa XVI của Đảng Cộng sản Trung
Quốc nhấn mạnh cầm quyền theo pháp luật, đã xác định phương thức lãnh đạo
và phương thức cầm quyền của Đảng.
Cầm quyền dựa vào pháp luật, đó chính là phương châm sách lược cơ bản
điều hành đất nước theo phap luật, Đảng lãnh đạo lập pháp, hướng dẫn giữ gìn
pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật và tư pháp công chính, khơng ngừng thúc
đẩy pháp chế hóa trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đất nước.
2.1.1.5. Thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa
Xử lý xác mối quan hệ xã hội là một vấn đề lớn trong phương thức lãnh
đạo và phương thức cầm quyền của Đảng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra đường lối tổng thể và những biện pháp
chủ yếu để xây dựng thành cơng xã hội hài hịa xã hội chủ nghĩa, cụ thể là: Phát
triển vì nhân dân, phát triển dựa vào nhân dân, nhân dân cùng hưởng thụ thành
quả phát triển; giữ vững nguyên tắc: dân chủ pháp trị, cơng bằng chính nghĩa,


13

thành tính nhân ái, tràn đầy sức sống, yên ổn trật tự, con người chung sống hài hòa
với tự nhiên, lấy việc đảm bảo và cải thiện dân sinh làm trọng điểm để tăng cường
xây dựng xã hội, chú trọng giải quyết vấn đề lợi ích quan tâm nhất, trực tiếp nhất,
hiện thực nhất của quần chúng nhân dân; kiên định đi theo con đường cùng giàu
lên, cố gắng làm cho tồn thể nhân dân có trường để học, có việc để làm, có bệnh
được chữa, già được ni dưỡng, có nhà để ở; chú trọng thúc đẩy cải cách thể chế

xã hội, mở rộng dịch vụ cơng cộng, hồn thiện quản lý xã hội, xây dựng CHính
phủ theo kiểu phục vụ; hoàn thiện thể chế quản lý xã hội: Đảng ủy lãnh đạo,
Chính phủ phụ trách, xã hội phối hợp, công chúng tham gia.
2.1.2. Công nghệ cầm quyền của Đảng Dân chủ tự do Nhật Bản
Là một đảng cầm quyền có gần 60 năm lịch sử, Đảng Dân chủ tự do đã
trải qua nhiều thắng lợi và cũng từng nếm trải nhiều thất bại cay đắng. Lịch sử
cầm quyền của Đảng Dân chủ tự do có giá trị tham khảo trong việc nắm bắt thời
cơ lịch sử và xử lý những vấn đề trong và ngoài nước.
2.1.2.1. Kinh nghiệm cầm quyền lâu dài của Đảng Dân chủ tự do
Trước tiên, tư tưởng cầm quyền của Đảng Dân chủ tự do là xây dựng tư
tưởng chính trị dân chủ hiện đại trên nền tư tưởng chủ nghĩa bảo thủ truyền
thống của Nhật Bản, là tạo sự dung hòa hữu cơ giữa chủ nghĩa bảo thủ truyền
thống và chính trị dân chủ hiện đại.
Đảng Dân chủ tự do kiên trì niềm tin giá trị truyền thống của xã hội Nhật
Bản, như chế độ Thiên Hoàng, chủ nghĩa quốc gia. Đúng như Đảng dân chủ tự
do từng chỉ ra, “tinh thần chủ nghĩa bảo thủ là giữ gìn truyền thống và trật tự tốt
đẹp”. Chính vì điều này, Đảng Dân chủ tự do mới có thể thống nhất nhân dân


14

Nhât Bản, duy trì trật tự xã hội truyền thống trong thời trang hiện đại, giữ gìn sự
ổn định và thống nhất đất nước trong quá trình hiện đại giữ gìn sự ổn định và
thống nhất đất nước trong quá trình hiện đại hóa đang biến chuyển cực kỳ nhanh
chóng. Nhưng Đảng Dân chủ tự do khơng giữ gìn truyền thống một cách cứng
nhắc, mà nỗ lực “sáng tạo trong truyền thống”, “phát triển trong trật tự”. Đảng
Dân chủ tự do cũng hết sức chú trọng và dần tiếp nhận hệ thống thể chế dân chủ
và giá trị dân chủ từ phương Tây. Từ đó, Nhật từng bước trở thành một thành
viên quan trọng trong các nước phát triển. Điều này cũng rất phù hợp với truyền
thống “thoát Á nhập Âu” riêng có của Nhật Bản từ cận đại tới nay. Chính nhờ sự

kết hợp truyền thống và hiện đại, Đảng Dân chủ tự do có được cơ sở xã hội và
chính trị vơ cần sâu sắc.
Tiếp đó, Đảng Dân chủ tự do lấy phát triển kinh tế làm mục tiêu, nỗ lực
tiến hành hiện đại hóa Nhật Bản. Mục tiêu ưu tiên phát triển kinh tế của Đảng
Dân chủ tự do phù hợp với ý dân, từ đó trở thành cơ sở hợp pháp để thiết lập sự
cầm quyền lâu dài.
Mục tiêu ưu tiên phát triển kinh tế của Đảng Dân chủ tự do đã giúp Nhật từ
một nước bại trận vươn lên trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Thứ ba, trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng Dân chủ tự do còn coi
việc cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện phát triển cân bầng xã hội bằng mục
tiêu quốc gia, nỗ lực xây dựng một nhà nước phúc lợi, bảo đảm cơng bằng chính
nghĩa, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị nông thôn và thu nhập chênh lệch của
người dân, thực hiện “xã hội bình đẳng” ở Nhật Bản.


15

Có thể thấy, Đảng Dân chủ tự do khơng chỉ đưa Nhật Bản trở thành cường
quốc kinh tế, mà còn làm cho người dân được hưởng lợi ích từ nền kinh tế đó,
làm cho Nhật Bản trở thành một xã hội có sự bình đẳng cao và mức độ căng
thẳng xã hội thấp. Sự xuất hiện của “ý thức trung lưu” tạo dựng nền tảng xã hội
vững chắc cho sự cầm quyền lâu dài của Đảng Dân chủ tự do.
Thứ tư, chính trị phe phái trong nội bộ Đảng Dân chủ tự do đã thành công
trong việc biến cạnh tranh đảng phái giữa các chính đảng thành cạnh tranh trong
nội bộ Đảng, và đã thực hiện cái gọi là “thay đổi chính quyền trên danh nghĩa”,
từ đó ở một mức độ rất lớn đã lũng đoạn tài nguyên quyền lực nhà nước, đảm
bảo quyền lực nằm lâu dài trong tay của Đảng Dân chủ tự do.
Thứ năm, Đảng Dân chủ tự do tận dụng đặc quyền của đảng cầm quyền,
xây dựng một hệ thống “thể chế định hướng lợi ích” để duy trì sự ổn định chính
quyền. Đảng Dân chủ tự do tiến hành định hướng, chi phối lợi ích đối với các

giai tầng xã hội, từ đó thống nhất hữu hiệu các giai tầng xã hội, bảo đảm nền
tảng xã hội cho sự cầm quyền lâu dài của Đảng.
Việc định hướng lợi ích của Đảng Dân chủ tự do được thực hiện thơng qua
hoạch định chính sách và quản lý hành chính. Hoạch định chính sách biểu hiện
thành kế hoạch phát triển kinh tế vĩ mơ và chính sách công nghiệp cụ thể.
2.1.2.2. Bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của Đảng Dân chủ tự do
Thứ nhất, tệ nạn tham nhũng mang tính cơ chế, kết cấu là nguyên nhân lớn
nhất khiến cho Đảng Dân chủ tự do mất đi chính quyền.


16

Trong 38 năm cầm quyền liên tục, hiếm khi có chủ tịch Đảng hoặc thủ
tướng chính phủ của Đảng khơng bị vướng vào những tin đồn liên quan đến
tham nhũng, hối lộ, trốn thuế.
Đảng Dân chủ tự do trong thời gian dài nắm quyền đã hình thành nên mối
quan hệ “tam giác sắt” hay liên minh “tam giác sắt” với giới quan chức và giới
tài chính. Xét về thực chất, đây là sự câu kết lẫn nhau, lợi dụng lẫn nhau giữa
quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế. Chính “tam giác sắt” này đã khiến cho
Nhật Bản hình thành nên nhiều tệ nạn có tính thể chế và tính kết cấu chẳng hạn
như giới tài chính nhận được sự hỗ trợ, trợ cấp chính sách từ Chính phủ của
Đảng Dân chủ tự do.
Thứ hai, trong nền chính trị hiện đại, một đảng muốn giành chính quyền
và duy trì chính quyền, sự thành bại về kinh tế ln có ảnh hưởng và vai trị
mang tính quyết định.
Khi kinh tế Nhật Bản phát triển ổn định, chính quyền của Đảng Dân chủ tự
do cũng tương đối ổn định, đồng thời chiếm ưu thế trong Quốc hội. Khi kinh tế
Nhật Bản suy yếu, chính quyền của Đảng Dân chủ tự do xuất hiện khủng hoảng,
không chỉ chịu sự thách thức của những đảng đối lập, mà ghế quốc hội còn tụt
dốc, từ đó dẫn năng lực cầm quyền của Đảng Dân chủ tự do cũng giảm sút.

Thứ ba, trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế, Đảng Dân chủ tự do chưa xử
lý tốt mối quan hệ giữa quy tắc kinh tế thị trường tự do quốc tế và các nhóm lợi
ích trong nước, từ đó mất đi nền tảng hỗ trợ căn bản.


17

Thứ tư, năng lực cầm quyền ngày càng yếu kém khiến Đảng Dân chủ tự
do không thể giải quyết tốt các vấn đề trong thời kỳ khủng hoảng như kinh tế, xã
hội, ngoại giao v.v..
2.1.2.3. Những gợi mở từ sự thịnh suy, thành bại của Đảng Dân chủ tự
do
Trước tiên, lý luận cơ bản của Đảng vừa phải xây dựng trên cơ sở lịch sử,
văn hóa và truyền thống của đất nước, vừa phải kết hợp với quan niệm chính trị
dân chủ hiện đại.
Thứ hai, nâng cao năng lực cầm quyền, trình độ cầm quyền là sự đảm bảo
quan trọng để duy trì và củng cố địa vị cầm quyền
Thứ ba, cần làm cho đông đảo quần chúng nhân dân hưởng thụ được
những thành quả và phúc lợi của sự phát triển bền vững kinh tế, hình thành nên
một tầng lớp trung lưu có tính ổn định và cuộc sống sung túc.
Thứ tư, không ngừng thu hẹp khoảng cách phát triển xã hội, xây dựng một
tầng lớp trung lưu ổn định, có quy mơ lớn.
Thứ năm, kìm hãm và tấn công tệ nạn tham nhũng, diệt trừ tận gốc khối u
ác tính ảnh hưởng đến địa vị cầm quyền của Đảng.
2.1.3. Công nghệ cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp
Là chính đảng cánh tả lớn nhất nước Pháp, Đảng Xã hội Pháp giữ vị thế
quan trọng trong đời sống chính trị nước Pháp. Nhưng sự trỗi dậy của Đảng Xã
hội không phải luôn suôn sẻ, mà liên quan mật thiết đến chế độ chính trị và hồn



18

cảnh xã hội, đặc biệt liên quan đến việc xây dựng tổ chức và việc điều chỉnh mối
quan hệ xã hội của Đảng này.
2.1.3.1. Kinh nghiệm cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp
Thứ nhất, thích ứng với sự phát triển của tình hình, tiến hành đổi mới
tư tưởng và quan niệm
Trong quá trình phát triển, Đảng Xã hội Pháp chưa từng từ bỏ lý tưởng và
giá trị của Đảng, đồng thời họ cũng phát triển quan điểm của Đảng dựa trên sự
thay đổi của hồn cảnh. Họ tơn thờ tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” của Đại
Cách mạng Pháp, cũng như những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng hòa, đồng thời
chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, phê phán sự bất bình đẳng của xã hội tư
bản chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích và quyền của giai cấp công nhân.
Thứ hai, cải cách kết cấu tổ chức của Đảng, tăng cường khả năng tập
hợp của Đảng
Kết cấu tổ chức của Đảng Xã hội Pháp tương đối chặt chẽ, mức độ dân
chủ hóa trong Đảng tương đối cao, kết cấu tổ chức này có lợi cho việc giữ vững
sức chiến đấu của Đảng, đồng thời cũng duy trì sự năng dộng của Đảng. Kết cấu
tổ chức của Đảng Xã hội Pháp chủ yếu có ba cấp, cấp cơ sở là chi bộ địa phương
hoặc chi bộ doanh nghiệp, đảng viên có thể thảo luận trong nội bộ chi bộ, có thể
đưa ra quan điểm bất đồng và kiến nghị đối với chính sách của Đảng. Cấp trung
gian là Đại hội đại biểu liên hợp cấp tỉnh, phụ trách chính sách của Đảng ở mỗi
tỉnh. Cơ quan quyết sách của Đại hội đại biểu liên hợp là Hội đồng liên hợp. Đại
hội đại biểu liên hợp bầu chọn bí thư thứ nhất của mình. Cấp cao nhất là Đại hội
đại biểu toàn quốc, họp hai năm một lần để tổng kết và thảo luận về hoạt động,


19

phương châm, chính sách lớn của Đảng. Các cơ quan lãnh đạo và chấp hành chủ

chốt của Đảng bao gồm: Hội đồng toàn quốc, Ban chấp hành toàn quốc, Ban bí
thư qồn quốc. Bí thư thứ nhất của Đảng ở vị trí trên cùng.
Lãnh đạo các cấp của Đảng Xã hội Pháp đều được bầu qua, bỏ phiếu ở đại
hội tồn thể đảng viên ở mỗi cấp. Thơng qua chế độ tỷ lệ đại biểu mà những quan
điểm khác nhau trong Đảng có thể được thảo luận một cách đầy đủ, đồng thời
cũng có thể đi đến quyết sách cuối cùng; các thành viên của các phe phái khác
nhau trong Đảng đều có thể trở thành lãnh đạo, đồng thời đề án chương trình hành
động đạt được số phiếu cao nhất thường trở thành nhận thức chung của đại đa số
đảng viên trong Đảng và điều này có tác động tích cực tới sự ổn định của Đảng.
Đảng Xã ội còn tiến hàn cải cách phương thức giới thiệu ứng cử viên tổng thống
của Đảng. Tháng 10-2011, vòng sơ tuyển được mở rộng hơn nữa: Trong tồn thể
những người có cảm tình với cánh tả, bất kỳ ai đăng ký bầu cử, nộp đủ 01 eurp và
ký tên vào bản “Giá trị cánh tả” (tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa thế tục, chính
nghĩa, đồn kết và tiến bộ) đều có thể tham gia bỏ phiếu.
Thứ ba, nghiêng về tầng lớp trung lưu và tầng lớp dưới, thúc đẩy công
bằng xã hội
Trong thời gian cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp xem trọng vấn đề bình
đẳng xã hội và việc bảo vệ lợi ích của tầng lớp dưới, thúc đẩy cải cách trên các
lĩnh vực như an sinh xã hội, quyền tự do của cơng dân, quyền bình đẳng nam nữ,
do đó nhận được sự ủng hộ của đại đa số cử tri.
Thứ tư, thu hút tầng lớp trung lưu mới, mở rộng nền tảng cử tri


20

Đối mặt với sự thay đổi về kết cấu giai cấp, Đảng Xã hội đã hướng đến
việc tiếp cận nhằm thu hút tầng lớn trung lưu mới này để họ trở thành cử tri chủ
yếu của Đảng. Vì thế, việc cầm quyền của Đảng này, ở một mức độ rất lớn, dựa
vào sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu với thành phần chủ yếu là nhân viên quản
lý và nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp.

Thứ năm, đoàn kết lực lượng cánh tả, xây dựng vũ đài chung cho lực
lượng cánh tả
Trong bối cảnh đó, năm 1997, Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản, Đảng Xanh
và Phong trào Công dân (MDC) xây dựng “Liên minh cánh tả đa nguyên”, đồng
sy sự ủng hộ nhau trong bầu cử, đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử nghị viện
toàn quốc.
2.1.3.2. Bài học trong việc cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp
Mơ hồ trong việc xác định chỗ đứng của Đảng, nhiễu loạn về vấn đề
hình thái ý thức trong một thời gian dài
Đảng Xã hội bị ảnh hưởng sâu sắc bởi phong trào công nhân, lấy chủ
nghĩa Mác làm quan điểm, tư tưởng chính trị của Đảng, chủ trương thơng qua
cách mạng để tiến hành cải cách một cách căn bản đối với chế độ tư bản chủ
nghĩa. Nhưng trong quá trình hoạt động thực tiễn, Đảng Xã hội lại đi theo chủ
nghĩa cải lương, phần lớn các lãnh đạo của Đảng là người theo chủ nghĩa cải
lương. Sự mâu thuẫn giữa tư tưởng và hành động nói trên ln xun suốt trong
q trình hoạt động của Đảng.
Tranh giành quyền lực giữa các phe phái diễn ra nghiêm trọng, nội bộ
Đảng khó đi đến nhận thức chung


21

Trong nội bộ Đảng Xã hội tồn tại rất nhiều phe phái, điều này chủ yếu là
do Đảng Xã hội không ngừng tiếp nhận các phe phái mới gia nhập Đảng. Trong
nội bộ Đảng Xã hội tồn tại các phe phái thiểu số và phái chủ lưu, trong đó, phái
thiểu số nghiêng về lập trường chủ nghĩa cách mạng truyền thống khơng chiếm
được đa số trong Đảng.
Chính sách nghiêng về phe trung dung, mất đi sự ủng hộ của những
cử tri cánh tả truyền thống
Cho dù có nhiều thành tích trong thời gian cầm quyền, nhưng người được

hưởng lợi từ những thành quả đó chủ yếu là tầng lớp trung lưu và thượng lưu,
chứ không phải công nhân tầng lớp dưới. Sự ủng hộ của cử tri thuộc giai cấp
công nhân đối với các đảng cánh tả giảm nhanh chóng, một bộ phận lớn chuyển
sang ủng hộ cánh hữu thậm chí là các đảng cực hữu.
Các chính đảng cánh tả đều có toan tính riêng, liên minh cánh tả bằng
mặt khơng bằng lịng
Do sự khác nhau về hình thái ý thức và sự tăng giảm về quyền lực, nên nội
bộ khối cánh tả rất khó hình thành một liên minh thống nhất, cho dù liên minh có
hình thành thì cũng dễ bị tan vỡ, nền tảng của liên minh vô cùng yếu ớt.
Trong thời đại đa ngun hóa lợi ích, việc xây dựng một liên minh cánh tả
thống nhất gặp rất nhiều khó khăn, cần phải khắc phục những mâu thuẫn và xung
đột từ lâu giữa các đảng, cần có sự thỏa hiệp giữa các đảng trong bầu cử, và cần
có một hạt nhân có khả năng hiệu triệu.


22

2.2. Những gợi mở cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Chưa bao giờ như trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề lý luận và thực
tiễn về xây dựng đảng cầm quyền lại gắn bó chặt chẽ với nhau đến như vậy. Đối
với Đảng ta, vấn đề này luôn cũ và cũng ln mới. Cũ là bởi vì, vẫn cịn đó
những ngun lý cơ bản, đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin, của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đảng cộng sản. Mới là bởi vì, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là lý luận mở, nghĩa là luôn luôn được nạp thêm năng lượng mới từ
cuộc sống, nhất là trong giai đoạn Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, có nhiều
điểm rất mới được chế định từ giai đoạn đất nước vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN, mở cửa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế... Chẳng hạn,
quan niệm chung nhất trên thế giới về “đảng cầm quyền” là một đảng chính trị
đã giành được chính quyền (có thể là chiến thắng trong bầu cử hoặc bằng nhiều
con đường khác), dùng chính quyền để thực thi đường lối của đảng mình. Thế

nhưng, ở nước ta không đơn thuần như vậy. Sự cầm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam thể hiện ở việc đây là một đảng chính trị duy nhất trong xã hội Việt
Nam, Đảng khơng những đang lãnh đạo chính quyền mà cịn lãnh đạo cả hệ
thống chính trị, rộng hơn là lãnh đạo toàn xã hội. Đối với đặc điểm này thì quan
niệm “đảng cầm quyền” như ở nhiều nước trên thế giới không thể bao chứa
được. Đảng ta cầm quyền theo nghĩa như thế, với phạm vi rộng như thế, được
khẳng định trong thực tế và được chế định ngay cả trong bản Hiến pháp, thể hiện
thành quả của cách mạng nước ta trong suốt bao nhiêu năm qua, thể hiện sự phấn
đấu kiên cường, không mệt mỏi của Đảng. Đảng được các tổ chức trong hệ
thống chính trị và nhân dân giao cho trọng trách đó chứ khơng phải tự nhiên mà
có và cứ tự nhận mà được. Đại hội XI của Đảng đã vận dụng sáng tạo và phát
triển thêm một bước những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư


23

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền. Có thể thấy sự phát triển đó
được thể hiện ở những nội dung rất cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền mà Đảng “cầm” là được chế định bởi sự ủy thác của
nhân dân.
Vai trò cầm quyền của Đảng ta là kết quả tất yếu của cả quá trình phấn đấu
kiên cường, bền bỉ của Đảng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, ấm no, hạnh
phúc của nhân dân. Trải qua bao nhiêu cam go, thử thách, nhân dân đã tin yêu
Đảng, trao cho Đảng vai trò dẫn đường sự phát triển của dân tộc. Và điều này
cũng đúng như sự khẳng định ngay từ đầu thời dựng Đảng, khi Đảng nêu mục
đích sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng là vì quyền lợi của Tổ quốc, của
nhân dân, ngồi ra Đảng khơng có mục đích gì khác. Chính vì vậy, Đảng ta
khơng những là Đảng của giai cấp cơng nhân mà đồng thời cịn là Đảng của nhân
dân lao động và toàn dân tộc - đại diện cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc. Các đại hội gần đây của Đảng, trong đó có Đại hội

XI, đã trở lại khẳng định quan điểm này theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh nêu
trong Đại hội II của Đảng (2-1951). Nguồn gốc “cầm quyền” của Đảng ta là như
vậy. Đây là điểm đầu tiên, quan trọng nhất, trong cả lý luận và thực tiễn về Đảng
cầm quyền mà hiện nay cần chú ý. Luận cứ này dựa trên ba điểm: Theo đúng
quan điểm của Hồ Chí Minh, đúng thực tế của Việt Nam giai đoạn Đảng cầm
quyền và đây là niềm tự hào của những người cộng sản Việt Nam, khi Đảng cịn
là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, và như thế
Đảng đã vươn lên trở thành dân tộc. Nhìn ra nhiều đảng cộng sản và đảng công
nhân, đảng cánh tả khác trong xã hội đương đại thì tình hình cũng tương tự, khi
xưng danh “đảng của ai” nêu trong cương lĩnh chính trị của mình, nhiều đảng


24

cũng khơng bó hẹp tự nhận chỉ là đảng của giai cấp công nhân, mà hơn nữa, mở
rộng ra là của nhân dân.
Các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được bổ
sung và phát triển trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Với những cơ sở nguyên tắc này trong thời kỳ Đảng cầm quyền, nếu
Đảng xa dân, dân xa Đảng thì Đảng sẽ bị mất hết sức sống nội tại. Chính vì thế,
một vấn đề cơ bản nhất trở thành tâm điểm sống còn của Đảng ta là Đảng phải
tuân thủ nguyên tắc gắn chặt với dân, quyền của Đảng được “cầm” luôn luôn
phải dựa trên sự ủy thác của chính nhân dân.
Thứ hai, Đảng phải ln ln nâng cao tầm trí tuệ của mình; kiên định,
kiên định hơn nữa; sáng tạo, sáng tạo hơn nữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Chưa bao giờ công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta lại có sự địi hỏi rất
cấp thiết của cả hai yếu tố đó. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh gọi đó là cuộc “chiến
đấu khổng lồ” “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ, tốt tươi”. Đảng cầm quyền không được phép chệch hướng, nghĩa là khơng

được phép sai lầm về đường lối chính trị. Mà muốn thế, như Nghị quyết Đại hội
XI đã chỉ rõ: phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ
của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào” (3). Đảng ln ln
phải có tư tưởng đổi mới, kiên định đường lối đổi mới, ln ln tìm tịi, sáng
tạo, vì cuộc sống vô cùng phong phú, phát triển rất mau lẹ; điều đó khơng cho
phép Đảng giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vơ ngun


×