Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chính sách bảo tồn và phát triển các môn nghệ thuật truyền thống ở một số quốc gia Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm cho việc phát triển nghệ thuật cải lương ở thành phố Hồ Chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.53 KB, 8 trang )

Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019

CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC MÔN
NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG Ở MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆC PHÁT TRIỂN
NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hồng Sơn Giang1*, Phan Thị Hồng Xuân2
1
Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ
2
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. Hồ Chí Minh
*Tác giả liên lạc:
(Ngày nhận bài: 25/4/2019; Ngày duyệt đăng: 22/5/2019)
TÓM TẮT
Bài viết đã (1) khái quát một số khó khăn và thách thức về vấn đề khán giả đối với nghệ
thuật cải lương hiện nay; (2) qua việc giới thiệu một số chính sách và mơ hình phát triển
các loại hình nghệ thuật truyền thống ở Đơng Nam Á (Thái Lan và Malaysia); các tác
giả đã chia sẻ một số ý kiến nhằm phát triển nghệ thuật cải lương ở TP. Hồ Chí Minh
trong bối cảnh hội nhập.
Từ khóa: Cải lương, nghệ thuật truyền thống, bảo tồn, phát triển, TP. Hồ Chí Minh.
POLICY FOR CONSERVATION AND DEVELOPMENT OF TRADITIONAL
ARTISTS IN A NUMBER OF SOUTHEAST ASIAN COUNTRIES AND
LESSONS LEARNED FOR THE DEVELOPMENT OF “CAI LUONG” ART IN
HO CHI MINH CITY
Hoang Son Giang1*, Phan Thi Hong Xuan2
1
The Center of Science and Technology Development for Youth
2
University of Social Sciences and Humanities – VNU Ho Chi Minh City
*Corresponding Author:
ABSTRACT


The article has (1) generalized some of the difficulties and challenges of audience issues
in the current “Cai Luong” art; (2) through the introduction of a number of policies
and models for the development of traditional arts in Southeast Asia (Thailand and
Malaysia); The authors shared some ideas to develop the “Cai Luong” art in Ho Chi
Minh City in the context of integration.
Keywords: Cai Luong, traditional art, conservation, development, Ho Chi Minh City.
vẫn còn tồn tại nhưng hầu như các sân
khấu ln có tình trạng thưa vắng khán giả.
Ngồi giả định giới trẻ có xu thế quay lưng
lại với văn hóa truyền thống của dân tộc,
có hay khơng sân khấu cải lương có nhiều
bất cập trong định hướng phát triển nghệ
thuật dân tộc phù hợp với thời đại hội
nhập.
“Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, sân khấu
cải lương TP.HCM bước vào con đường
đổi mới. Là một yếu tố của sinh hoạt văn
hóa - nghệ thuật hàng ngày của thành phố,
sân khấu cải lương phục vụ một đối tượng

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghệ thuật sân khấu là một bộ môn quan
trọng của lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật,
trong đó sân khấu cải lương - một loại hình
nghệ thuật dân tộc, một sân khấu ca kịch
truyền thống của Việt Nam được hình
thành, tồn tại, phát triển đến nay đã có trên
một thế kỷ. Trước xu thế hội nhập quốc tế
dẫn đến sự giao lưu văn hóa diễn ra mạnh
mẽ trên nhiều phương diện, các loại hình

nghệ thuật hiện đại được du nhập vào Việt
Nam và được đa số giới trẻ đón nhận nồng
nhiệt. Do vậy, hiện nay mặc dù cải lương
6


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019

công chúng khán giả đông đảo. Số lượng
khán giả hằng năm của các đoàn cải lương
chuyên nghiệp thành phố khoảng 10 triệu
người, chưa kể số lượng thính giả trong và
ngồi nước, qua làng sóng đài tiếng nói
Việt Nam, đĩa nhựa, máy ghi tiếng,… phải
tính bằng đơn vị trăm triệu”, nhưng hiện
nay những con số trên chỉ là quá khứ “vang
bóng một thời”. Thực tế cho thấy, cải
lương ở TP.HCM đang lâm vào khủng
hoảng dù đã và đang được các sở, ban,
ngành hữu quan bằng một số biện pháp
mong muốn khơi phục lại loại hình nghệ
thuật này trong một vài năm gần đây.
Tại khu vực Đông Nam Á, Malaysia và
Thái Lan là hai quốc gia còn lưu giữ được
nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu truyền
thống do có những chính sách phù hợp, các
loại hình nghệ thuật ấy ngày càng thu hút
và là món ăn tinh thần khơng thể thiếu
trong đời sống văn hóa của nhân dân
những quốc gia này. Trong bối cảnh hội

nhập và giao lưu văn hóa cũng là thực hiện
mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN tầm
nhìn đến năm 2025, rất cần sự chia sẻ giữa
các nước thành viên về những kinh
nghiệm, chính sách bảo tồn và phát triển
các bộ môn nghệ thuật truyền thống. Trong
bài viết này, chúng tơi xin khái qt một
số khó khăn và thách thức về vấn đề khán
giả hiện nay đối với nghệ thuật cải lương,
giới thiệu một số chính sách và mơ hình
phát triển các loại hình nghệ thuật truyền
thống ở Đông Nam Á và bài học kinh
nghiệm cho việc phát triển nghệ thuật cải
lương tại TP.HCM nhân sự kiện kỷ niệm
100 năm hình thành và phát triển bộ mơn
nghệ thuật truyền thống này.

diễn hay cống hiến cho nền nghệ thuật
nước nhà. Tiếc thay lớp khán giả biết tôn
vinh, giữ gìn nghệ thuật truyền thống dân
tộc vì lẽ này hay lẽ khác ngày càng ít đi.
Đây chính là sự khó khăn, thách thức và
cũng là sự thiệt thòi của những nghệ sĩ
đang trung thành, tận tuỵ với nghiệp Tổ,
với định hướng bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
Ngày nay, khi nói đến hai tiếng cải lương,
có lẽ rất nhiều người đặc biệt là giới trẻ sẽ

cho rằng đó là chuyện “lỗi thời”, chuyện
của những người nông dân tay chân lúc
nào cũng lắm lem bùn đất, hay là chuyện
của những bà lão ham thích tình cảm uỷ mị
với những tình tiết khiến họ phải sụt sùi rơi
lệ… Do vậy, những màn trình diễn cải
lương trên các sân khấu hoặc trong chương
trình truyền hình, phát thanh càng ngày
càng khan hiếm khán giả, có chăng thì
cũng chỉ có một vài người lớn tuổi cịn
mang trong mình tâm thức “vọng cổ”, rất
hiếm khi thấy thành phần khán giả trẻ tuổi.
Tình trạng này đang dần đẩy nghệ thuật cải
lương vào “ngõ cụt”, khơng có đất dụng võ
vì thiếu người xem vì khán giả là một trong
những nhân tố quan trọng quyết định cho
sự sống còn của một nghệ thuật sân khấu.
Một số người còn bi quan cho rằng cải
lương đã hết thời, do đó sự cố gắng của
những ai muốn phục hưng nó bây giờ cũng
chỉ có tác dụng như một “liều thuốc giảm
đau”, hay như một “lát sâm mỏng” nhằm
kéo dài thêm chút ít sự sống cho những
bệnh nhân mắc bệnh nan y.
Trước hết, trong bối cảnh tồn cầu hố như
hiện nay, người ta dễ dàng tiếp cận với
những hình thức giải trí mang tính hiện đại
thì cải lương mất dần tính “độc tơn” là điều
có thể lý giải được. Ngày nay, với ít thời
gian rảnh rỗi trong một ngày để thư giãn,

nếu phải lựa chọn một hình thức giải trí,
người ta sẽ ưu tiên chọn chương trình phim
ảnh, trị chơi truyền hình, trị chơi điện tử
hay chat (tán gẫu trên mạng internet),…

NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THÁCH
THỨC TỪ VẤN ĐỀ KHÁN GIẢ
Bất kì một loại hình nghệ thuật nào cũng
vậy, muốn sống được thì phải có khán giả,
nếu khơng có khán giả đồng nghĩa với việc
sân khấu ngưng hoạt động. Chính khán giả
là những người góp phần động viên, khích
lệ người nghệ sĩ tận tâm trao dồi, rèn luyện
chun mơn nghiệp vụ để có những vai
7


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019

thay vì chọn xem một tuồng cải lương kéo
dài hàng tiếng đồng hồ.
Nguyên nhân sâu xa hơn có lẽ nằm ở trong
tâm thức của con người thời điện tử - thời
đại của sự phát triển với tốc độ chóng mặt.
Tâm thức của đa số người thời nay có lẽ
thực tế, thực dụng hơn trước. Nhà thơ Tố
Hữu đã từng triết lý: “Ít thời gian ghét vẻ
vời kiểu cách”, thật đúng với khán giả
trong giai đoạn hiện nay bởi do ít thời gian
nên khi chọn hình thức giải trí, họ thích

những gì rõ ràng minh bạch, nhanh chóng,
chứ khơng thích những gì vịng vo hay bị
gị bó trong một khn mẫu. Ngay trong
cách biểu lộ tình cảm, con người trong bối
cảnh hiện nay cũng khơng muốn vịng vo,
thể hiện qua bài thơ, ý nhạc: “Có u thì
nói rằng u, khơng u thì nói một điều
cho xong” hay “Tình u đến anh khơng
mong đợi gì, tình u đi anh khơng hề hối
tiếc…” của nền ca nhạc hiện đại. Với tâm
thức như vậy, thì con người thời nay khó
có thể chấp nhận được nghệ thuật ca kịch
cải lương với những ca từ bóng bẩy, những
hình tượng biểu trưng và ước lệ. Họ khó
có thể chấp nhận được những cách biểu lộ
tình cảm theo kiểu nàng Xê-da: sau khi đã
móc trái tim mình ra trao cho người tình
cịn có thể ca vài câu vọng cổ rồi mới
chết”.
Rõ ràng, khán giả ln địi hỏi nghệ thuật
cải lương phải ln có cái mới, cái hay, cái
lạ để họ thưởng thức chứ không thể nào
sống hồi với cái cũ, đành rằng cái cũ hay
chứ khơng dở nhưng dù thế nào cũng vẫn
chỉ là cái cũ mà thôi. Cho nên, chẳng trách
tại sao thời gian qua mỗi khi các nhóm hát
thực hiện vở cũ dựng lại, diễn ở các rạp tại
TP.HCM cũng chỉ thu hút được lượng
khán giả không quá đông như mong đợi.


là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa khác
nhau. Bên cạnh sự phong phú và đa dạng
trong bản sắc riêng của từng tộc người ở
mỗi quốc gia đó là sự tương đồng về mặt
văn hóa mà các nhà nghiên cứu vẫn hay
gọi là “Đông Nam Á thống nhất trong đa
dạng”. Từ xa xưa tại đây đã sản sinh ra
nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống
như múa, hát, kịch, ca kịch, múa rối…
Cùng hình thành và phát triển với nghệ
thuật cải lương ở Nam bộ - Việt Nam, các
loại hình sân khấu truyền thống ở các nước
Đông Nam Á khác cũng ra đời từ rất sớm
và phát triển trong một thời gian dài. Tuy
nhiên cũng khơng nằm ngồi tiến trình
phát triển của lịch sử, các loại hình nghệ
thuật truyền thống ở các nước Đông Nam
Á khác cũng đã phải chịu cạnh tranh ganh
gắt giữa một bên là truyền thống, một bên
là hiện đại - rất được giới trẻ ủng hộ. Theo
đó, những quốc gia này cũng đã tiến hành
bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền
thống từng có nguy cơ bị lãng quên. Chúng
ta có thể kể ra một số quốc gia đã rất thành
công trong công tác bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa - nghệ thuật truyền thống: điển
hình có Inđonesia, Malaysia với nghệ thuật
rối bóng Wayang kulit; Thái Lan với loại
hình kịch Khon; Campuchia với ca múa
Lam vong … Trong khuôn khổ của bài viết

này, chúng tôi xin giới thiệu một số mơ
hình và chính sách bảo tồn nghệ thuật
truyền thống của một số nước ở Đông Nam
Á, đại diện là hai quốc gia Thái Lan và
Malaysia.
Tại Thái Lan
Chính sách bảo tồn và phát triển nghệ thuật
sân khấu truyền thống của Thái Lan được
quy định rất rõ trong Hiến pháp Hoàng gia
Vương quốc Thái Lan (năm 1981), điều
luật thứ 114 quy định: “Nhà nước thúc đẩy
và bảo tồn văn hóa quốc gia”. Cốt lỗi của
chính sách trên gồm có năm vấn đề chính,
đặc biệt quan tâm đến vấn đề phổ biến và
nâng cao hiểu biết về các bộ môn nghệ
thuật truyền thống cho nhân dân đất nước
Thái, nhận thức đúng đắn các giá trị của
văn hóa dân tộc và biến những giá trị này

CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT
TRIỂN NGHỆ THUẬT TRUYỀN
THỐNG Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
ĐÔNG NAM Á
Khu vực Đông Nam Á với 11 quốc gia và
được chia thành hai phần là lục địa và hải
đảo. Từ lâu khu vực này đã được nhìn nhận
8


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019


thành hành động thực tiễn để góp phần vào
sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị
nghệ thuật dân tộc.
Nhà nước Thái Lan yêu cầu các nhà quản
lý nghệ thuật sân khấu truyền thống cần
phải có một bản lĩnh văn hóa lớn và am
hiểu sâu sắc về mơi trường văn hóa đã sản
sinh ra nghệ thuật sân khấu truyền thống.
Vì nghệ thuật sân khấu từ lâu đã là yếu tố
góp phần làm phong phú và tạo nên bản
sắc riêng trong văn hóa Thái Lan, do đó
nghệ thuật sân khấu truyền thống là một
phần quan trọng của văn hóa.
Nhà nước khuyến khích sáng tạo các giá
trị văn hóa - nghệ thuật
Ở Thái Lan, từ lâu người ta đã quy định
nhiệm vụ của các cơ quan chính quyền ở
tất cả các cấp là làm thế nào để các nhà
sáng tạo được hưởng những điều kiện về
đào tạo và làm nghề như những người làm
về pháp luật, y tế, khoa học, giáo dục hay
doanh nghiệp. Phải tạo điều kiện cho các
nhà sáng tạo nghệ thuật có thể học tập
được những phương pháp mới và kỹ thuật
mới, tiến hành các cuộc thực nghiệm, tiếp
xúc với các chuyên gia và các bậc thầy để
tài năng của họ ngày càng phát triển ở đỉnh
cao. Song song với những quy định trên,
cần phải có cơ chế, chính sách hợp lý để

những người hoạt động trong lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật có cơng ăn việc làm và thu
nhập đầy đủ; có chính sách để các kịch
bản, các bài nghiên cứu, bài báo, các buổi
phát thanh và truyền hình, các băng từ,
phim, tạp chí…được sản xuất trong nước
ngày càng nhiều phục vụ được thị hiếu và
trình độ thưởng thức nghệ thuật của công
chúng trong nước lẫn quốc tế.
Thái Lan quan niệm rằng sự giúp đỡ của
Nhà nước và các thể chế xã hội cho các
nghệ sĩ thuộc các bộ môn nghệ thuật
truyền thống hưởng thụ các tài sản văn hóa
là rất quan trọng, vì điều này sẽ giúp duy
trì sự cân bằng giữa lợi ích cá nhân và cộng
đồng (ưu tiên cho lợi ích cộng đồng và xã
hội).
Việc bảo trợ nghệ thuật truyền thống ở
Thái Lan có thể do hai bên cùng kí hợp

đồng, một bên có vai trị là người bảo trợ,
một bên là người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ
mang hết tài năng của mình phục vụ công
chúng như trong hợp đồng đã ký kết với
người bảo trợ, điều này đã giúp Nhà nước
lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống
của quốc gia.Việc bảo trợ cho một nghệ sĩ
cũng có ý nghĩa như sự giúp đỡ cho một
công việc sáng tạo nghệ thuật nhất định,
cho các tác phẩm cụ thể được tiến hành

(dưới hình thức đơn đặt hàng), thời hạn
bảo trợ tùy thuộc vào thời hạn sáng tạo và
đổi mới nghệ thuật.
Thái Lan có chính sách miễn thuế đối với
các khoảng tiền tặng dành cho các tổ chức
từ thiện hay giáo dục. Khi làm tờ khai để
nộp thuế, các cá nhân có thể khấu trừ tới
30% thu nhập phải nộp thuế, còn các hội
là 5%.
Xây dựng chiến lược quảng bá và tiếp thị
nghệ thuật
Các nhà hát lớn ở Thái Lan xây dựng dự
án tiếp thị nghệ thuật rất hay và đồng bộ.
Ðiều cốt yếu nhất là sự nhất trí đồng lịng
của các nhân viên nhà hát, tạo nên sức
mạnh tổng hợp, cùng với một chế độ đãi
ngộ thích đáng. Thay vì giao vé cho rạp với
tỷ lệ 20% hoa hồng, nhà hát giao cho nhân
viên tự đi đến các nơi với tỷ lệ 15% (cịn
5% xung vào quỹ cơng dành cho các kỳ
nghỉ mát, xây dựng các vở diễn ngoài kế
hoạch). Ngoài ra, trong mỗi xuất diễn, bao
giờ các đơn vị cũng dành 100 vé cuối cùng
để tuyên truyền dành cho sinh viên các
trường học, cơng nhân các xí nghiệp, vừa
tìm cách tăng doanh thu, vừa đảm bảo
cơng tác tun truyền, đó là cách để nhà
hát tồn tại và vẫn ln có khán giả hàng
đêm đến xem biểu diễn nghệ thuật truyền
thống.

Đào tạo nghệ thuật truyền thống trong
nước
Đào tạo là vấn đề cốt lõi trong phát triển
nghệ thuật sân khấu ở Thái Lan, dự án
“Sân khấu học đường” được chú ý và triển
khai từ rất sớm trong đại đa số học sinh,
sinh viên. Các trường tư ở Thái Lan khơng
có nhiều, một số trường có các mơn học
9


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019

như giáo dục văn hóa nghệ thuật ngồi giờ
lên lớp. Ở các tiết học này, học sinh được
tìm hiểu về các loại hình nghệ thuật truyền
thống, tự do sáng tạo nghệ thuật, đôi khi
được lựa chọn một thể loại nghệ thuật và
trình diễn trong khoảng thời gian quy định,
một số tác phẩm văn học của Thái Lan còn
được sinh viên chuyển thể thành các kịch
bản nghệ thuật sân khấu rất hay và lơi
cuốn. Chính vì điều này mà học sinh, sinh
viên Thái am hiểu nghệ thuật dân tộc từ rất
sớm, xem đó như là một sự gần gũi và là
món ăn tinh thần khơng thể thiếu.
Ở bậc đại học, Bộ Giáo dục Thái Lan
khuyến khích sinh viên có năng khiếu
nghệ thuật theo học các ngành nghệ thuật
truyền thống, hầu hết sinh viên theo học

các ngành này đều được miễn đóng học phí
và nhận được nhiều chính sách ưu đãi. Nhà
nước yêu cầu các trường đại học có đào tạo
nhóm ngành nghệ thuật sân khấu truyền
thống xây dựng chương trình đào tạo và
giáo trình đào tạo rõ ràng, cụ thể, đảm bảo
cho sinh viên vừa có chun mơn, nghiệp
vụ diễn xuất tốt, vừa trao dồi kiến thức văn
hóa. Song song đó cần phải xây dựng nhà
hát sinh viên tại mỗi trường để học viên có
cơ hội thực hành biểu diễn nhiều trên sân
khấu.
Tại Malaysia
Nghệ thuật sân khấu đóng vai trò rất quan
trọng trong việc làm giàu bản sắc văn hóa
dân tộc của người Malaysia, là món ăn tinh
thần của người dân, giúp mọi người nhớ và
đánh giá đúng vai trị của các giá trị văn
hố, nghệ thuật. Chính sách phát triển văn
hóa nói chung của quốc gia này được đưa
ra từ năm 1971 (trước Thái Lan 10 năm),
trong đó bao gồm các vấn đề cốt yếu:
Chính phủ Malaysia quan tâm thực hiện
các chương trình văn hố nghệ thuật nhằm
tăng cường bản sắc văn hoá dân tộc, bảo
đảm sự thống nhất và độc lập của quốc gia
cũng như duy trì sự hợp tác giữa các tộc
người trong nước.
Chính phủ Malaysia coi sự phát triển của
văn hoá và nghệ thuật cũng quan trọng như

sự phát triển về kinh tế thông qua việc tiếp

tục khuyến khích các cơng dân Malaysia
sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật truyền
thống và thấm nhuần các giá trị thẩm mỹ
to lớn, đặc biệt hiểu rõ giá trị và biết gìn
giữ nghệ thuật, văn hố và di sản. Để làm
giàu thêm văn hố Malaysia, năm 1996
chính phủ đã chi một khoản tiền là 73.71
triệu RM cho việc làm phong phú các loại
hình nghệ thuật truyền thống, góp phần
phát triển văn hố ở Malaysia.
Ngồi ra, nhằm tăng cường chất lượng các
hoạt động sân khấu, các đạo diễn, diễn
viên, nghệ sĩ, vũ công, ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc
công, tác giả tham gia vào các hoạt động
nghệ thuật truyền thống ở cấp quốc gia sẽ
được miễn thuế thu nhập. Chính sách miễn
thuế cũng dành cho sân khấu của các nhóm
nghệ thuật địa phương.
Xây dựng chiến lược đưa nghệ thuật sân
khấu truyền thống vào phục vụ du lịch
Bộ Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch
Malaysia chủ trương muốn phát huy và
bảo tồn nghệ thuật sân khấu truyền thống
cần phải xây dựng và xác định đây là mục
tiêu quốc gia, coi đó là di sản văn hóa. Đặc
biệt, phải gắn nghệ thuật sân khấu truyền
thống với du lịch, các cơ quan quản lý linh
hoạt trong việc truyền bá được các sản

phẩm nghệ thuật truyền thống là một loại
hình nghệ thuật độc nhất vơ nhị, mang tính
nghệ thuật cao và khách du lịch khơng thể
bỏ qua khi đến Malaysia. Đây là hướng đi
cần thiết, làm đa dạng hóa sản phẩm du
lịch văn hóa phục vụ du khách trong nước
lẫn quốc tế.
Để kết hợp du lịch với các sản phẩm nghệ
thuật truyền thống thành công, các đơn vị
nghệ thuật ở Malaysia quy hoạch thành các
điểm biểu diễn tốt, chương trình hấp dẫn.
Trong quy hoạch phát triển du lịch quốc
gia, Bộ Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch đã
chú trọng xây dựng các sản phẩm du lịch
đặc thù, trong đó có sản phẩm du lịch văn
hóa phi vật thể nhằm khẳng định bản sắc
độc đáo của người dân Malaysia. Bên cạnh
đó, để xây dựng một chương trình nghệ
thuật phù hợp với du lịch quốc gia, Nhà
nước tạo cơ chế để các đơn vị nghệ thuật
10


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019

phối hợp với doanh nghiệp lữ hành tìm
hiểu nhu cầu của khách, có lịch biểu diễn
phù hợp. Ngược lại, hoạt động du lịch có
thêm những chương trình nghệ thuật
truyền thống mang lại cho du khách những

khám phá mới lạ.
Chuẩn bị khán giả lâu dài cho nghệ thuật
truyền thống
Để chuẩn bị khán giả lâu dài cho nghệ
thuật truyền thống, các đơn vị nghệ thuật
tiến hành điều tra, nghiên cứu thị trường
để nắm bắt nhu cầu và mong muốn về văn
hóa nghệ thuật của các đối tượng cơng
chúng khác nhau, trên cơ sở đó thiết kế và
sử dụng các cơng cụ marketing tổng hợp
để đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu
của khán giả. Đặc biệt luôn quan tâm đến
những lợi ích mà khán giả mong đợi khi
tham dự các chương trình sân khấu truyền
thống. Ví dụ, nghệ sĩ phải biết phân loại thị
hiếu khán giả: loại đến sân khấu để giải trí,
loại khác để đạt mục đích giao tiếp xã hội,
loại đến để thoả mãn nhu cầu hưởng thụ
sáng tạo nghệ thuật… nhằm ứng xử phù
hợp với sáng tạo của người làm nghệ thuật.
Từ đó phát hiện và dự đoán nhu cầu của
khán giả, các tổ chức văn hóa nghệ thuật
bắt đầu thiết kế sản phẩm hay chương trình
văn hóa nghệ thuật sao cho phù hợp: từ
việc lựa chọn thể loại, nội dung, chủ đề đến

việc tuyển chọn nghệ sĩ, diễn viên để đáp
ứng tốt nhất nguyện vọng thưởng thức
nghệ thuật của công chúng.
Việc sử dụng linh hoạt và tổng hợp các

cơng cụ marketing văn hóa nghệ thuật
truyền thống sẽ tác động tích cực đến khán
giả, khiến khán giả thấy nhu cầu của họ
được lắng nghe và đáp ứng một cách đầy
đủ. Khi đó, khán giả sẽ có phản hồi tốt đối
với sản phẩm nghệ thuật truyền thống như
đến xem, tiếp tục quay trở lại xem các
chương trình nghệ thuật khác, tuyên truyền
tốt về chương trình và tổ chức với người
thân, bạn bè, đồng nghiệp,…
Giáo dục về ý thức tôn trọng nghệ thuật
cho khán giả
Hoạt động giáo dục nghệ thuật nhằm nâng
cao sự cảm thụ và hài lòng của khán giả. Ở
Malaysia một số chương trình biểu diễn
nghệ thuật truyền thống có các hoạt động
đi kèm như giao lưu giữa đạo diễn, diễn
viên và khán giả, giới thiệu về thủ pháp
nghệ thuật, những nét đặc sắc của chương
trình hay quá trình dàn dựng vở diễn, tham
quan hậu trường, sân khấu, kho đạo cụ,
phục trang,… những hoạt động này sẽ làm
tăng hứng thú và giúp khán giả cảm nhận
sâu sắc hơn ý nghĩa và vai trò của sân khấu
truyền thống trong đời sống văn hóa - kinh
tế - xã hội.
Nâng cao đời sống của nghệ sĩ là vấn đề
hết sức cần thiết. Nhiều thế hệ nghệ sĩ đã
đam mê theo đuổi nghệ thuật cải lương,
nhưng khi khơng cịn đất để diễn, họ phải

lui về phục vụ ở nông thôn. Trong số đó
cũng có khơng ít nghệ sĩ khơng thể bám trụ
với nghề, phải rời khỏi đồn hát để tìm cho
mình một lối thốt về kinh tế như mở
những qn ăn hay những phòng trà phục
vụ ca cổ để kiếm sống. Chính vì thế, muốn
bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật
này thì trước hết phải có chính sách chăm
lo đời sống cho nghệ sĩ để họ yên tâm cống
hiến cho nghệ thuật. Thêm vào đó, hàng
năm Nhà nước nên có chính sách khen
thưởng đối với những nghệ sĩ có nhiều
đóng góp cho cải lương. Đối với nghệ sĩ
cải lương, điều kiện để được xét tặng các

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG
VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG TẠI TP.
HỒ CHÍ MINH
Qua phần kinh nghiệm bảo tồn và phát huy
giá trị các loại hình nghệ thuật truyền
thống của một số nước ASEAN (Thái Lan
và Malaysia) như chúng tôi đã trình bày
bên trên; đối chiếu với hiện trạng nghệ
thuật Cải lương ở TP.HCM, chúng tôi xin
được nêu ra một số ý kiến nhằm bảo tồn và
phát triển nghệ thuật cải lương trong giai
đoạn hiện nay.
Về phía chủ trương, chính sách của Nhà
nước

Cần quan tâm và nâng cao đời sống nghệ

11


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019

danh hiệu nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân
rất khó (vì hồ sơ có u cầu về trình độ
học vấn, huy chương) nên số lượng nghệ
sĩ được tặng các danh hiệu này còn rất
kiêm tốn, nhất là danh hiệu nghệ sĩ nhân
dân,... Thiết nghĩ, Nhà nước cũng cần có
những chính sách mới thơng thống hơn
trong việc xem xét thành tích đóng góp của
nghệ sĩ, điều này sẽ là một trong những
động lực quan trọng giúp họ trụ vững và
tâm huyết với nghề.
Nâng cao ý thức giữ gìn văn hóa dân tộc
trong cơng chúng
Thực tế là có một bộ phận cơng chúng trẻ
rất u thích cải lương nhưng khơng dám
tiếp cận vì sợ bị chê là “sến”, là “quê”. Đờn
ca tài tử được UNESCO công nhận di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại cũng đã
tự nó nói lên giá trị và ảnh hưởng của bộ
mơn nghệ thuật này ở Nam bộ. Vấn đề là
chúng ta đã không truyền tải được đến
công chúng, đặc biệt là giới trẻ hiểu, từ đó
yêu mến và tự hào về di sản văn hóa địa

phương.Thái Lan và Malaysia đã đưa nội
dung này vào các cấp học, theo đó giúp
ni dưỡng tâm hồn của cơng chúng từ rất
sớm. Ngồi ra, cần phải làm mới các bộ
mơn nghệ thuật truyền thống, theo đó,
chúng tôi tin rằng giới trẻ sẽ không bao giờ
quay lưng lại với những cảm thụ nghệ
thuật vừa đáp ứng được sợi dây tình cảm
vừa đáp ứng được thị hiếu và nhu cầu nghệ
thuật trong bối cảnh hội nhập. Do vậy,
thiết nghĩ cần phải tuyên truyền, giáo dục
cho công chúng hiểu được nghệ thuật cải
lương hay bất kì loại hình nghệ thuật
truyền thống nào khác cũng đều là vốn quý
của dân tộc, là yếu tố góp phần tạo nên bản
sắc văn hố Việt Nam.
Đổi mới nội dung và hình thức các vở
diễn, kịch bản cải lương
Trước hết cải lương cần phải được hiểu
theo đúng nghĩa của nó: “cải cách hát ca
theo tiến bộ, lương truyền tuồng tích sánh
văn minh”. Từ bản Tổ với nhịp đơi của Dạ
cổ hồi lang, các bản vọng cổ đã phát triển
thành nhịp 32, lại kết hợp tân cổ giao
duyên, rồi 6 câu rút xuống 4 câu,… đã làm

cho sân khấu cải lương đầy sức sống. Điều
này có nghĩa: cải lương là tiến bộ, văn
minh, là khơng ngừng cải cách và đổi mới.
Do đó, những soạn giả, người viết kịch

bản, diễn viên, nghệ sĩ cải lương cần ý thức
được điều này, từ đó khơng ngừng cải
cách, khơng ngừng phát triển để cải lương
ngày càng mới mẻ hơn, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh thực tế hơn nhằm đáp ứng
nhu cầu của khán giả trong nước và quốc
tế trong giai đoạn hội nhập.
Về vấn đề tuyển sinh và đào tạo
Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đặc
thù đối với các loại hình nghệ thuật truyền
thống như cải lương. Thực tế, trong cách
đào tạo và sử dụng hiện nay đang quá chú
ý đến bằng cấp, cào bằng với tất cả các loại
hình nghệ thuật khác nhau, khơng phân
biệt giữa truyền thống và hiện đại. Đối với
nghệ thuật truyền thống, tài năng thật sự
lại là những người xuất thân từ con nhà
nịi, khơng qua đào tạo chính quy. Nếu chỉ
đánh giá và trả lương theo bằng cấp thì sẽ
thiệt thịi cho những nghệ sĩ này, đồng thời
khơng khuyến khích họ theo nghề. Có
nhiều nghệ sĩ thành cơng do năng khiếu và
sự rèn luyện của mỗi người chứ hồn tồn
khơng phải do bằng cấp. Do đó, theo
chúng tơi bên cạnh hình thức đào tạo chính
quy, nên giao quyền tự chủ cho giám đốc
các nhà hát cải lương đào tạo theo kiểu
truyền nghề và tuyển dụng là tốt nhất.
Chúng tôi rất tin tưởng trong thời gian tới,
TP.HCM sẽ có sự linh động trong việc thu

hút chuyên gia, các tài năng đặc biệt nhằm
đưa Nghị quyết số 54 về cơ chế đặc thù đi
vào thực tiễn của đời sống.
Kết hợp đưa cải lương vào làm du lịch
bằng hình thức mới
Có thể thấy, Malaysia là một trong những
quốc gia ASEAN thành công trong việc
đưa sân khấu truyền thống vào phục vụ du
lịch. Theo đó, những người có trách nhiệm
đối với nghệ thuật cải lương nên đầu tư cho
những vở diễn, liên kết với các tour du lịch
để phục vụ phục vụ du khách, đặc biệt là
du khách nước ngoài du lịch tại TP.HCM.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có chủ
12


Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 5 (2), 2019

trương tạo điều kiện liên kết, thiết kế tour
du lịch văn hóa đưa du khách đến với các
phịng trưng bày về trang phục cải lương,
đạo cụ biểu diễn,... để cổ vũ làng nghề của
bộ môn nghệ thuật cải lương.

Malaysia, qua bài viết, chúng tơi mong
muốn góp thêm một số ý kiến để giúp phát
triển loại hình nghệ thuật cải lương trên
tinh thần giữ gìn tinh hoa văn hóa dân tộc
nhưng theo hướng phát triển hiện đại.

Việc bảo tồn văn hóa truyền thống ở các
địa phương cần có sự tham gia tích cực của
cộng đồng, của các nghệ nhân - những
người giữ lửa di sản. Vì thế, để bảo tồn
được nghệ thuật truyền thống như loại
hình nghệ thuật cải lương, cần có sự vào
cuộc tích cực của chính quyền TP.HCM và
có sự đầu tư thích đáng cho văn hóa truyền
thống dân tộc.

KẾT LUẬN
Trước những băn khoăn lo ngại trước sự
mai một, khơng gìn giữ được văn hóa gốc
của nghệ thuật truyền thống, trước sự tác
động của yếu tố thị trường, bằng cách tham
khảo một số cách làm hay về bảo tồn và
phát huy di sản nghệ thuật truyền thống
của các nước ASEAN như Thái Lan và

TÀI LIỆU THAM KHẢO
BÙI VĂN QUẾ (2001), Cải lương xưa và nay qua sách báo (Bùi Văn Quế sưu tầm),
TP. Hồ Chí Minh.
DƯƠNG NGỌC MINH (2000), Chính sách văn hố Malaysia, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
ĐỖ DŨNG (2003), Sân khấu cải lương Nam Bộ, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
ĐỖ TẤN TRỌNG (1999), Chính sách văn hố Thái Lan, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
NGƠ VĂN DOANH (2000), Nghệ thuật Đơng Nam Á, NXB Lao động, TP. Hồ Chí Minh.
NGUYỄN PHAN THỌ (1994), Sân khấu và thị hiếu người xem - tiểu luận và phê bình,
NXB Sân khấu, Hà Nội.
NGUYỄN PHAN THỌ (1999), Nghệ thuật truyền thống Đơng Nam Á, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.
NGUYỄN THỊ MINH NGỌC (2007), Sân khấu cải lương ở TP.HCM, NXB Tổng hợp
TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh.
TUẤN GIANG (1997), Ca nhạc và sân khấu cải lương, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
TUẤN GIANG (2006), Nghệ Thuật Cải Lương, NXB Đại học quốc gia TP.HCM, TP.
Hồ Chí Minh.

13



×