Giải đáp thắc mắc về thuốc và sức khỏe – Kỳ 2
Có nên phối hợp thuốc?
Người tăng huyếp áp và bệnh gout cần dùng thuốc theo sự chỉ dẫn của bác
sĩ để tránh những tai biến.
Bố tôi bị tăng huyết áp và mới phát hiện bị bệnh gout, hiện đang dùng
nifedipin để hạ huyết áp, tuy nhiên gần đây huyết áp thường dao động, không
ổn định. Tôi hỏi ở quầy thuốc gần nhà, được tư vấn dùng thêm cho bố thuốc lợi
tiểu hypothyazid để hạ huyết áp, tuy nhiên tôi chưa dám cho bố dùng ngay. Xin
bác sĩ cho biết dùng 2 loại thuốc như vậy có được không, tôi mong nhận được
trả lời sớm. Tôi xin cảm ơn!
Nifedipin và hypothiazid đều là những thuốc thường dùng trong điều trị
tăng huyết áp dù theo những cơ chế tác dụng khác nhau. Nifedipin làm giãn mạch
máu, chủ yếu làm giãn động mạch, dẫn đến làm giảm sức cản ngoại vi nên hạ
huyết áp. Gần đây, người ta thấy thuốc còn làm tăng lưu lượng máu tới thận, tăng
sức lọc cầu thận nên lợi niệu, góp phần làm hạ huyết áp. Cho tới nay, nifedipin
được coi là một trong những thuốc điều trị tăng huyết áp an toàn và hiệu quả.
Thuốc có ưu điểm: làm giãn mạch nhiều; không làm ảnh hưởng đến dẫn truyền
thần kinh tim; cải thiện được chức năng thận do tăng lượng máu vào thận, không
làm ứ muối và nước; không ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và lipid. Tác dụng
không mong muốn của thuốc là gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, đầy bụng, tiêu
chảy); tăng enzym gan, tăng sản lợi, đau cơ, rối loạn thị giác. Không dùng thuốc
trong trường hợp mẫn cảm, thận trọng trong suy gan, người mang thai và thời kỳ
cho con bú. Hypothiazid là một thuốc lợi niệu do làm tăng thải trừ muối. Thuốc
làm giảm huyết áp thông qua việc giảm thể tích huyết tương dẫn đến giảm cung
lượng tim; ngoài ra thuốc còn ức chế tại chỗ tác dụng của chất co mạch như
vasopressin, nor-adrenalin. Trong điều trị tăng huyết áp, thuốc lợi niệu được phối
hợp với thuốc hạ huyết áp, làm tăng tác dụng của thuốc hạ huyết áp. Hypothiazid
thuộc nhóm thuốc được sử dụng nhiều nhất và hiệu quả nhất trong các thuốc lợi
niệu để điều trị tăng huyết áp nhẹ và trung bình khi tim, thận bình thường; là thuốc
thường được lựa chọn cho người cao tuổi. Tuy nhiên, trường hợp bố bạn thì không
nên sử dụng hypothiazid do hypothiazid làm giảm bài tiết acid uric qua ống thận,
gây tăng acid uric máu nên làm cho bệnh gout nặng thêm. Vì vậy, bạn cần đưa bố
đi gặp bác sĩ chuyên khoa để được khám và cho phác đồ điều trị hợp lý, không tự
ý sử dụng thuốc vì sẽ gây nguy hiểm cho sức khỏe và cả tính mạng.
Hạ thân nhiệt
Lâu nay chúng ta mới chỉ quan tâm đến vấn đề tăng thân nhiệt (sốt) và các
biện pháp dự phòng điều trị tăng thân nhiệt. Tuy nhiên khi thời tiết ngày một lạnh
hơn, bạn bắt đầu mất nhiệt nhiều hơn lượng nhiệt cơ thể sản sinh. Giá lạnh kéo dài
sẽ dẫn đến việc cơ thể phải sử dụng năng lượng dự trữ. Và hậu quả là bạn bị mất
dần thân nhiệt. Thân nhiệt quá thấp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới não khiến
người bệnh khó có thể suy nghĩ và di chuyển. Điều này khiến bệnh giảm thân
nhiệt trở nên nguy hiểm bởi người bệnh sẽ có thể không biết được điều gì đang
diễn ra xung quanh và không thể làm bất cứ việc gì Trong phạm vi bài viết này
chỉ đề cập đến hạ thân nhiệt bị động và các hậu quả xấu có thể xảy ra do hạ thân
nhiệt
Hạ thân nhiệt là gì?
Được gọi là hạ thân nhiệt khi nhiệt độ trung tâm dưới 35oC (đo ở trực
tràng). Hạ nhiệt độ trung bình khi nhiệt độ từ 35-32oC, nặng 32-28oC, rất nặng
khi nhiệt độ dưới 27oC. Khi nghi ngờ hạ thân nhiệt, nhất thiết rằng các nhiệt kế
phải có khả năng đo nhiệt độ trung tâm một cách chính xác. Nhiều nhiệt kế có giới
hạn dưới ở mức 35oC. Nhiệt độ đo ở trực tràng là chuẩn, mặc dầu có thể chậm so
với nhiệt độ trung tâm. Lý tưởng là ống nhiệt nên được đưa vào trong trực tràng
15cm và không nên đặt trong phân lạnh.
Hạ thân nhiệt bất ngờ nguyên phát (primary accidental hypothermia) là do
tiếp xúc trực tiếp với lạnh.
Hạ thân nhiệt thứ phát (secondary hypothermia) là một biến chứng tự nhiên
của nhiều rối loạn toàn thân, gồm có nhiễm khuẩn, phẫu thuật tim, bệnh lý rối loạn
chuyển hóa (suy giáp, suy tuyến yên), do cơ địa (trẻ nhỏ, người già không thích
nghi được khi thay đổi thời tiết), do ngộ độc: gardenal, rượu, thuốc chống trầm
cảm, heroin, ethylen glycol ), do tai nạn: đuối nước, leo núi Tỷ lệ tử vong của
hạ nhiệt thứ phát cao hơn.
Biểu hiện của hạ thân nhiệt
Da và cơ: Khi thân nhiệt giảm ít: rét run toàn thân, da lạnh, tím. Khi nhiệt
độ dưới 32oC, không còn tình trạng rét run, thay thế bằng tình trạng cứng cơ và
phù dưới da.
Thần kinh: u ám, rối loạn định hướng, đôi khi có kích thích vật vã. Dưới
28oC dẫn đến hôn mê sâu, ngừng thở kéo dài. Phản xạ gân xương tăng; Đồng tử
giãn, mất phản xạ đồng tử với ánh sáng và phản xạ giác mạc khi thân nhiệt dưới
26oC.
Hô hấp: rối loạn hô hấp rất thường gặp. Triệu chứng thay đổi nhưng
thường gặp giảm thông khí phế nang, thở chậm sâu, có thể gặp phù phổi cấp.
Tim mạch: Vẫn giữ được nhịp xoang khi nhiệt độ giảm đến 31oC, sau đó
nhịp chậm dần đến khi không bắt được khi thân nhiệt < hoặc bằng 30oC.
Điện tim: Có thể gặp mọi loạn nhịp, nhịp chậm xoang, nhịp bộ nối, nhịp
thất (QRS giãn rộng, có sóng J, ST chênh lên, T đảo ngược ở các chuyển đạo trước
tim, QT kéo dài); Khi thân nhiệt dưới 28oC, rung thất trơ với sốc điện.
Xử trí
Đưa nạn nhân ra khỏi nơi lạnh. Điều trị gồm hai phần chính là sưởi ấm và
điều trị triệu chứng.
Có nhiều biện pháp để làm tăng thân nhiệt, tuy nhiên cần phải làm tăng
thân nhiệt từ từ, cho vào phòng có nhiệt độ khoảng 22- 23oC, làm tăng nhiệt độ
trung tâm từ từ 0,1-0,7oC/h, được coi là có hiệu quả khi nhiệt độ tăng lên 0,5oC/h.
Nếu nhiệt độ trung tâm dưới 30oC thì biện pháp này không hiệu quả.
Sưởi ấm từ bên ngoài: như dùng chăn, lò sưởi, túi chườm nóng làm tăng
thân nhiệt 4-7oC/h. Không được sưởi nóng bằng cho vào bồn tắm vì gây ra tình
trạng bỏng da và gây giãn mạch mạnh, gây tụt huyết áp đột ngột. Nên sưởi ấm
thân, đầu, để hở tay và chân với mục đích ưu tiên sưởi ấm các tạng quan trọng
trước như tim, não, thận, gan.
Sưởi ấm từ bên trong: cho phép làm tăng nhiệt độ của các tạng quan trọng
đặc biệt là tim. Tim hoạt động trở lại sẽ đáp ứng được nhu cầu tuần hoàn tăng lên
trong quá trình làm tăng thân nhiệt. Phương pháp này được dùng cho trường hợp
rung thất hoặc ngừng tim với dạng vô tâm thu bằng cách tuần hoàn ngoài cơ thể
hoặc thận nhân tạo để tăng thân nhiệt lên 15oC/h. Khi không thể thực hiện được
biện pháp này, có thể dùng truyền dịch ấm khoảng 39-40oC, sưởi ấm khí thở vào,
để nhiệt độ phòng là 40oC, hoặc lọc màng bụng với dịch nóng từ 40-42oC, rửa dạ
dày bằng nước ấm sau khi đặt nội khí quản, thở máy. Trường hợp nặng vừa tiến
hành ép tim, vừa đặt nội khí quản, đồng thời với tuần hoàn ngoài cơ thể.
Chú ý:
Thân nhiệt trên 33oC: dùng các biện pháp ủ ấm thông thường là đủ.
Từ 28-33oC: chỉ định phương pháp ủ ấm dựa vào nhiệt độ cơ thể, tuổi, thời
gian bị nhiễm lạnh.
Dưới 28oC: tuần hoàn ngoài cơ thể, thay thế thận hoặc lọc màng bụng.
Hai biến chứng thường gặp trong quá trình làm tăng thân nhiệt:
Nhịp chậm và suy tim trái cấp không hồi phục dẫn đến ngừng tim ở thì vô
tâm thu khi nâng thân nhiệt đến 32-34oC.
Rung thất khi nâng nhiệt độ từ 28-34oC gây ra ngừng tim khi nhiệt độ cơ
tim còn quá thấp.
Ngoài các biện pháp làm tăng thân nhiệt, việc tìm ra nguyên nhân và điều
trị nguyên nhân cũng như điều trị triệu chứng (trong điều kiện có thể) sẽ góp phần
quan trọng giảm thiểu các biến chứng xấu có thể xảy ra.
Đau thượng vị, dùng thuốc nào?
Tôi 30 tuổi, trong dịp Tết do uống bia rượu nhiều nên tôi thấy đau bụng
vùng thượng vị. Tôi đã đi khám, nội soi dạ dày. Bác sĩ bảo tôi bị viêm dạ dày, trào
ngược dịch mật và cho tôi uống thuốc, trong đó có thuốc trymo ngày uống 4 viên
chia hai lần. Nhưng tôi đi mua thuốc lại không có trymo, cô bán thuốc khuyên tôi
đổi sang dùng sucralfat. Tôi xin hỏi dùng như vậy có được không? Xin cảm ơn!
Quang Lý (Hà Nội)
Hiện nay trong điều trị bệnh lý
viêm loét dạ dày tá tràng có sử dụng
nhóm thuốc băng se niêm mạc dạ dày,
tác dụng chung của nhóm thuốc này là
băng se niêm mạc dạ dày, chống lại sự
khuếch tán ngược của ion H+, do đó làm
nhanh chóng liền tổn thương. Có hai
thuốc hay được sử dụng, tùy từng
trường hợp cụ thể, đó là: sucralfat và bismuth dạng keo (biệt dược: trymo).
Sucralfat: là một muối hydroxit đa phân tử nhôm, phức hợp của aluminium
sachrose sulfat. Sucralfat trở nên có cực cao ở pH acid, nó gắn vào protein ở mặt
trong của ổ loét tới 12 giờ (tổ chức mô hạt của ổ loét, trong khi đó lại gắn rất ít vào
phần niêm mạc nguyên vẹn) ngăn chặn H+ khuếch tán ngược vào niêm mạc ổ loét
ngoài ra nó cũng hút ẩm và làm bất hoạt pepsin, các muối mật. Sucralfat còn có
thể làm tăng prostaglandin mô nội sinh từ đó làm tăng sức đề kháng niêm mạc. Do
đó sucralfat được sử dụng rất tốt trong các trường hợp trào ngược dịch mật.
Sucralfat hấp thụ vào máu rất ít, dưới 5% xuất hiện trong nước tiểu. Tuy nhiên
trong thành phần có nhiều muối nhôm nên có thể gây táo bón, giảm hấp thu
tetracycline, phenytonin và không dùng cho người suy thận nặng.
Bismuth dạng keo
Từ khi phát hiện bismuth có thêm khả năng diệt Helicobacter Pylori theo cơ
chế gây đông vón trực tiếp protein của vi khuẩn này người ta tái sử dụng bismuth
để điều trị loét tiêu hoá dưới các dạng keo hữu cơ, các hợp chất bismuth này có
kích thước phân tử lượng lớn, hấp thụ vào máu ít, an toàn khi sử dụng liều ngắn
hạn, phân có màu sẫm hoặc đen là bình thường.
Tác dụng là băng se niêm mạc, ngăn cản sự tác động của dịch vị vào ổ loét,
thuốc còn làm tăng bicarbonat tá tràng, kích thích tăng sản xuất và hoạt động của
prostaglandin, tăng tiết nhày do đó làm củng cố thêm hàng rào niêm mạc.
Như vậy trong trường hợp của bạn có thể thay thế trymo bằng sucralfat, tuy
nhiên cần có ý kiến của bác sĩ về liều lượng và thời gian sử dụng.
Chữa tàn nhang thế nào?
Em năm nay 16 tuổi, trên mặt có những nốt tàn nhang trông rất xấu. Không
những thế, càng ngày những nốt này lại càng xuất hiện nhiều hơn. Xin bác sĩ chỉ
giùm em cách chữa?
Trịnh Tố Loan(Bắc Giang)
Tàn nhang là một trong những bệnh da hay gặp, lành tính, tuy nhiên phần
nào ảnh hưởng đến thẩm mỹ, nhất là phụ nữ. Bệnh có yếu tố di truyền. Các gen
bệnh tác động đến tế bào sắc tố ở một số vùng da, nhất là vùng da hở, nơi phải
thường xuyên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời làm cho các tế bào sắc tố ở vùng này
tăng cường sản sinh ra các hạt melanin, mặc dù hình ảnh mô bệnh học số lượng tế
bào sắc tố hoàn toàn bình thường. Chính vì thế, trên da xuất hiện các vết sắc tố
màu nâu hoặc cà phê sữa, các đám sắc tố này rải rác, kích thước thường nhỏ hơn
0,5cm đường kính.
Bệnh khởi phát rất sớm,
thường xuất hiện trước 3 tuổi
nhưng đến tuổi dậy thì bệnh có xu hướng phát triển nặng hơn. Bệnh có thể gặp ở
cả hai giới nhưng nam hay gặp hơn nữ. Các đốm da tăng sắc tố có xu hướng đậm
hơn về mùa xuân hè, nhạt màu hơn về mùa thu đông. Trong một số trường hợp,
tàn nhang xuất hiện ở vùng nách, có thể gặp trong bệnh u xơ thần kinh, bệnh lão
hóa sớm hay hội chứng Moyna
Để có thể điều trị bệnh, trước hết phải chẩn đoán chính xác. Chẩn đoán xác
định dễ dàng và hoàn toàn dựa vào triệu chứng lâm sàng trên da là các đốm, dát
tăng sắc tố như mô tả ở trên cùng với tiền sử gia đình có người bị bệnh này.
Điều trị và phòng bệnh: cho đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Tuy
nhiên, bôi một số thuốc có tác dụng làm giảm sắc tố da như hydroquinon, acid
azeleic vitamin A acid và kem chống nắng cũng cho kết quả khả quan. Có thể sử
dụng bôi đơn thuần hoặc phối hợp. Tuy vậy, nếu không bôi và tiếp tục ra nắng, các
dát tăng sắc tố lại xuất hiện trở lại và ngày một tăng đậm hơn. Vì vậy, phòng bệnh
tuy không ngăn được bệnh nhưng cũng có tác dụng làm bệnh giảm như khi ra
ngoài nắng nên đội mũ rộng vành, đeo kính râm, che mặt, mặc áo dài tay, không
hở cổ và trước khi ra ngoài trời 30 phút nên thoa một loại kem chống nắng. Ngoài
ra, em có thể bôi các loại kem mỹ phẩm lên chỗ da bị bệnh để có cùng màu sắc với
da thường, nên chọn công việc mà ít phải ra ngoài trời cũng được các bác sĩ
khuyến cáo.