Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TIỂU LUẬN MÔN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT Đề tài Anh (Chị) hãy phân tích sự tác động của dư luận xã hội đến hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, cho ví dụ cụ thể (Bài làm có ít nhất 5 điều luật của 5 văn bản pháp luật được trích dẫn).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.3 KB, 10 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TIỂU LUẬN MÔN
XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Đề tài:
Anh (Chị) hãy phân tích sự tác động của dư luận xã hội đến hoạt động xây
dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, cho ví dụ cụ thể (Bài làm có ít nhất 5 điều
luật của 5 văn bản pháp luật được trích dẫn).
Họ và tên: Hà Huy Hoàng.
Ngày tháng năm sinh: 10/06/2002.
MSSV: 453724.
Lớp: 37A.
Ngành: Luật.
Ngày thực hiện: 07/12/2021.

3


MỤC LỤC
1. Phần mở đầu
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
1.2 Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2. Phần nội dung
2.1 Dư luận xã hội
2.2 Hoạt động xây dựng pháp luật
2.3 Sự tác động của dư luận xã hội đến hoạt động xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay, ví dụ cụ thể.
3. Phần kết luận.



1.Phần mở đầu
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Dư luận xã hội và hoạt động xây dựng pháp luật là hai hiện tượng xa hội khác nhau nhưng
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ. Dư luận xã hội góp phần hoàn thiện việc xây dựng
pháp luật, đồng thời việc xây dựng pháp luật cũng phản ánh dư luận xã hội. Nhà nước sử
dụng pháp luật làm công cụ để quản lí xã hội nhưng mỗi một bộ luật ra đời đều được dư
luận xã hội kiểm chứng. Nếu dư luận xã hội tán thành, chắc chắn việc thực hiện pháp luật
sẽ hiệu quả. Nếu dư luận xã hội không tán thành, nhà nước sẽ phải nghiên cứu để điều
chỉnh cho phù hợp.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay,
việc tiếp tục tìm kiếm những mơ hình mới nhắm phát huy vai trò của quần chúng nhân
dân và các tổ chức xã hội thông qua dư luận xã hội đối với q trình xây dựng pháp luật,
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước là một yêu cầu cấp bách về cả lý luận và thực
tiễn. Phát huy vai trò của dư luận xã hội đối với việc xây dựng pháp luật là một trong
những việc làm đáp ứng được địi hỏi đó.
1.2 Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích: Là nghiên cứu làm rõ hơn vai trị của dư luận xã hội và thực trạng của hoạt
động này trong hoạt động xây dựng pháp luật, đồng thời nêu ra những giải pháp nhằm
phát huy hơn nữa vai trò của dư luận xã hội với hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phạm vi nghiên cứu: Sự tác động của dư luận xã hội đến hoạt động xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay là một đề tài rộng. Vì thế khi thực hiện, trên cơ sở lí luận về dư luận xã
hội, hoạt động xây dung pháp luật ở Việt Nam hiện nay và dựa trên thực trạng vấn đề, chủ
yếu tập trung vào tìm hiểu những tác động của dư luận xã hội với hoạt động xây dựng
pháp luật ở Việt Nam. Từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của dư
luận xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật.
2.Phần nội dung
2.1 Dư luận xã hội
Thuật ngữ dư luận xã hội được hình thành từ rất sớm nhưng phải đến thế kỉ 12 nó mới
được sử dụng lần đầu tiên bởi một nhà văn người Anh tên là J.Solsbery. Trong tiếng Anh,

thuật ngữ này được ghép bởi hai từ: Public (công khai, công chúng) và Opinion (ý kiến,
quan điểm). Trong tiếng Việt, thuật ngữ “dư luận xã hội” còn được gọi theo những các
khác như công luận hay dư luận công chúng
1


Dư luận xã hội là một dạng đặc biệt của ý thức xã hội, được biểu hiện bằng chính kiến cụ
thể thuộc một nhóm đơng người hoặc tập thể tầng lớp, giai cấp, nhiều khi là cả một cộng
đồng (địa phương, cả nước, khu vực, cộng đồng thế giới,…) đối với những vấn đề mà họ
quan tâm. Dư luận xã hội là sự biểu hiện trạng thái ý thức xã hội của một cộng đồng
người nào đó, là sự phán xét, đánh giá của đại đa số trong cộng đồng người đối với các sự
kiện, hiện tượng, quá trình xã hội có liên quan đến như cầu, lợi ích của họ trong một thời
điểm nhất định; Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự
kiện, hiện tượng có tính thời sự.
2.2 Hoạt động xây dựng pháp luật
Có rất nhiều các quan niệm, cách hiểu khác nhau về xây dựng pháp luật. Theo nghĩa hẹp:
Xây dựng pháp luật chỉ bao gồm các công việc ban hành, thông qua văn bản quy phạm
pháp luật. Theo nghĩa rộng: Xây dựng văn bản pháp luật bao gồm rất nhiều các hoạt động
từ chuẩn bị, soạn thảo dự án văn bản quy phạm pháp luật đến các khâu tiếp theo… Quan
điểm được thừa nhận chung là quan điểm xây dựng pháp luật theo nghĩa rộng. Vì thực tế
để có thể có được một văn bản quy phạm pháp luật, cần phải trải qua một quá trình khó
khăn phức tạp với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, nhiều công đoạn khác nhau.
Một đinh nghĩa đã được xem là phổ biến về xây dựng pháp luật như sau:
Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức đặc biệt quan trọng, cơ bản nhất của
hoạt động nhà nước, nhằm ban hành, sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ các quy phạm pháp
luật, được thực hiện trên cơ sở nhận thức các nhu cầu khách quan của xã hội, các lợi ích
xã hội. Xây dựng pháp luật được thực hiện theo những nguyên tắc, trình tự và thủ tục
pháp lí nhất định nhằm đưa ý chí nhà nước của nhân dân lên thành các quy phạm pháp
luật.
2.3 Sự tác động của dư luận xã hội đến hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện

nay, ví dụ cụ thể.
* Mối quan hệ của dư luận xã hội đến hoạt động xây dựng pháp luật:
Dư luận xã hội và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau nhưng giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ. Điều này được thể hiện ở chỗ dư luận xã hội góp phần hồn thiện việc
xây dựng pháp luật. Với tư cách là một hiện tượng xã hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại
xã hội nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lí xảy ra trong đời
sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong xã hội về các sự kiện,
hiện tượng pháp lý đưa tới kết quả là họ đạt tới sự nhận thức chung, thống nhất trong các
phán xét, đánh giá về sự việc, sự kiện pháp lý. Trên cơ sở của sự phán xét, đánh giá về các
2


sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong đời sống xã hội, dư luận làm nảy sinh trong
nhận thức của con người những khái niệm cơ sở, mang tính bề ngồi, ngẫu nhiên và sau
đó là những tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của các hiện tượng pháp lý. Từ đó hình
thành những quan niệm, quan điểm, tư tưởng phản ánh những vấn đề có liên quan đến
pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã hội.
Lấy ví dụ, xuất phát từ hiện tượng kết hôn đồng giới trong xã hội ngày càng nhiều mà dư
luận xã hội thay đổi từ phản đối sang cảm thông. Lúc đầu người ta cho rằng việc kết hôn
đồng giới là trái thuần phong, mĩ tục của người Việt. Nhưng dù được thừa nhận hay
khơng thì những người đồng giới vẫn cứ kết hơn với nhau. Sau khi có nhiều cuộc kết hơn
đồng giới xảy ra thì các cặp đơi này khơng những không sợ dư luận mà ngược lại, họ kết
hôn cơng khai, thậm chí cịn tổ chức một cách hồnh tráng. Dư luận xã hội nhận thấy
rằng, dù xã hội khơng muốn tình trạng này diễn ra nhưng thực tế vẫn có một bộ phận
người đồng giới trong xã hội và họ có quyền được chứng minh nhân thân, quyền được
hưởng hạnh phúc cá nhân, hưởng phúc lợi của xã hội cũng như làm trịn nghĩa vụ cơng
dân với xã hội. Vì vậy, dư luận xã hội thơng cảm với họ, các diễn đàn dành cho người
đồng tính hoạt động cơng khai, nhiều chương trình truyền hình về người đồng tính phát
song … Trước hiện tượng kết hơn đồng giới tính trong xã hội ngày càng nhiều và dư luận
xã hội ngày càng bảo vệ quyền lợi cho người đồng tính, Bộ Tư pháp đã hợp với các bộ

ngành hữu quan về việc dự thảo, góp ý, sửa đổi Luật Hơn nhân và Gia đình trong đó có đề
xuất việc kết hôn đồng giới. Trước đây, nếu theo Luật hôn nhân và gia đình 2000 thì việc
kết hơn giữa những người đồng giới bị “cấm”. Từ 1/1/2015, Luật Hôn nhân và gia đình
sửa đổi năm 2014 có hiệu lực Quốc hội đã bỏ điều cấm này và thay bằng điều 8, khoản 2
là: “ Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Mặc dù Luật
Hơn nhân và Gia đình năm 2000 cấm kết hơn đồng giới, Luật Hơn nhân và Gia đình sửa
đổi năm 2014, bỏ quy định "cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" từ ngày 1
tháng 1 năm 2015. Tuy nhiên, Luật 2014 vẫn quy định "không thừa nhận hôn nhân giữa
những người cùng giới tính" (khoản 2 Điều 8). Theo báo Tuổi Trẻ, những người đồng giới
tính vẫn có thể chung sống, nhưng pháp luật sẽ không xử lý khi giữa họ có tranh chấp xảy
ra.
Khơng thừa nhận có nghĩa rằng pháp luật không cho phép người đồng giới đăng kí kết
hơn tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay được coi như vợ - chồng với các quyền
và nghĩa vụ tương ứng.

3


Như vậy, theo quy định trên thì hơn nhân đồng tính khơng cịn bị cấm. Người đồng tính
có thể tổ chức hôn lễ, chung sống với nhau nhưng dưới con mắt pháp luật thì khơng được
coi như vợ chồng và khơng thể đăng kí kết hơn với cơ quan nhà nước.
Đây là kết quả của quá trình vận động và thảo luận xã hội trong suốt những năm qua, dẫn
đến việc các nhà làm luật đã nhìn nhận tích cực hơn về quyền kết hơn, bình đẳng của
người đồng tính và các cặp đơi cùng giới.
Bên cạnh đó, theo Điều 8 Nghị định 87/2011/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hơn nhân và gia đình đã hết hiệu lực thì: “ Phạt tiền 100.000 – 500.000 đồng với
hành vi kết hơn giữa những người cùng giới tính”.
Hiện nay, theo Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực Bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, Hơn nhân gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì Điều 48 “Hành vi vi phạm

quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; vi phạm quy định
về ly hơn” có quy định về những hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế
độ hôn nhân một vợ, một chồng (mức phạt từ 1 triệu đồng đến 3 triệu đồng) thì hành vi
“kết hơn giữa những người cùng giới tính” đã được bãi bỏ.
Ngồi các vấn đề hơn nhân thì dư luận cũng đã xôn xào trong thời gian dài về việc quyết
định sát nhập Hà Tây vào Hà Nội (cũ) vào năm 2008. Rất nhiều người tán thành với đề
xuất này của Bộ xây dựng bởi họ cho rằng Hà Nội (cũ) có diện tích quá hẹp, việc mở rộng
Hà Nội sẽ tạo được khơng gian phóa tây thủ đơ có mơi trường cảnh quan đẹp, rộng rãi,
điều kiện địa hình, địa chất phù hợp cho việc phát triển các dự án tầm cỡ quốc gia, quốc tế
như: Khu Cơng nghệ cao Hịa Lạc, Khu Đại học Quốc gia, Làng Văn hóa các dân tộc Việt
Nam, các khu đô thị mới… Đặc biệt, tại đây có thể lựa chọn để phát triển Trung tâm
Chính trị - Hành chính quốc gia mới. Tuy nhiên dư luận cũng xuất hiện những ý kiến trái
chiều với tỷ lệ cao tương đương với ý kiến tán thành, họ là những người Hà Tây không
muốn mất đi cái tên của nơi chôn rau cắt rốn, không muốn mất đi một Hà Tây quê lụa vốn
để lại bao nhiêu xúc cảm cho người dân trong nước cũng như bạn bè quốc tế; và họ là
những người không tin tưởng vào việc mở rộng địa giới Hà Nội sẽ làm Hà Tây có một
bước phát triển vượt bậc. Nhưng để nước ta ngày càng phát triển thì Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết 15/2008/QH12, tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 15/2008QH12 “Hợp nhất
tồn bộ diện tích tự nhiên là 219.341,11 ha và dân số hiện tại là 2.568.007 người của tỉnh
Hà Tây vào thành phố Hà Nội”.

4


“Đề cập đến hiệu quả trong việc sáp nhập đơn vị hành chính, Trưởng ban Tổ chức Trung
ương lấy dẫn chứng việc sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội. “Lúc bàn thì khó khăn vơ cùng,
với rất nhiều băn khoăn, lo lắng. Ví như sáp nhập vào rồi thì truyền thống văn hóa, lịch
sử, kinh phí, đặc biệt là cơng tác cán bộ sẽ ra sao? Sáp nhập phòng đã khó vì hai ơng
trưởng phịng nay chỉ cịn chọn một ơng. Sáp nhập cấp tỉnh cịn khó khăn gấp bội vì cũng
là Uỷ viên Trung ương...”.

Nhưng đồng chí Phạm Minh Chính cũng đánh giá, là “đúng đắn, thành cơng, hiệu quả”,
mở ra khơng gian cho sự phát triển. Mọi khó khăn lúc đầu đặt ra đến nay cũng đều được
giải quyết.
“Sáp nhập tỉnh lớn như vậy còn làm được, vậy xã, phường sao không làm được? Sáp nhập
được là giảm ngay đội ngũ”, đồng chí Phạm Minh Chính nhấn mạnh và khẳng định, Hà
Tây sáp nhập vào Hà Nội là bài học thành cơng sống động, cho thấy khó mấy cũng làm
được nếu điều đó là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn xã hội.”
Một vấn đề nổi cộm được dư luận xã hội bàn tán nhiều: Sau làn song đình cơng phản đối
mạnh mẽ trong quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 thì cơng nhân nghỉ việc,
một thời gian sau có thể nhận sổ bảo hiểm để lãnh tiền trợ cấp một lần. Tuy nhiên, với
quy định mới này, những công nhân nghỉ việc phải chờ đến tuổi nghỉ hưu, tức 55 tuổi đối
với nữ và 60 tuổi đối với nam mới được nhận số tiền bảo hiểm xã hội mà hàng tháng họ
vẫn phải đều đặn đóng hơn 300 ngàn đồng, chính vì lý do này, hàng loạt cơng nhân các
nhà máy, xí nghiệp đã nghỉ làm để đình cơng phản đối quy định trên, tiêu biểu nhất phải
kể đến vụ việc gần 90.000 công nhân Cơng ty TNHH PouYuen Việt Nam đã đình cơng
phản đối các quy định tại Điều 60, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 mà Luật này vừa được
Quốc hội thơng qua ngày 20/11/2014. Một số cơng nhân trình bày rằng, Luật Bảo hiểm xã
hội mới sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2016, đồng nghĩa việc CN sẽ không được
nhận trợ cấp Bảo Hiểm xã hội một lần nữa. “Với mức lương 3.482.000 đồng/tháng, mỗi
tháng, tơi trích gần 380.000 đồng đóng BHXH. Nếu tơi làm chừng 10 năm nữa, khi tơi 40
tuổi, sức tơi khơng cịn, tơi muốn lấy tiền BHXH 1 lần về quê làm vốn bán tạp hóa nhưng
tơi phải đợi 15 năm nữa mới được hưởng BHXH. Trong 15 năm đó tơi sống bằng gì để
đợi”. Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 của giai cấp công nhân, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn Lao Động Việt Nam, Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh đã kiến nghị việc sửa đổi Luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn và
nguyện vọng của cơng nhân. Bắt kịp với xu hướng hiện nay và đảm bảo cho cuộc sống
nhân dân Ngày 06/11/2021, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái ký ban hành Quyết định
5



33/2021/QĐ-TTg sửa đổi Quyết định 23/2021/QĐ-TTg quy định về thực hiện một số
chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch
COVID-19.
Chúng ta biết dư luận xã hội là một hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội từ góc nhìn lợi ích của xã hội nói chung, của mỗi tầng lớp xã hội hay
nhóm xã hội nói riêng. Chính vì vậy, khi phản ánh thực tế xã hội, sự phản ánh đó về cơ
bản là đúng nhưng cũng có những trường hợp sự phản ánh đó là sai thực tế ( có thể sai
nhiều hoặc sai ít), Điều này đã gây khơng ít khó khăn cho q trình xây dựng các chính
sách pháp luật phù hợp với u cầu thực tế. Vì lí do đó, bên cạnh những đóng góp tích
cực như đã phân tích ở trên thì dư luận xã hội cịn bộc lộ những hạn chế đối với việc xây
dựng pháp luật, cụ thể như sau:
+ Tâm lý e ngại va chạm khiến công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực chưa mạnh
mẽ, rộng khắp trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là các cơ quan doanh nghiệp
+ Trong việc thực hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra thì việc tạo
điều kiện để dân giám sát, kiểm tra còn yếu, cơ chế cho việc kiểm tra chưa rõ.
+ Tâm lý tuyệt đối hóa vai trị của Nhà nước khiến một bộ phận khơng nhỏ người dân đã
tỏ ra thờ ơ, không quan tâm đến việc đóng góp ý kiến khi Nhà nước tổ chức lấy ý kiến
hoặc có thể miễng cưỡng làm theo.
+ Cơng tác xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể nhân dân chưa được coi
trọng thường xuyên, đấu tranh phê bình và tự phê bình, thực hiên dân chủ cơng khai ở
một số nơi cịn hạn chế; tình trạng quan liêu, mất dân chủ ở một số cơ quan, đơn vị xã
phường chậm được khắc phục sửa chữa.
*Các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành, phát triển, tác động của
dư luận xã hội đến hoạt động xây dựng pháp luật.
+ Thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
+ Phát huy và mở rộng nền dân chủ xã hội.
+ Tạo lập bầu không khí tâm lý xã hội lành mạnh.
+ Đảm bảo sự an toàn cho chủ thể của dư luận xã hội khi phản ánh các hiện tượng tiêu
cực, vi phạm pháp luật.
+ Cải thiện phương pháp, cách thức phổ biến giáo dục, pháp luật.

+ Phát huy vai trị của truyền thơng đại chúng.
+ Tổ chức điều tra, thăm dò dư luận xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật.
+ Sử dụng các kết quả thăm dò dư luận xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật.
6


3.Phần kết luận.
Đúng với chức năng của mình, ở nước ta, trong thời gian qua, dư luận xã hội đã hỗ trợ
pháp luật từ khâu xây dựng các văn bản pháp luật đến việc nâng cao ý thức pháp luật,
điều chỉnh hành vi con người, duy trì trật tự xã hội … Thực tế, chúng ta đã đạt được
những kết quả đáng ghi nhận từ việc phát huy vai trò của dư luận xã hội trong hoạt động
xây dựng pháp luật, như: dân chủ hóa q trình xây dựng pháp luật, tạo điều kiện để nhân
dân tích cực đóng góp ý kiến về các vấn đề kinh tế, xã hội, chủ động tham gia vào các
hoạt động quản lí nhà nước, xã hội, thanh tra nhân dân và trực tiếp đấu tranh chống tiêu
cực, từng bước nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
Thứ nhất, một dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thơng qua tiếng nói chung của
nhân dân nên đó là điều kiền cần thiết để tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ xã
hội, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động pháp luật
Thứ hai, dư luận xã hội là nguồn tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực với
quá trình xây dựng pháp luật đối với việc ban hành các quyết định của cá nhân nhà chức
trách có thẩm quyền.
Thứ ba, dư luận xã hội khơng mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh to lớn trong
việc định hướng và điều chỉnh hành vi hoạt động của các thành viên trong xã hội trong
hoạt động xây dựng pháp luật.
Bối cảnh tồn cầu hóa đang dần làm cho những sự kiện, vấn đề của thế giới thành những
vấn đề của Việt Nam. Đây cũng là những vấn đề dư luận xã hội nước ta đặc biệt quan
tâm. Để hội nhập và phát triển, chúng ta cần phát huy hơn nữa sức mạnh của dư luận xã
hội không chỉ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật mà còn trên nhiều các mặt hoạt động của
đời sống xã hội.


7


TRÍCH DẪN LUẬT
1. Giáo trình mơn Xã hội học pháp luật; Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
3. Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014
4. Nghị định 87/2011/NĐ-CP
5. Nghị định 110/2013/NĐ-CP

6. Nghị quyết 15/2008/QH12
7. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014

8. Quyết định 33/2021/QĐ-TTg

8



×