Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Khái quát đường lối xây dựng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phân tích và bàn luận về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.14 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TIỂU LUẬN / BÀI TẬP LỚN
Học phần: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sinh viên: NGUYỄN MINH NGỌC
Mã sinh viên: 19040154
Lớp học phần: HIS1002 1
Lớp, trường: 18E5, Sư phạm Tiếng Anh, Đại học Ngoại ngữ

Hà Nội – 12/2021


ĐỀ BÀI / CHỦ ĐỀ
D04: Khái quát đường lối xây dựng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Phân tích và bàn luận về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Làm rõ vấn đề
cốt lõi trong việc tiếp tục đổi mới cấu trúc và phương pháp hoạt động của hệ thống
chính trị Việt Nam đương đại.


MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
TỔNG QUAN / TÓM TẮT ......................................................................................2
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................3
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ............................................................................................4
I. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam ........ 4
1. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ trước đổi mới (1945-1985) ..4
2. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới .................................7
II. Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay ........................................................ 8
1. Cấu trúc, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay............9
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay ....................................10


3. Những thách thức đặt ra cho hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay ............11
III. Vấn đề cốt lõi của đổi mới cấu trúc và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị Việt Nam đương đại ................................................................. 13
1. Sự cần thiết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện
nay .....................................................................................................................14
2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay .............15
KẾT LUẬN ..............................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


TỔNG QUAN / TÓM TẮT
Tổng số từ: 7217 từ
Tổng số bảng biểu: 0
Tổng số ảnh tư liệu liên quan: 0
Tóm tắt nội dung tiểu luận / bài tập lớn: Bài tiểu luận khái quát về đường lối xây
dựng hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời phân tích, bàn luận về những đặc
trưng, thách thức đặt ra đối với hệ thống và làm rõ vấn đề cốt lõi của đổi mới
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta hiện nay. Trước hết, hệ thống
chính trị Việt Nam chính thức được đặt nền móng từ sau thành cơng của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 với hình thức hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (19451954). Sau khi đánh đuổi thành công thực dân Pháp năm 1954, hệ thống dân chủ
nhân dân ở miền Bắc bắt đầu thực hiện nhiệm vụ tối cao của chun chính vơ sản.
Đến tháng 4 năm 1975, hệ thống chun chính vơ sản mở rộng sang phạm vi cả
nước, gắn liền với xây dựng chế độ chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn
này, đất nước ta rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến chủ trương đổi mới
toàn diện đất nước ở Đại hội VI (1986), với những đổi mới tư duy chính trị quan
trọng để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền. Hiện nay, hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm 3 thành tố chính: Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị - xã hội khác. Mỗi bộ phận có chức năng,

nhiệm vụ riêng, song đều thống nhất hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và theo
cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Mặc dù hệ thống
chính trị Việt Nam đã đưa nước ta đạt được những thành quả quan trọng, nâng cao
vị thế đất nước, song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập làm giảm hiệu lực hoạt động
của cả hệ thống chính trị. Đối mặt với những thách thức đó, việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết do tầm ảnh hưởng lớn đến
với sự vận hành của các q trình chính trị trong tồn bộ hệ thống. Vấn đề này đã
được Đảng thừa nhận và khẳng định qua các Đại hội gần đây và được cụ thể hóa
thành những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể với quyết tâm chính trị cao.
2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Hệ thống chính trị, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, là một chỉnh thể
các đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật nhằm tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội để củng
cố, phát triển xã hội đó và phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền [8],[13]. Các
tổ chức, thiết chế trong hệ thống chính trị có mục đích, chức năng tham gia vào các
quyết định chính trị, thực hiện các chính sách quốc gia. Trong số các bộ phận cấu
thành, ln có một bộ phận giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân, thúc đẩy và dẫn dắt cả hệ
thống chính trị [14].
Hệ thống chính trị Việt Nam là liên minh các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội,
hoạt động trong mối quan hệ biện chứng với nhau, là công cụ để giai cấp công nhân
và nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, đứng đầu lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam [8]. Từ sau
khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa chính thức ra đời vào năm 1945, hệ
thống chính trị của nước ta đã liên tục trải qua nhiều đổi mới và phát triển để phù
hợp với tình hình cách mạng của từng thời kỳ lịch sử. Trong suốt q trình đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn ln giữ vững vai trị là hạt nhân lãnh đạo của hệ
thống chính trị, đảm bảo cho quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động. Cho đến ngày nay, dưới sức ảnh hưởng của tồn cầu hóa và tình
hình thế giới phức tạp, cấu trúc và phương thức vận hành hệ thống chính trị Việt
Nam vẫn không ngừng tự chỉnh đốn và đổi mới nhằm đáp ứng nhanh và kịp thời
những yêu cầu cấp bách của thời đại. Là một công dân Việt Nam, tìm hiểu về hệ
thống chính trị của nước nhà chính là đang đóng góp phần vào tìm hiểu quyền và
lợi ích hợp pháp của bản thân trong xây dựng và quản lý nhà nước và xã hội.
Bài tiểu luận dưới đây sẽ đi vào tìm hiểu sơ lược đường lối xây dựng hệ thống
chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ, đồng thời phân tích, bàn
luận cấu trúc và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, vấn đề cốt lõi trong đổi mới cấu trúc và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị Việt Nam đương đại cũng sẽ được làm rõ.

3


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chương I sẽ khái quát đường lối xây dựng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam qua hai giai đoạn, trước thời kỳ đổi mới (từ năm 1945 đến năm 1985) và
trong thời kỳ đổi mới (sau năm 1986) để làm rõ quá trình hình thành và phát triển
của hệ thống chính trị Việt Nam qua các thời kỳ. Nội dung chính được tham khảo từ
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất bản năm 2016.
1. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ trước đổi mới (1945-1985)
1.1. Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (1945-1954)
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mở
ra một trang sử mới cho nước ta với sự ra đời của một hệ thống chính trị cách mạng,
đánh dấu bằng sự khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Hệ thống
chính trị thời kỳ này có nhiệm vụ thực hiện đường lối cách mạng lúc bấy giờ “Đánh
đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển

chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở cho chủ nghĩa xã hội” [14].
Vào năm 1946, nhân dân Việt Nam lần đầu tiên bỏ phiếu bầu ra cơ quan quyền lực
nhà nước tối cao là Quốc hội. Quốc hội sau đó đã thành lập Chính phủ lâm thời và
ban hành Hiến pháp quy định về thể chế chính trị và nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của bộ máy Nhà nước. Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân từ năm 1945-1954 bao
gồm ba thành tố cơ bản là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, các đảng chính
trị và các tổ chức chính trị - xã hội, vận hành trong khuôn khổ pháp luật [4]. Mặt
trận Liên Việt và nhiều tổ chức quần chúng rộng rãi khác làm việc trên tinh thần tự
nguyện, không nhận tài trợ từ nguồn ngân sách nhà nước nên tránh được hiện tượng
cơng chức hóa, quan liêu hóa. Vai trò lãnh đạo của Đảng (từ tháng 11/1945 đến
tháng 2/1951) được ẩn trong vai trị của Quốc hội, Chính phủ, và của cá nhân Hồ
Chí Minh cũng như các đảng viên trong Chính phủ. Giai đoạn này cũng đã xuất
hiện sự giám sát xã hội dân sự đối với Nhà nước và Đảng, và sự phản biện giữa các
đảng chính trị khác. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần II (2/1951), Đảng Lao động
Việt Nam đứng ra hoạt động công khai để lãnh đạo cuộc kháng chiến [4].
4


1.2.

Hệ thống dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun

chính vơ sản (1954-1975)
Ở giai đoạn này, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Hệ thống chính trị
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa lúc bấy giờ bao gồm hệ thống chun chính vơ
sản ở miền Bắc và hệ thống chính trị cách mạng ở miền Nam [4].
Hệ thống chun chính vơ sản ở miền Bắc Việt Nam được hình thành dựa trên tiền
đề lý luận Mác – Lênin. Theo C. Mác, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tư bản
hoặc tiền tư bản sang xã hội cộng sản là một thời kỳ q độ chính trị, mà khơng thể
là gì khác ngồi nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản. Chiến thắng lịch

sử Điện Biên Phủ năm 1954 của dân tộc ta đã đánh dấu sự bắt đầu của cách mạng
xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân, thực hiện nhiệm vụ tối cao của chun
chính vơ sản ở miền Bắc [14].
Đó cũng là đường lối chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn 1954-1975,
được thể hiện trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III của
Đảng (1960): “Sau khi nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ đã hồn thành, thì
miền Bắc nước ta cần phải tiến ngay vào cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Để thực
hiện mục tiêu ấy, Đảng ta đã xác định “phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân
làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản … biến nước ta thành một nước xã
hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học
tiên tiến” [14].
Ngồi ra, cơ sở chính trị của hệ thống chun chính vơ sản cũng đã manh nha từ
những năm 1930 với sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Tuy Đảng Cộng
sản khơng phải là chính đảng duy nhất ở miền Bắc, song những đảng chính trị khác
đều thừa nhận vai trò lãnh đạo duy nhất và tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam
và đều tham gia vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [14]. Cơ sở kinh tế của hệ thống
chun chính vơ sản lúc bấy giờ là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu,
bao cấp với mục tiêu loại bỏ chế độ tư hữu để thiết lập chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Theo đó, cơ chế thị trường bị triệt tiêu, thay thế bằng cơ
chế quản lý kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp với Nhà nước là chủ thế kinh tế bao
trùm. Những hạn chế của mơ hình kinh tế này được phản ánh ở những Đại hội Đảng

5


tiếp theo, đòi hỏi đổi mới về tư duy và đường lối [14]. Cuối cùng, cơ sở xã hội của
hệ thống chính trị này chính là sự liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức. Kết cấu hai giai cấp và một tầng lớp này chi phối chiến
lược xuyên suốt và lâu dài về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, và mục tiêu mở
rộng dân chủ của toàn bộ hệ thống [14].

Nhìn chung, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị giai đoạn này có nhiều thay đổi
so với giai đoạn trước, đặc biệt là ở việc quyền lực Nhà nước đều nằm trong tay
nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp do chính nhân dân bầu ra. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trị quan trọng trong việc tập hợp lực
lượng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc [4].
1.3. Hệ thống chun chính vơ sản theo tư tưởng làm chủ tập thể (19751985)
Tháng 4 năm 1975, đất nước ta giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, sự
lãnh đạo của Đảng cũng chuyển trọng tâm từ lãnh đạo chiến tranh là chủ yếu sang
lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước [4],[14]. Hệ thống chun chính
vơ sản trong phạm vi nửa nước (1954-1975) được mở rộng sang phạm vi cả nước.
Đại hội IV của Đảng (1976) cũng đã khẳng định, xây dựng hệ thống chun chính
vơ sản ở giai đoạn này phải gắn liền với xây dựng chế độ là chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa [14]. Chủ trương xây dựng hệ thống chun chính vơ sản theo tư tưởng làm
chủ tập thể trước hết được thể hiện bằng việc thể chế hóa bằng pháp luật quyền làm
chủ của nhân dân. Trong đó, Nhà nước ta là một thiết chế chính trị của dân, do dân
và vì dân, là nhà nước chun chính vơ sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn được coi là đầu tàu lãnh đạo toàn bộ hoạt động
xã hội. Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể quần chúng ở cả hai miền lần lượt thống
nhất, hoạt động dưới tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các thành viên trong
Mặt trận đều có nhiệm vụ là tập hợp quần chúng nhân dân, tuyên truyền cho nhân
dân về quyền và nghĩa vụ của mình. Tồn bộ xã hội vận hành theo cơ chế Đảng
lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý [14].

6


Tuy nhiên, đất nước ta trong giai đoạn này gặp rất nhiều khó khăn, thách thức mà
phần lớn nguyên nhân đến từ sự bảo thủ, trì trệ của hệ thống chính trị. Cơ chế quản
lý tập trung quan liêu, bao cấp khiến bộ máy nhà nước hoạt động kém hiệu quả,

quan liêu, xa dân. Đảng chưa phát huy được vai trò và chức năng của Mặt trận trong
việc tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân tham gia vào quản lý kinh tế xã
hội. Nhiều đột phá trong cơ chế kinh tế, văn hóa xã hội bị kiềm chế. Những hạn
chế, sai lầm trên đã thúc đẩy Đảng ta nhanh chóng có sự đổi mới về tư duy và
phương hướng chỉ đạo để chuyển sang hệ thống chính trị trong thời kỳ mới [14].
2. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới
2.1. Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989), Đảng ta đã sử dụng khái niệm “hệ
thống chính trị” thay cho khái niệm cũ “hệ thống chun chính vơ sản” [4]. Sự đổi
mới tư duy chính trị này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện ở nhiều
nhận thức mới của Đảng ta trong các lĩnh vực khác nhau. Đại hội VI của Đảng
(12/1986) đã bàn bạc và thông qua đường lối đổi mới tồn diện đất nước về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại [10]. Trong đó, đổi
mới kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm để đứng dậy sau khủng hoảng, phát
triển kinh tế, tạo tiền đề đổi mới hệ thống chính trị. Đảng xác định, phải đáp ứng
yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [14]. Tiếp đó, tại Hội
nghị Trung ương 2 khóa VII (1991), xây dựng Nhà nước pháp quyền bắt đầu được
đề cập và nhấn mạnh tầm quan trọng ở các Đại hội Đảng tiếp theo. Đại hội IX của
Đảng (4/2001) cũng xác định các giai cấp, tầng lớp trong xã hội có mối quan hệ hợp
tác lâu dài vì sự nghiệp chung của Tổ quốc. Từ đó, khẳng định động lực chủ yếu
phát triển đất nước chính là đại đồn kết tồn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp
công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo. Những nhận thức
trên là cơ sở lý luận quan trọng để làm sáng tỏ bản chất dân chủ của hệ thống chính
trị nước ta và thúc đẩy q trình đổi mới phương thức hoạt động của cả hệ thống
chính trị [14].

7



2.2. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới
Đại hội VI của Đảng đã xác định mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là
để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân [14]. Trước hết là đổi mới kinh tế để tạo tiền đề đổi mới
chính trị. Tuy nhiên, đổi mới chính trị khơng phải tạo ra một hệ thống chính trị mới,
mà là khắc phục những hạn chế, bất cập của hệ thống chính trị hiện tại để phù hợp
hơn với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền [8].
Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị trong giai đoạn mới là đổi mới tổ chức và
phương thức của các bộ phận cấu thành nên hệ thống, trong đó đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và
quyết tâm chính trị cao. Xây dựng và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa được chú trọng để đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Ngoài ra, đổi mới
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cũng được đề cao,
khắc phục tình trạng hành chính hóa, nâng cao hiệu quả của công tác dân vận [14].
Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, chứng minh sự
lãnh đạo, đổi mới đúng đắn của Đảng. Đặc biệt, quyền làm chủ của nhân dân được
bảo đảm trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa. Hệ thống
chính trị được củng cố mạnh mẽ, đảm bảo được ổn định chính trị của đất nước. Đất
nước ta khơng chỉ thốt khỏi khủng hoảng, mà vị thế trên trường quốc tế còn được
nâng cao. Như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định tại Đại hội XIII
(2021): “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay” [10]. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém trong quá trình vận hành
hệ thống chính trị là khơng thể tránh khỏi và sẽ được làm rõ ở phần sau.

II. Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
Chương II sẽ khái quát cấu trúc, cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam
trước khi đi vào phân tích đặc điểm của hệ thống chính trị và bàn luận về những

thách thức đặt ra với hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
8


1. Cấu trúc, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Như đã nói ở trên, hệ thống chính trị nói chung có đa dạng các cấu trúc nhưng cơ
bản thì gồm ba thành tố chính: đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân. Theo Hiến pháp Việt Nam, hệ thống chính trị Việt Nam hiện
nay bao gồm ba bộ phận chính: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã
hội khác [3],[8]. Các bộ phận này hoạt động trong khn khổ pháp luật, có quan hệ
mật thiết với nhau và nắm giữ những vai trị, vị trí khác nhau trong sự vận hành của
các q trình chính trị.
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” [3]. Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị và là một bộ phận của hệ thống chính trị, bảo đảm cho hệ
thống giữ vững được bản chất giai cấp công nhân và bảo đảm mọi quyền lực thuộc
về nhân dân [8].
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của hệ thống chính trị
Việt Nam. Nhà nước bao gồm các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, trực tiếp chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý các hoạt động của đời
sống xã hội. Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, cũng là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội nắm giữ quyền lập hiến, lập pháp và quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước trong số
những đại biểu quốc hội, là người thay mặt nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về phương diện đối nội và đối ngoại. Cơ quan hành chính nhà nước cao nhất là
Chính phủ, thực hiện quyền hành pháp. Cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp là
Tòa án nhân dân, với chức năng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp

là Viện kiểm sát nhân dân, thực hiện quyền công tố, bảo vệ pháp luật. Ở các cấp địa
phương là các Hội đồng nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp, Ủy ban nhân
dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân các cấp [3].

9


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt [8], bao gồm
mọi lực lượng trong xã hội Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài, đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích của hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, thực hiện chức
năng giám sát và phản biện xã hội [3]. Ngồi ra, cịn có bốn tổ chức chính trị - xã
hội khác được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện, bảo vệ cho quyền và lợi ích
hợp pháp của thành viên, hội viên tổ chức mình, hoạt động thống nhất trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam vì lợi ích chung của đất nước. Đó là Hội nơng dân Việt
Nam, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và
Hội cựu chiến binh Việt Nam [3].
Kể từ Đại hội VI của Đảng (1986), cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt
Nam đã được xác định là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”,
trong đó “nhân dân làm chủ” là mục tiêu quan trọng nhất. Sự lãnh đạo của Đảng và
công tác quản lý của Nhà nước cốt là để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Đảng
phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, lãnh đạo nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ ngày càng được cụ thể hóa, đạt được hiệu quả cao, phát huy
được sức mạnh đại đoàn kết dân tộc [9].
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Hệ thống chính trị Việt Nam mang tính phổ biến do được tổ chức căn bản là tương
đồng với hệ thống chính trị ở các quốc gia khác trên thế giới, với ba thành tố chính
là đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội [8]. Song, hệ thống
chính trị nước ta vẫn mang tính đặc thù riêng, được thể hiện ở những đặc điểm sau.
Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam mang tính nhất ngun chính trị. Nói cách

khác, chủ thể lãnh đạo duy nhất của hệ thống chính trị Việt Nam là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hiện nay, ở nước ta không tồn tại một đảng chính trị nào khác được cơng
nhận. Đảng Cộng sản là đảng chính trị duy nhất lãnh đạo các tổ chức, đồn thể
trong hệ thống chính trị, nhưng cũng là một phần của hệ thống ấy. Ở Việt Nam,
Đảng giữ một vị trí quan trọng vì những cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc của nước nhà, do đó được quần chúng nhân dân tín nhiệm, thừa nhận vai trò

10


lãnh đạo của Đảng. Đảng trở thành Đảng chính trị duy nhất đại biểu cho ý chí và lợi
ích của toàn thể nhân dân [7],[8].
Thứ hai, các bộ phận trong hệ thống chính trị Việt Nam đều hoạt động với cùng một
hệ tư tưởng chung, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở
lý luận và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng [8].
Thứ ba, hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Đây vốn dĩ bắt nguồn từ nguyên tắc hoạt động của Đảng được nêu ra
lần đầu tiên tại Đại hội III (1960). Nội dung chính của nguyên tắc này là “tập trung
trên cơ sở dân chủ và dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung”, đảm bảo sự vận hành
thống nhất, liên tục, không bị gián đoạn của các tổ chức trong hệ thống với sự ủy
quyền quyền lực của nhân dân dành cho Đảng và Nhà nước [7],[8],[11].
Thứ tư, hệ thống chính trị Việt Nam thể hiện sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
cơng nhân và tính dân tộc sâu sắc. Điển hình, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích hợp pháp và chính đáng của toàn
thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt, đại
diện cho quyền lực chính trị của mọi con người Việt Nam, bất kể giai cấp, tầng lớp,
dân tộc, tôn giáo, giới tính, độ tuổi. Và Nhà nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân [3],[8].
Tất cả những đặc điểm được thể hiện rõ ở cách thức tổ chức và vận hành của toàn
bộ hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời cũng cho thấy những thách thức mà đất

nước phải đối mặt để hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính trị.
3. Những thách thức đặt ra cho hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Không thể phủ nhận những thành quả mà công tác đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta đã đạt được trong suốt 35 năm Đổi mới. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, tổ
chức bộ máy Nhà nước ta thường xuyên có sự thay đổi, điều chỉnh để phù hợp với
thực tiễn tình hình của nước nhà [15]. Tuy nhiên, vẫn cịn có những hạn chế, thách
thức đặt ra cho hệ thống chính trị của ta.
Thứ nhất, tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị vẫn cịn cồng kềnh, nhiều tầng
nấc trung gian, kém hiệu lực, hiệu quả [15]. Tại Hội nghị Trung ương 6 (2017),
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định rằng, tổ chức bộ máy của hệ thống

11


chính trị vẫn cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; nhiệm vụ của một số tổ chức, cơ quan
vẫn còn chồng chéo, lấn sân; biên chế ngày càng phình to, số lượng lao động
chun mơn cịn thiếu trong khi số lao động phục vụ gián tiếp lại thừa; trong khi đó,
chất lượng cán bộ, công chức, viên chất không được đảm bảo, khiến cho hiệu lực,
hiệu quả giảm sút [2]. Thật vậy, Nghị quyết Trung ương 6 cho biết, “số người
hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn”, tuy nhiên, hiệu suất công tác
lại rất thấp, khiến cho việc chi ngân sách nhà nước gặp áp lực nặng nề [15].
Thứ hai, cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ” chưa được nhận thức rõ ràng, đổi mới, hồn thiện vẫn cịn
chậm, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn [4],[15]. Các điều kiện kinh tế xã hội đã
có những thay đổi to lớn, song phần lớn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn
chưa có nhiều thay đổi để thích ứng, hỗ trợ kịp thời cho những thay đổi này. Chức
năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, tổ chức chưa được làm rõ, vẫn còn chồng chéo
nhau, dẫn đến việc thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu diễn ra quá chậm hoặc
không đáp ứng được yêu cầu cụ thể của thực tiễn đời sống xã hội [15].
Thứ ba, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước kém hiệu quả, dẫn đến tình trạng

quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của hệ thống
chính trị [15]. Kiểm sốt quyền lực luôn là một vấn đề trọng tâm trong xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, quyết định đến sự tồn vong, suy thịnh của cả
một chế độ. Chính vì thế, thể chế kiểm sốt quyền lực đã được Đảng bổ sung, hoàn
thiện vào trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tuy nhiên, Báo cáo
chính trị tại Đại hội XIII (2021) của Đảng đã nhận định: “Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới. Cơ chế kiểm sốt quyền lực
trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”. Hệ
quả là tình trạng tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, một số địa phương diễn
ra hết sức nghiêm trọng và phức tạp với những mưu mô, thủ đoạn tinh vi hơn trước.
Bên cạnh đó, sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống cũng diễn ra ngày
một nhiều ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến lòng tin của nhân dân vào sự liêm chính của Đảng và chế độ xã hội chủ
nghĩa [16].

12


Thứ tư, nhận thức lý luận về Đảng cầm quyền, nội dung, phương thức cầm quyền
của Đảng vẫn còn nhiều bất cập, thiếu sự thống nhất. Có những ý kiến khác nhau
được đưa ra về chức năng, nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng; ngoài ra, việc sử dụng
hai thuật ngữ “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền” gây ra nhiều tranh cãi nhưng
vẫn chưa có lời luận giải thuyết phục. Tại hai kì Đại hội XII, XIII liên tiếp, Đảng đã
nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để phù hợp với điều
kiện mới của đất nước [6].
Thứ năm, những nhược điểm, bất cập trên đã phần nào hạn chế hiệu lực, hiệu quả
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước [6]. Thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa
vẫn cịn mang tính hình thức, chưa có quy định rõ ràng về việc tổ chức lấy ý kiến
đóng góp trực tiếp của nhân dân trong sửa đổi chủ trương, nghị quyết của Đảng

[6],[15]. Tình trạng quan liêu, “lợi ích nhóm”, “vừa đá bóng vừa thổi cịi” diễn ra
nhiều ở các cấp ủy. Hậu quả là một số chủ trương, chính sách đề ra chưa được
nghiên cứu kỹ lưỡng, vẫn còn dựa vào mong muốn, nhận thức chủ quan của các cơ
quan quản lý nhà nước; khi đưa vào thực tiễn thì nảy sinh nhiều tiêu cực, hiệu quả
thực thi không như mong đợi [6].
Những hạn chế, thách thức trên đòi hỏi một sự đổi mới sâu sắc trong cấu trúc và
phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị Việt Nam đương đại.

III. Vấn đề cốt lõi của đổi mới cấu trúc và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị Việt Nam đương đại
Đổi mới để hồn thiện, ổn định hệ thống chính trị vẫn ln là nhiệm vụ tất yếu của
mỗi thời kỳ cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta [8]. Dù
tình hình nước ta hiện nay cơ bản là đã tạo dựng được sự ổn định chính trị, không
đồng nghĩa với việc Đảng và Nhà nước sẽ ngưng trệ, dậm chân tại chỗ trong khi
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vẫn đang khơng ngừng tiến lên. Đổi
mới hệ thống chính trị là cần thiết để giữ vững ổn định chính trị, giữ vững sự gắn bó
khăng khít giữa Đảng với nhân dân [8]. Theo cá nhân tôi, vấn đề mấu chốt nhất
trong đổi mới cấu trúc và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam
13


hiện tại nằm ở việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để phá giải những
hạn chế, thách thức đã đề cập ở chương trước. Chương III sẽ luận giải sự cần thiết
của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới cấu trúc
và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam đương đại và trình bày
những nội dung cụ thể của sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện hiện nay.
1. Sự cần thiết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn
hiện nay
Lý do đầu tiên nằm ở tầm quan trọng của phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

mọi hoạt động chính trị của nước ta. Hay nói cách khác, phương thức lãnh đạo của
Đảng có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của tất cả các tổ chức chính trị,
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Thật vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam là
chính đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị thơng qua Nhà nước là
chủ yếu. Nhà nước là công cụ để cụ thể hóa những chủ trương, nghị quyết của Đảng
đề ra [17]. Như vậy có thể nói, cơng cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với sự
lãnh đạo của Đảng. Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội khác như Cơng đồn
Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đều hoạt động thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng [3]. Do đó, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
tổ chức này đều phản ánh chất lượng lãnh đạo của Đảng [17]. Phương thức lãnh đạo
của Đảng tốt thì sẽ tạo động lực xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị
và tổ chức, cũng như nâng cao uy tín chính trị và vai trị lãnh đạo của Đảng. Ngược
lại, nếu phương thức lãnh đạo của Đảng kém hiệu quả thì sẽ kìm hãm sự phát huy
năng lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Tiếp đó, phương thức lãnh đạo của Đảng cần phải được củng cố, điều chỉnh sao cho
phù hợp với yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ trong điều kiện mới của đất nước. Điều
này đúng với mọi thời kỳ cách mạng. Không thể áp dụng các phương thức của giai
đoạn cách mạng trước để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới, đòi hỏi sự
điều chỉnh trong công tác lãnh đạo của Đảng để thực hiện những mục tiêu, nhiệm

14


vụ cấp bách của cách mạng. Một ví dụ điển hình là việc Đảng đứng ra trực tiếp lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Đại hội II (2/1951) chứ khơng hoạt
động ẩn mình trong vai trị của Quốc hội, Chính phủ hay cá nhân Hồ Chủ tịch như
trước đây [4]. Để lãnh đạo thành công thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ mới, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt hệ trọng và cấp bách.

2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Trong nhiều năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều chủ trương đẩy mạnh, nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tổ chức đảng với các
cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, Đại hội XIII của Đảng cũng đã nhận định rằng,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn lúng túng, chậm đổi
mới [5]. Một số thực trạng có thể được kể đến ở phần III.3 như cơ chế kiểm sốt
quyền lực cịn chưa đầy đủ hay cơng tác thể chế hóa một số chủ trương, nghị quyết
của Đảng thành pháp luật của Nhà nước còn chưa kịp thời. Để tiếp tục công cuộc
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Đại hội XIII có chỉ ra
một số yêu cầu và giải pháp chủ yếu sau [5].
Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng chủ trương, nghị quyết, xác định
đúng và trúng nhiệm vụ trong từng thời kỳ [5]. Việc lãnh đạo bằng chủ trương,
đường lối là phương thức lãnh đạo cơ bản của không chỉ Đảng Cộng sản Việt Nam
ta, mà cịn của các đảng cầm quyền khác trên tồn thế giới. Tuy nhiên, đổi mới ở
đây là phải xác định đúng và trúng nhiệm vụ, ý nghĩa lịch sử và giá trị thực tiễn của
chủ trương, đường lối hay chỉ thị đó sao cho phù hợp với mong muốn, nguyện vọng
hợp pháp và chính đáng của nhân dân cũng như xu thế của thời đại. Năng lực lãnh
đạo của Đảng sẽ được phản ánh phần nào thông qua chất lượng của những văn bản
chỉ đạo này. Chính vì vậy, Đảng cần phải tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, tổng
hợp kinh nghiệm thực tiễn và lắng nghe ý kiến của nhân dân để đưa ra những chủ
trương, nghị quyết phù hợp, khoa học, dân chủ, đạt hiệu quả cao, thể hiện uy tín của
hệ thống chính trị [5].
Thứ hai, đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ, tinh giản các cơ quan của Đảng
và cơ quan nhà nước có chức năng tương đương [5]. Như đã đề cập ở trên, một

15


trong những hạn chế của hệ thống chính trị Việt Nam là tính cồng kềnh, nhiều tầng

nấc trung gian của các cơ quan trong bộ máy chính trị. Để nâng cao hiệu quả, đảm
bảo tính liên tục, sâu sát, triệt để trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cần
thực hiện tinh giản, thu gọn những cơ quan của Đảng và Nhà nước có chức năng
tương đồng, tránh chồng chéo, lấn sân nhiệm vụ [5]. Bên cạnh đó, chất lượng của
cán bộ cũng cần được chú trọng, đặc biệt là cán bộ cấp cao. Theo đó, cơng tác đánh
giá cán bộ theo các tiêu chí rõ ràng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao; hạn
chế biểu hiện tiến cử, đề bạt khơng đúng quy trình ở một bộ phận bổ nhiệm cán bộ
hiện nay [12].
Thứ ba, tiếp tục củng cố, nâng cao năng lực thể chế hóa nội dung, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước [5],[12]. Thể chế hóa là cụ thể hóa các mục tiêu,
nhiệm vụ được Đảng thành các quy định pháp luật hoặc các chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh hay ở các lĩnh vực khác. Như đã đề
cập ở trên, việc thể chế hóa của các cơ quan, đặc biệt là ở cấp ủy, vẫn còn chưa kịp
thời hoặc kém hiệu quả. Do đó, cần phải tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng trong cơng tác thể chế hóa, thể hiện ở các chương trình, kế hoạch, đề án cụ
thể, mang tính khoa học, có giá trị thực tiễn cao, được nghiên cứu kỹ lưỡng [5].
Thứ tư, phát huy vai trị của nhân dân tham gia vào q trình đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận, đồn
thể chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
đại diện cho quyền lực chính trị của nhân dân, đặc biệt là có chức năng giám sát,
phản biện xã hội, tham gia trực tiếp vào xây dựng và quản lý Nhà nước. Do đó, chỉ
khi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đồn thể chính trị - xã hội thực hiện
tốt được vai trò, nhiệm vụ đó, thì hiệu lực lãnh đạo của Đảng càng tăng [5].
Thứ năm, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng và
Đảng viên làm việc trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự giám sát, kiểm tra cần phải được thực hiện nghiêm
túc để nhanh chóng phát hiện và phát huy những sáng tạo, hiệu quả, đồng thời chỉ ra
những biểu hiện lệch lạc, trái với chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Chất lượng lãnh đạo của Đảng theo đó mới được bảo đảm [5].


16


KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị Việt Nam đã trải qua hơn 75 năm đổi mới, chỉnh đốn để thích
ứng với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn lịch sử, từ hệ thống chính trị dân chủ
nhân dân, đến hệ thống chun chính vơ sản và sự đổi mới về tư duy chính trị của
Đảng dẫn đến hệ thống chính trị Việt Nam hiện giờ. Mặc dù gặp rất nhiều thách
thức và khó khăn, song hệ thống chính trị Việt Nam mà đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn ln là điểm tựa vững chắc của tồn bộ quần chúng nhân
dân yêu nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bên cạnh đó,
Đảng và Nhà nước vẫn luôn không ngừng tự chỉnh đốn, kiện tồn hệ thống chính trị
để phát huy những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế, bật cập trong q trình
vận hành. Trong đó, đổi mới về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và toàn bộ hệ thống chính trị là vấn đề cốt lõi trong đổi mới cấu trúc và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Vấn đề này đã được Đảng
thừa nhận và khẳng định qua các Đại hội gần đây và được cụ thể hóa qua những
nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể, với sự chủ động và quyết tâm chính trị cao, vì một
mục tiêu chung đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Kết quả đạt được và những hạn
chế, bất cập về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 15/09/2018, />2. Báo Tuổi trẻ (2017), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: ‘Bộ máy hệ thống chính
trị cịn cồng kềnh’, Tuổi trẻ online, ngày 04/10/2017, />3. Cổng thơng tin điện tử chính phủ (2021), Hệ thống chính trị, Cổng thơng tin
điện tử Chính phủ nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
/>TongHop/hethongchinhtri

4. Dương Mộng Huyền (2021), Mơ hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Tạp chí nghiên cứu, hướng dẫn công tác tổ
chức xây dựng Đảng của Ban tổ chức Trung ương, ngày 13/9/2021,
/>5. Dương Trung Ý (2021), Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước trong điều kiện mới, Tạp chí Cộng sản, ngày 11/06/2021,
/>6. Dương Trung Ý (2021), Những thành tựu và một số hạn chế, bất cập trong
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, Tạp chí Cộng sản, ngày 24/10/2021,
/>7. Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bình Phước (2020), Bài 3: Hệ
thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Cổng thơng tin điện tử Tỉnh đồn Bình Phước,
ngày 21/07/2020, />

8. Lý Vĩnh Long (2012), Hệ thống chính trị ở Việt Nam từ 1986 đến nay, Luận án
tiến sĩ chính trị học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, Hà Nội.
9. Nguyễn Bá Vương (2016), Thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Báo điện tử Quân đội nhân dân, ngày
21/04/2016, />10. Nguyễn Trọng Phúc (2021), Bài học về xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua 35 năm
đổi
mới,
Tạp
chí
Cộng
sản,
ngày
25/04/2021,
/>11. Nguyễn Trọng Phúc (2021), Nhận thức tính đúng đắn của nguyên tắc tập trung
dân chủ, chống các luận điểm sai trái, xuyên tạc, Báo điện tử Quân đội nhân dân,
ngày 08/07/2021, />12. Nguyễn Thế Trung (2021), Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối
với
Nhà

nước,
Tạp
chí
Mặt
trận,
ngày
15/03/2021,
/>13. Nguyễn Văn Giang (2019), Khái niệm hệ thống chính trị, mơ hình tổ chức hệ
thống chính trị; những yếu tố tác động và quy định mô hình tổ chức của hệ thống
chính trị, Trang thơng tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương, ngày 31/12/2019,
/>14. Nguyễn Viết Thông, Đinh Xuân Lý, Nguyễn Đăng Quang (2016), Giáo trình
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
15. Tạ Ngọc Tấn (2019), Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị - vấn đề trung tâm
trong xây dựng thể chế phát triển nhanh, bền vững ở Việt Nam, Bộ Nội vụ, ngày
04/09/2019, />16. Tạ Ngọc Tấn (2021), Một số vấn đề về kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta
hiện
nay,
Tạp
chí
Cộng
sản,
ngày
28/07/2021,
/>

/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ve-kiem-soat-quyen-lucchinh-tri-o-nuoc-ta-hien-nay
17. Vũ Thị Mai Oanh (2020), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện hiện nay, Tạp chí Ban tuyên giáo trung ương, ngày 20/05/2020,
/>



×