Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận cao họctìm hiểu các quan niệm cơ bản về CNXH phi mácxít

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.19 KB, 28 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tình hình hiện nay, đứng trước cách mạng khoa học- công nghệ
tiến nhanh chưa từng thấy, giá trị sản xuất vật chất tăng hàng chục lần so
với thế kỷ trước. Toàn cầu hố kinh tế là một xu thế khách quan, lơi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu
hiện dưới các hình thức và trình độ khác nhau, vẫn tồn tại và phát triển,
thậm chí có những mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt, thế giới đứng trước nhiều vấn đề tồn cầu
hố mà khơng một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu khơng có
sự hợp tác đa phương. CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học
và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn
vốn có. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự
lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. CNXH trên thế
giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự
thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển
mới.
Dưới âm mưu, chiều bài “diễn biến hồ bình” và “hoà nhập quốc tế”
của CNTB hiện đại, mà họ ln đưa ra để chống phá CNXH với tính chất
phức tạp ngày càng tăng như: chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố. Mục đích đấu tranh vì
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tiến bộ và cơng
bằng xã hội của CNTB càng có những bước tiến mới.
Chính từ những tình hình phức tạp trên, để khơng nhầm lẫn, lu mờ về
lập trường chính trị và dao động trước những quan niệm về CNXH phi
Mácxít của trào lưu xã hội- dân chủ mà họ chủ trương, thì nghiên cứu vấn

1



đề “Tìm hiểu các quan niệm cơ bản về CNXH phi Mácxít” để hiểu được
nguồn gốc, nội dung, tư tưởng và bản chất của nó, là một vấn đề mang tính
cấp bách trong thời đại ngày nay.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu của
mình, một phần để mở rộng thêm kiến thức của bản thân và làm tiểu luận
để kết thúc mơn học.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề “Tìm hiểu các quan niệm cơ bản về CNXH phi Mácxít” là một
vấn đề rất cấp bách trong thời kỳ ngày nay, thời kỳ của sự nghiệp đổi mới
của Đảng - Nhà nước. Là một vấn đề rất quan trọng trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố- hiện đại hố đất nước, q độ lên CNXH. Về vấn đề này cũng
luôn luôn được Đảng - Nhà nước nghiên cứu, được các nhà lý luận luôn
quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Nhưng những vấn đề nêu trên chưa đi
đến một kết luận chung thống nhất.
Do vậy, nghiên cứu đề tài này là phê phán các quan niệm sai trái của
CNXH phi Mácxít và nhằm đưa ra một cách hệ thống trong thời kỳ cách
mạng, xây dựng CNXH trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này khơng có những tham vọng nhiều mà chỉ đi vào nghiên
cứu, tìm hiểu các quan niệm về CNXH phi Mácxít mà các trào lưu xã hộidân chủ đã sáng lập và phê phán CNXH khoa học nói riêng, Chủ nghĩa
Mác- Lênin nói chung.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, là để phê phán các quan niệm
sai trái của CNXH phi Mácxít. Và từ đó, đưa ra những cơ sở lý luận đúng
đắn của Chủ nghĩa Mác- Lênin để chứng minh, làm sáng tỏ và bác bỏ
những luận điểm xuyên tạc của CNXH phi Mácxít, khẳng định sự đúng
đắn của các nguyên lý CNXH khoa học về việc xây dựng XHCN trong giai
đoạn hiện nay.
2



Để thực hiện mục tiêu đó, ta phải phân tích, phê phán các quan niệm
của CNXH phi Mácxít và căn cứ vào các nguyên lý CNXH khoa học để
chứng minh Chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung, CNXH khoa học nói riêng
là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như sự lựa
chọn con đường đi của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
5. Cái mới của đề tài
Bước đầu, tiểu luận này nghiên cứu, để tìm hiểu các quan niệm cơ bản
về CNXH phi Mácxít của các trào lưu xã hội- dân chủ trong một số vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp thiết đang đặt ra cho sự nghiệp xây dựng XHCN ở
giai đoạn hịên nay. Và rút ra những ảnh hưởng của các quan niệm về
CNXH phi Mácxít đối với sự phát triển lý luận CNXH khoa học trong việc
chống lại các quan điểm phi Mácxít đó.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu của mình tác giả sử dụng phương pháp duy
vật lịch sử, duy vật biện chứng và phương pháp lơgíc là phương pháp chủ
yếu.
7. Kết cấu của đề tài
Tiểu luận được tác giả thực hiện gồm có:
Phần mở đầu
Phần nội dung
I. Hoàn cảnh ra đời và phát triển của CNXH phi Mácxít
II. Nội dung, tư tưởng cơ bản của các trào lưu CNXH phi Mácxít
III. Ảnh hưởng của CNXH phi Mácxít đối với sự phát triển lý luận
CNXH khoa học
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

3



PHẦN NỘI DUNG

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CNXH PHI MÁCXÍT

1. Hồn cảnh ra đời và phát triển của CNXH phi Mácxít
a. Sự ra đời của CNXH phi Mácxít
Vào giữa thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của CNTB ở châu Âu và
sự bóc lột tàn tệ của nó đã thúc đẩy cuộc đấu tranh sơi động của GCVS.
Việc ra đời “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” năm 1848 do C.Mác và
Ph.Ăngghen soạn thảo và việc thành lập Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế
(Quốc tế I) ngày 28- 9- 1864 tại Luôn Đôn, đã đánh dấu sự xuất hiện của
phong trào công nhân quốc tế trên vũ đài chính trị. Từ đây, cuộc đấu tranh
giữa vơ sản và tư bản có tác động to lớn đến phương hướng vận động của
lịch sử.
Nhìn lại những năm giữa thế kỷ XIX, cần thấy rằng điều kiện lao
động của công nhân châu Âu rất nặng nề. Ngày lao động trong các cơng
xưởng, nhà máy đâu đâu cũng ít nhất là 10 giờ. Chẳng hạn, ngày lao động
ở Anh và Mỹ thường là 10 giờ, ở Đức từ 10 đến 12 giờ, ở Pháp, Hà Lan và
Italia là từ 11 đến 12 giờ, ở Tây Ban Nha từ 12 đến 13 giờ, ở Nga từ 12 đến
15 giờ, ở Nhật Bản từ 12 đến 16 giờ. Và tai nạn lao động trong các công
xưởng hàng ngày hàng giờ đe doạ sức khoẻ và đời sống của cơng nhân.
Mỗi năm có hàng nghìn người cơng nhân chết do tai nạn trong sản xuất và
hàng chục nghìn người trở thành tàn phế. Thời gian lao động q căng
thẳng, khơng có các biện pháp bảo hộ, nơi sản xuất thì chật chơi và bẩn
thỉu, đồng lương ít ỏi, thường xuyên bị cắt xén, cúp phạt, người cơng nhân
và gia đình của họ ln túng bấn, nghèo khổ. Công nhân lao động quá sức,
ăn uống thiếu thốn, bệnh tật ốm đau đã làm ham mòn về thể lực, suy yếu
về thần kinh. Đấy là chưa nói đến thảm trạng trong các năm khủng hoảng
và suy thoái.

4


Trong tác phẩm “Tình cảnh của GCCN Anh”, Ph.Ăngghen đã đánh
giá và phân tích sâu sắc điều kiện lao động và sinh sống của GCCN và
những khát vọng của họ về một xã hội bình đẳng, khơng cịn áp bức, bóc
lột.
Trong phong trào cơng nhân lúc bấy giờ, sự phức tạp về nguồn gốc và
tư tưởng là một thực tế phổ biến ở nhiều nước, trong đó khuynh hướng xã
hội- dân chủ luôn luôn đối lập với khuynh hướng cộng sản về lập trường tư
tưởng, chính trị. Khuynh hướng này chủ trương lợi dụng các điều kiện của
chế độ dân chủ tư sản để đấu tranh cho quyền lợi của GCCN và cải tạo
CNTB dần dần theo con đường CNXH.
Sự phát triển của GCCN tuỳ thuộc ở sự đoàn kết của họ chống lại sự
bóc lột tàn tệ của CNTB. Vì vậy ở giai đoạn này, phong trào cơng đồn có
vai trị quan trọng. Quyền hoạt động cơng đồn và các quyền tự do cơ bản
về tự do lập hội, tự do bãi công là mục tiêu đấu tranh đầu tiên của phong
trào. Chính ngay ở nước Anh, nơi mà quyền tự do lập hội và tự do bãi công
được chính thức thừa nhận sớm hơn bất cứ nơi nào khác, thì mãi đến
những năm 70, quyền cơng đồn vẫn chưa khẳng định hồn tồn. Những
người cầm đầu bãi cơng đã bị toà án truy tố và bị bỏ tù. GCTS rất lo sợ
một GCCN được tập hợp rộng rãi và có tổ chức.
Phải trải qua nhiều năm đấu tranh quyết liệt, GCCN các nước TBCN
mới giành được những quyền cơng đồn và các quyền tự do khác. Đối với
những người vô sản bị cuộc cách mạng công nghiệp làm suy sụp về thể
xác, thì việc rút ngắn ngày làm việc, cải thiện đồng lương trở nên thiết thân
và cấp bách. Đó là cơ sở xã hội để phát triển các phong trào cơng đồn,
hình thức các tổ chức chính trị và giác ngộ ý thức giai cấp cho công nhân.
Sự ra đời của Đảng công nhân xã hội- dân chủ Đức (năm 1869) là một
sự kiện có tầm quan trọng quốc tế. Và khái niệm xã hội- dân chủ xuất hiện

ở Đức trong phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phong kiến. Thuật ngữ
này ra đời lần đầu tiên trên văn đàn Đức dưới tên tờ báo “Người xã hội5


dân chủ” xuất hiện từ 15-12-1864 đến 26-4-1871, là tiếng nói của cơng
nhân.
Đại hội thành lập Đảng xã hội- dân chủ đầu tiên của GCCN Đức và
thế giới họp ở Aixơnác vào ngày 8, 9- 8- 1869. Đại hội đã tuyên bố thành
lập Đảng, thông qua cương lĩnh nổi tiếng của Đảng (còn gọi là Cương lĩnh
Aixơnác) do A.Bêben soạn thảo. Mục tiêu của Đảng xã hội- dân chủ là đấu
tranh xoá bỏ CNTB hiện đại, phấn đấu xây dựng một Nhà nước tự do. Việc
đấu tranh giải phóng GCCN khơng phải là đấu tranh cho sự hồ bình xã
hội về quyền lợi và nghĩa vụ. Cương lĩnh xác định: “Tự do chính trị là tiền
đề đầu tiên để giải phóng cho GCCN về kinh tế”. Khẳng định cuộc đấu
tranh giải phóng lao động khơng phải là một vấn đề địa phương, dân tộc
mà là một vấn đề xã hội mang tính quốc tế của các nước hiện đại. Cương
lĩnh thể hiện sâu sắc quan điểm Mácxít, được C.Mác và Ph.Ăngghen tán
thành, đánh dấu sự phát triển của GCCN Đức về mặt lý luận. Các nguyên
lý trong Cương lĩnh này vẫn còn nguyên giá trị đối với những người xã
hội- dân chủ cách mạng (cánh tả) ngày nay.
Và sự kiện Công xã Pari (1871) là những trang sử hào hùng của
phong trào cách mạng quốc tế. Những bài học của Công xã Pari về phá bỏ
chế độ cũ, thiết lập một trật tự xã hội mới của GCCN có ý nghĩa phong phú
cho cuộc đấu tranh quốc tế. Phong trào thế giới đồn kết với Cơng xã và
bảo vệ các chiến sĩ Công xã sau khi thất bại là một tập hợp lực lượng cách
mạng ở các nước. Điều đáng chú ý là công nhân Đức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng xã hội- dân chủ Đức đã đi đầu phong trào ủng hộ Công xã. Thất bại
của Công xã Pari càng làm tăng thêm mâu thuẫn sâu sắc và dẫn đến cuộc
khủng hoảng của Quốc tế I. Phái vơ chính phủ của M.A.Bacunin thì cho
rằng cơng nhân khơng cần làm chính trị; khởi nghĩa Pari dường như đã

đánh đổ quan niệm của C.Mác chứng thực cho chủ trương của họ về sự
bùng nổ cách mạng tự phát. Đây là mối nguy cơ cho phong trào cơng nhân,
đánh lộn sịng giữa GCCN được giác ngộ với tầng lớp hạ lưu bị áp bức.
6


Ở một phía khác, chủ nghĩa cải lương, xét lại cũng tăng cường phê
phán học thuyết CNXH khoa học, nổi bật là Chủ nghĩa Công liên ở Anh
đang thay thế cho Chủ nghĩa Pruđông đã bị phá sản về tư tưởng. Họ cho
rằng, hoạt động chính trị của GCVS chỉ là đưa đại biểu của công nhân vào
nghị viện, đấu tranh cải cách trong khuôn khổ dân chủ tư sản; họ phản đối
cách mạng vô sản thế giới, nhiều bạn chiến đấu của C.Mác và Ph.Ăngghen
cũng ngả theo lập trường cải lương thiên hữu này.
Cuộc đấu tranh quyết liệt của các trào lưu tư tưởng phản động nói trên
đối với lập trường Mácxít, từ đó đã dẫn đến việc chia rẽ trong tổ chức của
Quốc tế I. Và Quốc tế I buộc phải chuyển cơ quan lãnh đạo sang Niuoóc
năm 1872 và tuyên bố tự giải tán năm 1876.
b. Sự phát triển của CNXH phi Mácxít
Sau khi Cơng xã Pari là thời kỳ phát triển nhanh chóng của các Đảng
xã hội- dân chủ, đồng thời khuynh hướng cải lương trong các Đảng cũng
tăng lên đáng kể. Đảng xã hội- dân chủ Đức là một đội ngũ đơng đảo, có tổ
chức nhất trong phong trào công nhân lúc bấy giờ. C.Mác đánh giá là “ở
thời kỳ này trọng tâm phong trào đã chuyển sang Đức”.
Trong khi lãnh tụ A.Bêben còn bị cầm tù, thì những người lãnh đạo
hữu khuynh đã sát nhập Đảng công nhân xã hội- dân chủ Đức với Tổng hội
công nhân Đức do F.Látxan thành lập năm 1863 thành Đảng cơng nhân
XHCN Đức ở quy mơ tồn quốc; F. Látxan (1825- 1864) là một nhà dân
chủ tầm thường có thiên hướng Bơnapác. Ơng có cơng rất lớn trong việc
thành lập Tổng hội công nhân Đức, nhưng lại muốn đưa công nhân đi theo
hướng cơ hội, cải lương, ảo tưởng đưa nước Phổ độc tài đi lên CNXH một

cách hồ bình.
Đại hội sát nhập diễn ra ở Gơta năm 1875 và thông qua bản cương
lĩnh Gôta và đã từng được C.Mác kịch liệt phê phán trong tác phẩm “Phê
phán Cương lĩnh Gôta”. Đại hôi Gôta thể hiện khuynh hướng cải lương,
7


xét lại của phái F.Látxan đang nẩy nở trong phong trào cơng nhân Đức.
Khi cịn ở trong tù, A.Bêben kể lại rằng lúc nhận được bản dự thảo Cương
lĩnh Gôta, ông sửng sốt và coi đây như là một cái gì “từ trời rơi xuống”.
Quan điểm lý luận và tư tưởng chính trị của Cương lĩnh này đã thật thụt lùi
một bước khá xa so với Cương lĩnh Aixơnac.
Nhưng với vai trị và uy tín lớn lao của C.Mác và Ph.Ăngghen đã
hướng dẫn phong trào công nhân đi đúng quỹ đạo cùng với những thắng
lợi của trào lưu xã hội- dân chủ ở quy mô nước Đức, đã hạn chế nhiều
thiếu sót nghiêm trọng của Cương lĩnh. Trong cuộc bầu cử tháng 1- 1877,
những người xã hội- dân chủ Đức đã thu được gần nửa triệu phiếu bàu,
chiếm 13 ghế trong Quốc hội. Cuối năm 1877, Đảng và các công đồn chịu
ảnh hưởng của Đảng đã có trên 60 tờ báo và tạp chí. Đến tháng 10- 1878,
lo sợ trước phong trào cơng nhân, chính phủ đã thơng qua “đạo luật đặc
biệt” đặt những người XHCN ra ngồi vịng pháp luật Đảng đã phải
chuyển sang hoạt động bí mật trong điều kiện khó khăn hơn và trào lưu
hữu khuynh trong Đảng tăng lên.
Mặc dù có sự chống trả của bọn tư sản phản động, đến năm 1890 có
tới 1 triệu 427 ngàn người bỏ phiếu cho Đảng, tức là 19% cử trị đi bầu và
sau đó đạo luật đã bị bãi bỏ. Cùng năm đó, Đại hội Đảng họp ở Halê (từ
ngày 12 đến 18 tháng 10 năm 1890), Đảng công nhân XHCN Đức đã đổi
tên thành Đảng xã hội- dân chủ Đức. Đến năm 1891, Đại hội Đảng họp ở
Ecphuốc và thông qua bản Cương lĩnh Gôta và đổi tên Đảng thành Đảng
xã hội- dân chủ Đức.

Phong trào xã hội- dân chủ ở Pháp cũng lên mạnh và một cột mốc
quan trọng là việc thành lập Đảng công nhân Pháp (tháng 10- 1879) ở
Mácxây. Đảng cũng đã trải qua cuộc đấu tranh quyết liệt giữa những người
Mácxít và các phần tử cải lương, mục đích chủ yếu của phong trào là giành
đa số trong các hội đồng thị chính để “dần dần thay thế chế độ sở hữu

8


TBCN bằng chế độ công hữu thông qua việc thành lập các xí nghiệp của
hội đồng thị chính”. Cương lĩnh này đã bị đa số công nhân phê phán.
Cũng trong năm 1879, Đảng XHCN Bỉ ra đời, sau đó hợp nhất với
một số tổ chức công nhân như các nghiệp đồn và hợp tác xã. Qua đó,
phong trào được mở rộng và tính quần chúng của Đảng tăng lên.
Ở Hà Lan, các nhóm xã hội- dân chủ đã xuất hiện vào cuối những
năm 70. Đến năm 1882 các nhóm này hợp nhất thành Hội xã hội- dân chủ
và đến 1894 thành lập Đảng xã hội- dân chủ Hà Lan.
Ở Thuỵ Điển, Đảng công nhân xã hội- dân chủ thành lập năm 1889,
nhưng ngay từ đầu quyền lãnh đạo của Đảng rơi vào tay những người cải
lương.
Đảng công nhân xã hội- dân chủ Áo được thành lập tháng 1- 1889,
thông qua cuộc đấu tranh kéo dài hơn chục năm giữa các phần tử cải lương
và những người Mácxít, Đảng đã trở thành một lực lượng chính trị được
quần chúng ủng hộ và giành được nhiều thắng lợi.
Các Đảng xã hội- dân chủ, Đảng công nhân, Đảng XHCN ra đời trong
thời gian này ở hàng loạt nước khác như: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Na
Uy, Thuỵ Sĩ, Đan Mạch, Bungari, Ba Lan, Rumani, Italia, Nam Tư…
Sự phát triển rầm rộ các tổ chức chính trị của GCVS thúc đẩy việc
truyền bá tư tưởng XHCN, các giá trị về dân chủ nhân đạo và quyền con
người trong GCCN. Cao trào đấu tranh rộng lớn của GCVS nổi lên các

cuộc bãi công với quy mô lớn và kéo dài ở nhiều nước trong những năm
80 và 90. Bãi công là trường học giáo dục tinh thần đồn kết vơ sản và
nâng cao tính tổ chức của công nhân. Phong trào nắm bắt các vấn đề đang
chín muồi của đời sống xã hội để tập trung quần chúng đấu tranh.
Mặt khác, thắng lợi trong cuộc tranh cử vào nghị viện cũng thể hiện rõ
rệt ảnh hưởng của Đảng xã hội- dân chủ. Ở Đức, các đại biểu Quốc tế là
lãnh tụ công nhân như: A.Bêben, V.Liếpnếch đã tiến hành đấu tranh kiên
trì ở Quốc hội để bảo vệ lợi ích của quần chúng lao động, biến Quốc hội
9


nơi mà hàng triệu con người đang trông chờ, thành diễn đàn tun truyền
tư tưởng XHCN, bóc trần chính sách của chính phủ tư sản và các đảng
phái địa chủ, tư sản.
Đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các Đảng XHCN, Đảng xã hội- dân chủ
hoạt động trong điều kiện có chế độ nghị trường đều có đại diện của mình
trong Quốc hội như: ở Đức có 56 đại biểu, Bỉ có 31 đại biểu, Áo có 14 đại
biểu, Pháp có 13 đại biểu…Những thắng lợi trong hoạt động nghị trường
của các Đảng xã hội- dân chủ cũng làm cho Đảng mắc phải cái mà C.Mác
gọi là “Sự mê muội nghị trường”. Điều này củng cố quan điểm cải lương,
cho rằng “hoạt động nghị trường có thể thay thế cách mạng vơ sản và
chun chính vơ sản”.
2. Thực chất cái gọi là CNXH phi Mácxít
Các trào lưu xã hội- dân chủ, họ vừa chống lại CNTB đồng thời lại
thừa nhận CNTB vì họ hoạt động trong các nước TBCN nên họ phải thừa
nhận CNTB. Và thực chất của các trào lưu xã hội- dân chủ, CNXH phi
Mácxít là chống CNTB. Trong thời kỳ của C.Mác và Ph.Ăngghen thì
chống lại CNTB tự do cạnh tranh, thời kỳ của V.I.Lênin thì chống lại
CNTB độc quyền, còn ngày nay là chống lại CNTB tài chính… để nhằm
vạch ra những tội ác, cái mà khơng thể chấp nhận được của GCTS. Vì

CNTB họ chỉ có mục đích cuối cùng là bóc lột GCCN, nơ dịch, thuộc địa
và chiến tranh.
CNTB và GCTS tư hữu, nô dịch, bóc lột GCCN ở thế kỷ XIX, cịn
trong thế kỷ XX và hiện nay do sự phát triển của khoa học- cơng nghệ của
CNTB và GCTS thì nó càng bóc lột rất tinh vi hơn.
Những người xã hội- dân chủ họ cũng chống lại tư bản, nhưng họ
chống với tư cách là một xã hội phí nhân tính, khơng giải quyết được vấn
đề tha hố, bất cơng, nó chỉ đem lại lợi ích cho một thiểu số của tư bản và
nó cịn làm thiệt hại đến phần đa số của những người dân nghèo khổ. Họ
10


phủ nhận lý luận hình thái kinh tế- xã hội, lý luận về đấu tranh giai cấp,
cách mạng xã hội của C.Mác. Và họ chủ trương về vấn đề xoá nhoà ranh
giới giai cấp, cho nên để xã hội được giải phóng, vì nhân quyền con
người… là một xã hội trừu tượng, phi lịch sử. Những người xã hội- dân
chủ họ còn chủ trương xây dựng xã hội mới theo mơ hình gọi là con đường
thứ ba “CNXH dân chủ”. Và từ cuối thế kỷ XX đến nay vẫn gọi là con
đường thứ ba mới, là chủ nghĩa dân chủ- xã hội. Về mơ hình xã hội mới
của họ đó là một xã hội nhân đạo vì con người, xây dựng một cộng đồng
dân cư bình đẳng, hợp tác, chú trọng chính sách xã hội và chính sách về
kinh tế, xây dựng thước đo dân cư cơng bằng; đó là xây dựng một Nhà
nước có dân chủ và pháp quyền. Về vấn đề chính quyền Nhà nước thì
những người xã hội- dân chủ chủ trương xây dựng như là một Nhà nước
quyền lực chung, công cộng, họ phủ nhận bản chất giai cấp của Nhà nước.
Trào lưu xã hội- dân chủ, họ coi hợp tác giữa các giai cấp như là cơng
bằng, khơng có giai cấp, do đó làm lu mờ đi những mâu thuẫn và bản chất
GCTS. Xung quanh vấn đề này, họ phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN là
điểm then chốt, họ cho rằng lý luận về GCCN chỉ đúng vào thời điểm ống
khói, giai đoạn của C.Mác, GCCN truyền thống ngày càng giảm đi và số

lượng của GCCN hiện đại phát triển thành trí thức. Trên thực tế, các quan
niệm của CNXH phi Mácxít hay các trào lưu xã hội- dân chủ này nó chỉ
đem lại lợi ích cho nhân dân lao động, cho cơng nhân một cách có hạn. Và
chủ yếu nó vẫn cịn bảo vệ lợi ích cho GCTS.
Xét đến cùng, thứ học thuyết này không làm phương hại về căn bản
đối với CNTB. Hơn thế, là nó cịn tạo nên một vỏ bọc tư tưởng cho sự an
toàn của CNTB. CNXH- DC bằng việc tuyên truyền cho lý thuyết thực
hiện từng phần CNXH trong khuôn khổ CNTB, với các mục tiêu dân chủ,
tự do, công bằng, nhân đạo đã đem lại thuận lợi khách quan cho CNTB.
Chính những lầm tưởng và hy vọng của con người mà CHXH- DC tạo ra

11


đã có tác dụng làm dịu bớt những xung đột, những gay gắt của cuộc đấu
tranh hướng vào CNTB.
II. NỘI DUNG, TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CÁC TRÀO LƯU CNXH PHI
MÁCXÍT

1. Chủ nghĩa xã hội phong kiến
Trong phần III của tác phẩm “Tun ngơn Đảng Cộng sản”, C.MácPh.Ăngghen đã trình bày và phân tích rất rõ về nội dung, tư tưởng của
CNXH phong kiến.
CNXH phong kiến chứng minh rằng “phương thức bóc lột phong kiến
khơng giống như phương thức bóc lột của GCTS”, và họ cho rằng “dưới
chế độ phong kiến, khơng có GCVS hiện đại”. CNXH phong kiến, họ rất
che đậy tính chất phản động của mình, cho rằng “dưới sự thống trị của nó,
GCTS đảm bảo sự phát triển cho một giai cấp sẽ làm nổ tung toàn bộ trật
tự xã hội cũ”.
Cho nên trong đấu tranh chính trị, CNXH phong kiến chỉ tích cực
tham gia vào tất cả những biện pháp bạo lực chống lại GCCN. CNXH

phong kiến, họ vẫn không bỏ qua cơ hội để lượm lấy những quả táo bằng
vàng và đem lòng trung thành, tình u và danh dự mà đổi lấy việc bn
bán. Chẳng khác gì với thầy tu và chúa phong kiến ln ln tay nắm tay
cùng đi với nhau thì CNXH thầy tu cũng đi sát cánh với CNXH phong
kiến.
2. Chủ nghĩa tiểu tư sản
a. Nội dung, tư tưởng CNXH tiểu tư sản của VâyHlinh (Đức, 18081871)
VâyHlinh là nhà lý luận và là một trong những người lãnh đạo của
liên đoàn những người chính nghĩa. Là tổ chức mang tính tổ chức quốc tế
cơng nhân đầu tiên đối với liên đồn những người chính nghĩa dù chưa
12


thoát khỏi tổ chức hạn chế của tiểu tư sản. Nhưng ở một mức độ nhất định
thì VâyHlinh cũng thể hiện được vai trò đại biểu xuất sắc của CNXH cơng
nhân khơng tưởng. Ơng phê phán, lên án những bất cơng, tội ác của
CNTB; đặt vấn đề xố bỏ CNTB để thiết lập một chế độ xã hội mới, công
bằng, tiến bộ. Tuy nhiên còn tồn tại những hạn chế không tưởng, ông
VâyHlinh không thừa nhận cách mạng công nhân là kết quả của mâu thuẫn
kinh tế- xã hội dưới CNTB tạo ra. Ơng cho rằng nó là kết quả bùng nổ
mang tính tự phát.
Ơng VâyHlinh cho rằng “lực lượng chịu vai trị tiên phong đấu tranh
chống CNTB khơng phải là cơng nhân mà đó là tầng lớp vơ sản lưu
manh”. Ơng phủ nhận vai trị cách mạng của cơng nhân, và từ đó phủ nhận
vai trị của GCCN trong việc tham gia đấu tranh chính trị. Ơng khơng thừa
nhận việc cải tạo xã hội bằng con đường cách mạng mà đặt hy vọng của sự
ra đời xã hội mới bằng việc thiết lập khu di dân CSCN.
b. Nội dung, tư tưởng CNXH tiểu tư sản của Pruđơng (Pháp, 18091865)
Ơng Pruđơng phê phán và lên án lịng tham lợi ở nạn cho vay nặng lãi
và tình trạng bóc lột của tư bản. Nhưng không phủ nhận sự tồn tại của tư

hữu nói chung mà ơng phủ nhận sự tồn tại của tư hữu lớn tức là phủ nhận
sự tồn tại của chế độ đại tư hữu. Theo quan niệm của ông Pruđông thì
nguyên nhân tạo ra sự bất công là khơng phải do từ chế độ tư hữu, vậy thì
đó là do việc trao đổi không ngang giá, không công bằng trong những sản
phẩm. Ông phủ nhận yêu cầu xã hội hoá tư liệu sản xuất và đồng thời là
phủ nhận cách mạng và cũng không tán thành cải tạo xã hội cũ bằng con
đường cách mạng. Ơng Pruđơng chủ trương thiết lập xã hội mới, đó là
những người sản xuất tư nhân bình đẳng, trong đó bao gồm cả tư bản và
cơng nhân. Ơng Pruđơng đưa ra các biện pháp chủ yếu như: trao đổi các
sản phẩm dựa trên cơ sở giá trị lao động và không đồng tiền; tiến hành các
hoạt động tiến dụng lợi tức thấp, xoá bỏ quyền thừa kế để qua đó chuộc
13


dần và phân phối lại các sở hữu lớn cho người lao động. Và ơng Pruđơng
cịn chủ trương liên hiệp các chủ xí nghiệp nhỏ, thợ thủ cơng, thương nhân
và công nhân là tổ chức chịu trách nhiệm và là tổ chức phân phối sản
phẩm.
c. Quan niệm CNXH vơ chính phủ của M.A.Bacunin (Nga, 18141876)
Ông M.A.Bacunin cho rằng nguyên nhân đầu tiên của mọi sự bất bình
đẳng của chế độ bóc lột là từ tổ chức Nhà nước chứ khơng phải là do tư
bản hoặc chế độ làm thuê, cho nên đối tượng để đấu tranh đánh đổ là Nhà
nước. Ông cho rằng con đường để thủ tiêu tất cả các Nhà nước của các
quốc gia không phải do cách mạng XHCN mà đó là con đường tự phát kết
hợp với sự khởi động của một tổ chức có tính chất âm mưu, lấy tầng lớp vô
sản lưu manh cùng với đám trí thức gian hồ bất chấp giai cấp là lực lượng
đấu tranh để xoá bỏ Nhà nước chứ khơng phải là GCCN. Xố bỏ quyền
thừa kế là vấn đề mang tính nguyên tắc để chuyển tư liệu sản xuất từ sở
hữu tư nhân sang sở hữu xã hội cộng đồng tự trị. Theo ông M.A.Bacunin
xã hội mới trong tương lai là một tập hợp bao gồm toàn bộ những cộng

đồng tự trị cá biệt, hoàn toàn độc lập và khơng phụ thuộc vào nhau.
CNXH vơ chính phủ của ông M.A.Bacunin về thực chất có thể thấy
rằng tư tưởng của ông là tư tưởng CNXH tiểu tư sản.
d. Nội dung, tư tưởng CNXH tiểu tư sản của Druyrinh (Đức, 18331921)
Ông Druyrinh cho rằng các cuộc khủng hoảng kinh tế kết quả không
phải là do hiệu quả của mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế mà nó là trường
hợp ngẫu nhiên đi chệch ra ngồi con đường phát triển bình thường. Ông
cho rằng nguyên nhân tạo ra sự khủng hoảng là do sự lạc hậu về tiêu dùng
của nhân dân. Cịn mơ hình xã hội mới của ơng Druyrinh được quan điểm
đó là một hệ thống bao gồm một liên bang của các công xã kinh tế. Mối
liên bang là một cộng đồng, mối cộng đồng bao gồm những người gắn bó
14


với nhau do quyền công cộng của họ được sử dụng một diện tích đất đai
cùng một nhóm xí nghiệp để cùng nhau sản xuất và cùng tham dự vào việc
thu nhập.
3. Chủ nghĩa tư sản
Cũng trong tác phẩm “Tuyên ngơn Đảng Cộng sản”, C.MácPh.Ăngghen đã trình bày và phân tích rất rõ về nội dung, tư tưởng của
CNXH bảo thủ hay CNXH tư sản.
Những nhà XHCN tư sản muốn duy trì những điều kiện sinh hoạt của
xã hội hiện đại mà khơng có những cuộc đấu tranh và những nguy hiểm do
những điều kiện sinh hoạt ấy nhất định phải sinh ra. Họ muốn duy trì xã
hội hiện đại nhưng được tẩy trừ hết những yếu tố làm đảo lộn và làm tan rã
nó. CNXH tư sản muốn “trong xã hội của họ chỉ tồn tại GCTS mà khơng
có GCVS”, GCTS họ quan niệm cái thế giới mà nó đang thống trị là thế
giới rất tốt đẹp cả. CNXH tư sản đem hệ thống hố ít nhiều triệt để cái
quan niệm an ủi lịng người ấy. Một hình thức khác của CNXH tư sản là cố
làm cho công nhân chán ghét mọi phong trào cách mạng, bằng cách chứng
minh cho GCCN thấy rằng khơng phải sự cải biến chính trị này khác, mà

chỉ có sự cải biến về điều kiện sinh hoạt vật chất, về quan hệ kinh tế mới
có thể có lợi cho cơng nhân mà thơi. Một bộ phận trong GCTS tìm cách
chữa bệnh tật xã hội, là cốt để củng cố xã hội tư sản.
4. Chủ nghĩa cơ hội
a. Quan niệm về CNXH phi Mácxít của F.Látxan (Đức, 1825- 1864)
Ông chủ trương “GCCN phải đấu tranh để giải phóng mình về mặt xã
hội, tức là giải phóng mình về mặt kinh tế khơng cịn áp bức bất công”.
Nhưng không phải thông qua con đường cải tạo xã hội bằng cách mạng mà
bằng cách giành chính quyền, bằng con đường phổ thông bàu phiếu và
thành lập những hội sản xuất CNTB với sự giúp đỡ của Nhà nước. Gắn
15


liền với quan điểm hồ bình, cải lương xã hội thì ơng F.Látxan cơng khai
phủ nhận ý nghĩa của cuộc đấu tranh của GCCN để cải thiện điều kiện đời
sống sinh hoạt. Họ chủ trương “phong trào công nhân chỉ cần tiến hành
những thay đổi có tính chất cải lương trong các quan hệ xã hội của CNTB
là có thể dần dần và hồ bình tiến lên CNXH, mà khơng cần thơng qua
cách mạng xã hội xố bỏ CNTB”. Và F.Látxan quan điểm rằng “tiền công
bị chi phối của quy luật sắt, là sự chi phối tồn xã hội. Tình trạng này sinh
đẻ nhiều của sản xuất lao động rồi nó dẫn đến làm giảm giá”. Ơng
F.Látxan phủ nhận vấn đề liên minh giai cấp và chủ nghĩa quốc tế vơ sản
của GCCN bởi vì “đối diện với GCCN thì các phong trào khác đều là phái
phản động”. Và mục tiêu quốc tế cao nhất trong cuộc đấu tranh của GCCN
là tình hữu nghị giữa các dân tộc.
b. Nội dung, tư tưởng Chủ nghĩa cơ hội phái giữa C.Causky (Nga,
1854- 1938)
Ơng C.Causky trong nửa đầu q trình hoạt động chính trị của ơng thì
đứng trên lập trường Chủ nghĩa Mác, nhưng điều đáng tiếc là nửa sau của
quá trình hoạt động chính trị của ơng lại phản bội Chủ nghĩa Mác và trở

thành phần tử cơ hội phái giữa. Ông thực hiện việc điều hoà giữa chủ
nghĩa cơ hội hữu khuynh với Chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa cơ hội phái giữa
là loại chủ nghĩa cơ hội nguy hại hơn chủ nghĩa cơ hội phản bội phái hữu.
Về nội dung, tư tưởng của phái giữa này là, họ không tiến hành việc
phân tích lập luận để bác bỏ nguyên lý của Chủ nghĩa Mác, và trái lại vẫn
tỏ vẻ tuyệt đối trung thành với các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác; tuy
nhiên trong q trình phân tích lý giải vấn đề thì ơng C.Causky lại dùng
nghệ thuật của tư sản vừa mang tính chất tinh vi và dạo quyền để xuyên tạc
bóp méo làm sai lạc tinh thần cách mạng trong các nguyên lý của Chủ
nghĩa Mác, dẫn đến sự tầm thường hố Chủ nghĩa Mác theo hướng có lợi
cho việc bảo vệ lợi ích tư sản. Họ xuyên tạc, làm tầm thường hoá Chủ
nghĩa Mác trên một loạt vấn đề như “vấn đề chủ nghĩa đế quốc”. Cho rằng
16


“Chủ nghĩa đế quốc là CNTB cơng nghiệp bóc lột CNTB nơng nghiệp”.
Ơng C.Causky nêu lên thuyết siêu đế quốc với nội dung cơ bản là “sự phát
triển của CNTB trong tương lai sẽ dẫn đến sự xuất hiện của tổ chức tư bản
độc quyền tồn thế giới. Từ đó sẽ có điều kiện giải toả triệt để các mâu
thuẫn”, phủ nhận thời kỳ quá độ lên CNXH.
c. Nội dung, tư tưởng Chủ nghĩa cơ hội tả khuynh Tơrốtsky (Nga,
1879- 1940)
Ơng Tơrốtsky về hình thức bên ngồi là người đứng ở phái giữa
nhưng thực chất ông lại thuộc về phái Menxêvích.
Trong thời kỳ nội chiến cách mạng và chiến tranh chống can thiệp
1918- 1920 thì ơng nêu khẩu hiệu “chiến tranh cách mạng” và chủ trương
kiên quyết khơng ký hồ ước Brét với Đức trong khi tình hình so sánh
tương quan lực lượng thì vơ cùng bất lợi cho chính quyền Xô viết. Và sau
thời kỳ nội chiến cách mạng và chiến tranh chống can thiệp thì Tơrốtsky
và những người cùng phái kiên quyết chống lại V.I.Lênin và Ban Chấp

hành Đảng Bơnxêvích Nga trên một loạt vấn đề. Đó là những vấn đề về
đòi tiếp tục giữ nguyên và thực hiện một cách kiên quyết hơn nữa chính
sách Cộng sản thời chiến. Và địi Nhà nước hốn ngay lập tức các tổ chức
cơng đồn bằng cách vận dụng các phương pháp qn sự cho các tổ chức
cơng đồn trong q trình xây dựng xã hội mới. Và ơng Tơrốtsky địi bỏ
qua việc chiếu đối lợi ích của nơng dân để tất cả tập trung cho phát triển
cơng nghiệp và xố bỏ tất cả các xí nghiệp quốc phịng vì ơng Tơrốtsky
cho rằng “loại xí nghiệp này khơng sinh lợi…”.
5. Chủ nghĩa xét lại
a. Nội dung, tư tưởng Chủ nghĩa xét lại cực hữu E.Béstanh (Đức,
1850- 1932)
Chủ nghĩa xét lại xuất hiện ngay trong phong trào công nhân dưới
chiều bài “phê phán”, “xét lại”, thậm chí “phát triển” Chủ nghĩa Mác. Chủ
17


nghĩa xét lại là một cơ sở tư tưởng của trào lưu xã hội- dân chủ, do
E.Béstanh là người khởi xướng, E.Béstanh là một trong lãnh tụ của Đảng
xã hội- dân chủ Đức vào cuối thế kỷ XIX.
Về nội dung, tư tưởng của chủ nghĩa xét lại E.Béstanh thì hồn toàn
trái với quan điểm của C.Mác- Ph.Ăngghen. Chủ nghĩa Mác cho rằng “đấu
tranh giai cấp nhất định sẽ dẫn đến chun chính vơ sản và CNXH”, cịn
E.Béstanh lại cho rằng “việc kết hợp giữa CNXH với cách mạng là sai
lầm, vì đây là hai vấn đề khác nhau về nguồn gốc và bản chất”. Trái với
quan điểm của C.Mác- Ph.Ăngghen: “CNTB càng phát triển thì mâu thuẫn
CNTB sẽ phát triển càng gay gắt, sâu sắc thêm”, còn E.Béstanh lại cho
rằng “CNTB càng phát triển thì GCCN có tăng lên, tiền lương của tư bản
trả cho công nhân cũng phải tăng lên, nhưng trong xã hội tầng lớp trung
lưu lại càng tăng lên”. Ông E.Béstanh cho rằng: “CNTB càng phát triển,
tương lai phải đưa CNTB tiến đến thời kỳ khủng hoảng chầm trọng hơn”,

“CNTB càng phát triển thì càng tạo ra điều kiện, khả năng để khắc phục
khủng hoảng có nhiều hiệu quả hơn”. Ông E.Béstanh đề ra các chủ trương
“GCCN khơng cần đấu tranh chính trị vì chế độ dân chủ tư sản nó đã trở
thành dân chủ hồn thiện nhất”, “Nhiệm vụ chủ yếu của GCCN là tập
trung đấu tranh về kinh tế để cải thiện nâng cao đời sống nhân dân”. Ông
E.Béstanh nêu lên khẩu hiệu: “phong trào là tất cả, mục đích khơng là gì
cả”. Ơng cịn chủ trương “GCCN tiến hành cuộc đấu tranh bằng con đường
hồ bình, cải lương xã hội sử dụng quyền bàu phiếu phổ thông, kết hợp với
yêu sách, với các quyền dân chủ khác để thúc đẩy CNTB đi và từng bước
phát triển dần lên CNXH”.
Họ quan niệm rằng “Chủ nghĩa Mác đã không chịu đựng được thử
thách của thời gian, những phát triển mới của CNTB mở ra khả năng thực
hiện “một phần CNXH” trong khuôn khổ xã hội tư sản hiện hành. Vì vậy,
khơng cần đến cách mạng XHCN và chun chính vơ sản”. Quan niệm của
chủ nghĩa xét lại là họ cố biện bạch rằng “chế độ dân chủ tư sản, quyền
18


bàu phiếu phổ thống sẽ thủ tiêu đấu tranh giai cấp”. E.Béstanh coi con
đường duy nhất đi tới CNXH là hoạt động của các cơng đồn từng bước
đấu tranh địi cải thiện hoàn cảnh của GCCN, xây dựng hợp tác xã sản xuất
và hợp tác xã tiêu thụ. Theo họ thì, đây là cơ sở phát triển thành chế độ xã
hội mới - xã hội XHCN. Ngay từ khi ra đời, chủ nghĩa xét lại đã trở thành
một hiện tượng quốc tế, ngoài các phần tử cơ hội, cải lương trong Đảng xã
hội- dân chủ Đức, chủ nghĩa xét lại cịn được sự đồng tình của các phần tử
cải lương ở Pháp, Bỉ, Nga và ở nhiều Đảng xã hội- dân chủ khác.
Nhưng chủ nghĩa xét lại, đã bị Bà R.Lúcxămbua phê phán toàn bộ hệ
thống quan điểm E.Béstanh. Bà R.Lúcxămbua là người đầu tiên kịch liệt
chống chủ nghĩa xét lại một cách có căn cứ khoa học và theo tinh thần
Mácxít. Bà R.Lúcxămbua đã chứng minh một cách xác đáng rằng “chủ

nghĩa cơ hội khơng thể dung hồ với Chủ nghĩa Mác, khơng thể có CNXH
nào khác ngồi CNXH Mácxít”.
6. Chủ nghĩa xã hội dân chủ
Một đặc điểm nổi bật của các quan niệm về CNXH phi Mácxít là các
trào lưu CNXH- DC, là tổ chức chính trị mang tính đa dạng và nhiều màu
sắc trong quan niệm, tư tưởng của nó. Họ cho rằng “sự thắng lợi của nhân
dân, của dân chủ- chính trị đã thể hiện đầy đủ trong nền dân chủ tư sản.
Nói cách khác, họ đồng nhất nền dân chủ tư sản với thắng lợi của dân chủchính trị. Do đó, phong trào cơng nhân chỉ cần tận dụng cơ sở dân chủchính trị tư sản để tiếp tục phấn đấu có đầy đủ dân chủ- xã hội hơn, như
vậy sẽ có CNXH”. CNXH- DC trở thành cơ sở tư tưởng và lý luận chính
thức của trào lưu xã hội- dân chủ hiện đại, nhưng bản chất của nó thì hồn
tồn trái với CNXH khoa học.
Các trào lưu CNXH- DC, họ luôn luôn đưa ra các quan niệm, những
luận điểm phi Mácxít để phê phán, so sánh tổng quát lý luận và tư tưởng
với các quan điểm, những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác. Nếu Chủ
19


nghĩa Mác đã quan niệm đấu tranh giai cấp và bạo lực cách mạng một cách
toàn diện trên quan điểm biện chứng chứ khơng lược quy đơn giản nó vào
hoạt động lật đổ và gây chiến tranh. Chủ nghĩa Mác không làm đông cứng
những khái niệm và phạm trù này bởi cách trừu tượng hố nó khỏi tính lịch
sử cụ thể, và sự biến hố khơn lường của các sự kiện và hồn cảnh chính
trị. Bạo lực là sức mạnh đủ dẫn đến những cải biến cách mạng. Nó là sự
chung đúc tổng hợp mọi khả năng và hình thức dẫn đến sức mạnh. Cịn
quan niệm CNXH phi Mácxít của các nhà xã hội- dân chủ thì cho rằng,
đấu tranh nghị trường, đấu tranh hồ bình, cơng khai, hợp pháp, tập luyện
dân chủ cũng tạo thành sức mạnh. Thực chất vấn đề là ở cách mạng hay cải
lương là sự cải biến sang một chất khác của chế độ xã hội hay giữ nguyên
trạng thái xã hội đó. Nếu CNXH khoa học vạch rõ chỉ có thơng qua đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội, GCVS và quần chúng bị áp bức bóc lột

mới có thể giải phóng mình khỏi ách thống trị của TBCN và xây dựng chế
độ xã hội mới do mình làm chủ, cịn CNXH- DC họ lại chủ trương điều
hoà mâu thuẫn và hợp tác giai cấp, đặt phong trào đấu tranh của GCVS và
quần chúng lao động trong khuôn khổ của những cải cách kinh tế mà
CNTB có thể chấp nhận được.
CNXH khoa học đưa ra quan niệm về CNXH là một chế độ xã hội
thuộc về hình thái kinh tế- xã hội cao hơn, khác về chất so với chế độ
TBCN, xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
thơng qua cách mạng chính trị để giành lấy chính quyền cho người lao
động, dùng chính quyền đó như một cơng cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới; cịn CNXH- DC, họ chủ trương một CNXH
trong khn khổ của CNTB, trong đó họ vẫn duy trì Nhà nước tư sản và
chế độ sở hữu tư sản. Đời sống của công nhân và quần chúng nhân dân lao
động biến chuyển thế nào là tuỳ thuộc vào kết quả của cải cách chứ khơng
phải là cách mạng giải phóng họ, đưa họ tới một vị trí xã hội khác.

20


CNXH khoa học nhấn mạnh tới vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN
trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội,
thì CNXH- DC trên thực tế, họ lại làm lu mờ và phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của GCCN, phủ nhận vai trò của GCCN trong cách mạng. Nếu CNXH
khoa học khẳng định sự cần thiết phải có chính Đảng của GCCN và Đảng
này nắm lấy vai trò lãnh đạo trong cuộc cách mạng giành chính quyền rồi
lãnh đạo tồn xã hội xây dựng CNXH, cịn CNXH- DC thì lại làm lu mờ
bản chất giai cấp của Đảng chính trị và vai trị tiền phong lãnh đạo của nó;
họ đưa ra một lý thuyết khác thay thế. Đó là Đảng như một cộng đồng,
không cần thuần nhất thế giới quan và cần xây dựng các hiệp hội, các đảng
phái chính trị cùng điều khiển đời sống chính trị theo hướng cân bằng lợi

ích, cân bằng quyền lợi.
CNXH khoa học trong lý luận xây dựng CNXH của mình thì đặt vấn
đề có tính nguyên tắc về bản chất giai cấp của Nhà nước kiểu mới, Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Xây dựng nền dân chủ XHCN, xác định
tính lịch sử, cụ thể của các mục tiêu bình đẳng, cơng bằng xã hội, dân chủ
và tự do… Cịn CNXH- DC thì họ đề ra một cách trừu tượng về Nhà nước
phúc lợi chung, Nhà nước của nhiều giai cấp, nhiều tập đoàn xã hội, nền
dân chủ đại nghị và đa nguyên chính trị, thay thế nội dung giai cấp, tính
quy định về kinh tế đối với các vấn đề tự do, cơng bằng, bình đẳng bằng
các sắc thái đạo đức chỉ thuần tuý là những nguyện vọng chủ quan.
Nếu CNXH khoa học quan niệm rằng cách mạng XHCN là một sự
nghiệp có tính chất quốc tế và CNXH gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của
GCCN thì quan niệm phi Mácxít của CNXH- DC đã hoặc là rơi vào lập
trường dân tộc hẹp hịi hoặc chỉ thấy tính nhân loại trừu tượng, xố nhồ
các ranh giới giai cấp. Và nếu CNXH khoa học xem Chủ nghĩa MácLênin là hệ tư tưởng, là lý luận và phương pháp, là thế giới quan khoa học
và lập trường chính trị của GCCN và quần chúng nhân dân lao động trong
cuộc đấu tranh vì thắng lợi triệt để của CNXH và CNCS thì CNXH- DC
21


họ lại công khai đoạn tuyệt với Chủ nghĩa Mác, chủ trương giải thể hệ tư
tưởng và trung lập thế giới quan.
Ngoài những nội dung, tư tưởng, quan niệm về CNXH phi Mácxít của
trào lưu xã hội- dân chủ từ giai đoạn C.Mác- Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã
trình bày trên, thì trong giai đoạn sau khi V.I.Lênin từ trần đến ngày nay
còn được biểu hiện những nội dung, tư tưởng, quan niệm về CNXH phi
Mácxít như:
- Ơng Tơrốtsky (1925- 1938) là nhóm đối lập mới, nội dung chủ yếu
là nêu quan điểm “do trình độ phát triển kinh tế- xã hội cịn thấp, CNTB
phát triển chưa cao. Nên Liên Xơ chưa có khả năng xây dựng thắng lợi

CNXH”, “Vì lẽ đó, Liên Xô cần tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp và
mở rộng việc đầu tư của tư bản nước ngồi”. Trong q trình phát triển,
duy trì kinh tế nơng nghiệp phải coi trọng để cao, phát huy vai trò của tầng
lớp trí Culắc (là tư sản nơng dân, đám người nơng dân có nhiều ruộng cho
th).
- Nội dung, tư tưởng, quan điểm của CNXH phi Mácxít Nam Tư. Xã
hội XHCN được xây dựng ở Nam Tư đó là xã hội XHCN tự quản, Nhà
nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý hành chính khơng trực tiếp quản lý kinh tế.
Động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội là liên minh XHCN của những
người lao động. Quan niệm về nền kinh tế thì thành phần kinh tế chủ yếu
của XHCN là kinh tế tiểu nông, là tổ hợp nông nghiệp và tổ chức kinh tếxã hội ở nông thôn. Về lực lượng chính trị đứng đầu là Nhà nước và Đảng
nhưng Đảng không trực tiếp xây dựng, lãnh đạo và quản lý kinh tế; về mặt
tổ chức thì Đảng tồn tại dưới dạng liên đoan của những người cộng sản; về
đối ngoại thì Tơrốtsky và những người cùng phái đưa ra quan điểm “việc
phân chia thế giới thành hai phe XHCN và TBCN vừa thiếu khách quan
vừa có hại”, họ chủ trương không gắn kết với cộng đồng XHCN và quan
hệ với cả CNTB, CNXH để nhằm xây dựng CNXH.

22


- Chủ nghĩa cơ hội, xét lại hữu khuynh của N.Khơrútsốp thể hiện quan
niệm về CNXH phi Mácxít như: về đối nội, thì nêu các quan điểm về
“Đảng tồn dân, Nhà nước toàn dân nhưng trong điều kiện xã hội của Liên
Xơ cịn phân chia giai cấp, Nhà nước phải là Nhà nước chun chính vơ
sản, tức là Nhà nước pháp quyền XHCN”. Vào giữa những năm 50 và cuối
những năm 60 của thế kỷ XX, họ nêu nhận định: “CNXH đã thắng lợi
hoàn toàn và triệt để ở Liên Xơ”, và từ nhận định đó họ đề ra chủ trương
“xây dựng CNCS trong vòng 15 năm, 20 năm”. Về đối ngoại, thì họ chủ
trương thực hiện thuyết tam hồ, tức là thuyết về chung sống hồ bình, thi

đua hồ bình và q độ hồ bình.
- Nội dung, tư tưởng, quan niệm về CNXH phi Mácxít của phái tả
khuynh tiêu biểu là Mao Trạch Đơng. Ơng Mao Trạch Đơng quan điểm
“súng đẻ ra chính quyền”, đưa ra chủ trương thực tiễn, cuối những năm 70
với chủ trương “đài nhạy vọt xây dựng CNXH nhiều, nhanh, tốt, rẻ…”, họ
quan niệm “giai cấp nông dân là động lực chủ yếu của cách mạng”, và cho
rằng “càng nghèo càng thiết tha cách mạng”, “phương pháp cách mạng là
lấy nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới”. Và đến tháng 8 năm
1966, ông Mao Trạch Đông phát động cuộc đại cách mạng vô sản với khẩu
hiệu: “đấu tranh chống các phần tử tư sản trong Đảng”
- Chủ nghĩa Cộng sản ở châu Âu, tiêu biểu là Rôgiê Ganôđi. Một số
Đảng Cộng sản ở châu Âu quan điểm: “CNXH có nhiều mơ hình khác
nhau, ở nhiều nước khác nhau. Từ đó, vận dụng vào đặc điểm châu Âu và
hoàn cảnh lịch sử”. Họ cho rằng “do cách mạng khoa học- công nghệ phát
triển làm biến đổi cơ cấu xã hội, giai cấp và điều kiện sống của GCCN. Do
đó, GCCN về cơ bản đã được trung lưu hố”, “cách mạng khoa học- cơng
nghệ càng phát triển thì quá trình lao động sản xuất càng đi vào tự động
hoá, tạo ra giá trị thặng dư”, “do GCCN đã biến đổi, quá trình lao động sản
xuất đi vào tự động hố địi hỏi người lao động phải có trí thức”. Vậy vì lẽ
đó, họ cho rằng “tầng lớp trí thức là những cầm bánh lái của con tàu lịch
23


sử”. CNTB qua quá trình phát triển tạo nên truyền thống dân chủ, Nhà
nước dưới CNTB qua bầu phiếu phổ thơng thì khơng cịn là Nhà nước tư
sản, từ đó họ đưa ra chủ trương “Chấp nhận đa nguyên chính trị, đa Đảng
đối lập, đa nguyên về kinh tế và tư tưởng. Các Đảng thay nhau nắm chính
quyền theo kết quả đa số bầu cử của nhân dân”. Thông qua con đường đấu
tranh nghị trường để nhằm cải biến chế độ tư bản, từng bước thúc đẩy
CNTB tiến dần lên xã hội CSCN.

Tóm lại, CNXH khoa học là sự thống nhất giữa lý luận và hành động
thực tiễn để cải tạo thế giới bằng cách mạng, thực hiện giải phóng GCCN
và nhân dân lao động, giải phóng xã hội con người, đưa họ lên vị trí làm
chủ và vai trị sáng tạo lịch sử. Ngược lại, dù các nội dung, tư tưởng, quan
niệm của các trào lưu xã hội- dân chủ cũng thuần tuý chỉ là tìm đường đi
lên CNXH cho phù hợp thực tế. Nhưng ý đồ sâu xa của họ chính là bác bỏ
CNXH khoa học và chống lại CNXH hiện thực. Họ thể hiện cho thấy sự từ
bỏ lý luận Mácxít, nó chỉ là lời tun bố về CNXH, cịn trong thực tế thì
vẫn khơng giải phóng người lao động khỏi ách áp bức, bóc lột và hành
động của họ không thể đem lại những kết quả hiện thực về CNXH với
quần chúng nhân dân lao động.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC QUAN NIỆM VỀ CNXH PHI MÁCXÍT ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CNXH KHOA HỌC

Về mặt lý luận, ngay từ khi Chủ nghĩa Mác ra đời và phát triển vào
trong phát triển công nhân quốc tế từng thời kỳ lịch sử về các nội dung, tư
tưởng, quan niệm của các trào lưu xã hội- dân chủ cũng thuần tuý chỉ là
tìm con đường đi lên CNXH cho phù hợp thực tế. Nhưng ý đồ sâu xa của
họ chính là bác bỏ CNXH khoa học.
Sự tồn tại các quan niệm về CNXH phi Mácxít của các trào lưu xã
hội- dân chủ là những trở cạn lớn đối với quá trình hình thành và phát triển
Chủ nghĩa Mác và tuyên truyền Chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân,
24


nó gây nhận thức mơ hồ về quan điểm đấu tranh, làm phân tán tư tưởng và
khả năng để tập hợp lực lượng của phong trào công nhân.
Quan niệm về CNXH phi Mácxít nó có tác động tiêu cực kìm hạ sự
phát triển của phong trào công nhân về mặt tư tưởng và có sự tác động tiêu
cực đối với sự thống nhất của phong trào cơng nhân. Nó chống phá, xuyên

tạc Chủ nghĩa Mác- Lênin, những nguyên lý của CNXH khoa học, làm suy
yếu hệ tư tưởng của GCCN, làm tăng cường hệ tư tưởng của GCTS.
Về mặt thực tiễn thì các quan niệm về CNXH phi Mácxít của các trào
lưu xã hội- dân chủ nó tác động nhất định đến tư tưởng, làm dao động tổ
chức của phong trào cơng nhân, nó tập trung vào mục đích là làm mất
phương hướng đấu tranh của phong trào công nhân, làm suy yếu phong
trào công nhân dẫn đến làm suy yếu cơ sở bổ sung lý luận cho CNXH khoa
học.
Các quan niệm về CNXH phi Mácxít của trào lưu xã hội- dân chủ đã
chuyển vào phong trào công nhân trong lúc Chủ nghĩa Mác đang phát triển
tạo nên lực lượng cản của sự phát triển Chủ nghĩa Mác và tác động làm
phân tán tư tưởng của phong trào công nhân, đang trong quá trình phát
triển về số lượng cũng như nhận thức chính trị.
Quan niệm về CNXH phi Mácxít là sự tấn công Chủ nghĩa Mác, công
khai và phủ nhận các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác. Mục đích của nó
khơng có gì khác là nhằm làm dao động và sụp đổ hệ tư tưởng của GCCN,
nó tác động khơng chỉ trên lĩnh vực lý luận mà còn tác động rất nặng nề
sâu sắc đối với lịch sử phát triển của phong trào công nhân quốc tế. Đỉnh
cao của họ là sự tan rã của Quốc tế II và sự chia rẽ của phong trào cơng
nhân XHCN quốc tế.
Vì vậy, ý nghĩa của việc đấu tranh chống lại các quan niệm về CNXH
phi Mácxít của trào lưu xã hội- dân chủ là tất yếu để phát triển học thuyết
Chủ nghĩa Mác, các nguyên lý CNXH khoa học. Chính từ việc phê phán
quyết liệt những sai lầm của CNXH hiện thực, CNXH khoa học trong thời
25


×